Thời đức Phật còn tại thế, có vị Bà-la-môn tên Hắc Chỉ, hai tay cầm hai bình hoa vận thần thông bay đến dâng lên đức Phật. Ngài bảo:
- Buông xuống!
Tại Thiền viện Long Hổ, trên bức tường trước chùa, chư tăng đang chú tâm vẽ tranh rồng và cọp đấu nhau. Rồng thì ở trong mây cuộn mình lao xuống. Cọp thì chực sẵn trên núi dốc sức phóng vồ lên. Chư tăng cứ tô đi vẽ lại, đổi tới đổi lui mãi, nhưng nhìn chung cái thế vẫn chưa xứng. Vừa lúc ấy, Thiền sư Vô Đức (Thiền sư Thiện Chiêu ở Phần Dương) từ bên ngoài trở về, chư tăng liền mời Ngài xem và xin ý kiến.
Thiền sư Vô Đức xem xong, nói:
- Về hình dáng bên ngoài của rồng và cọp thì vẽ tốt rồi. Nhưng về đặc tính của rồng và cọp thì các huynh có hiểu chăng? Rồng trước khi tấn công thì đầu nó phải rút lùi về phía sau. Cọp khi muốn nhảy vồ lên thì đầu nó phải hạ thấp xuống đất. Cổ rồng rút lùi về phía sau càng nhiều thì sức quật lại càng mạnh. Đầu cọp càng hạ sát mặt đất thì khả năng tấn công càng nhanh và nhảy vồ lại càng cao.
Một hôm, Thiền sư Dịch Thượng ngồi thiền vừa xuất định. Ngay khi đó, một hồi chuông ngân nga vang đến. Sư chú ý lắng nghe đợi cho đến khi tiếng chuông dứt. Sư gọi Thị giả hỏi:
- Sáng sớm hôm nay ai thỉnh chuông vậy?
Thị giả thưa:
- Đó là một vị Sa-di mới đến tham học.
Sư bảo thị giả gọi Sa-di ấy đến. Sư hỏi Sa-di:
- Sáng sớm hôm nay con dụng tâm như thế nào để thỉnh chuông?
Sa-di ngạc nhiên không biết vì lý do gì mà Ngài hỏi như vậy, bèn thưa:
- Con không có tâm tình đặc biệt gì khác, chỉ là thỉnh chuông là thỉnh chuông vậy thôi.
Thiền sư Dịch Thượng bảo:
- Con chẳng thấy được sao? Khi mà con thỉnh chuông thì trong tâm con nhất định là có niệm đến một chút gì. Nhân vì hôm nay ta nghe tiếng chuông của con âm thanh nó rất là trong sáng, chính người có chánh tâm, thành ý mới phát ra được tiếng chuông này .
Sa-di ngẫm nghĩ một chút rồi thưa:
- Bạch Thầy! Thật ra thì cũng không có ý niệm gì đặc biệt. Chỉ là trước kia chưa đi tham học, Thầy của con ở chùa thường răn nhắc “Khi thỉnh chuông, phải tưởng đến chuông tức là Phật, phải thật chí thành trai giới, kính chuông cũng như Phật. Dùng cái tâm thiền như lúc nhập định và dùng cái tâm lễ bái mà thỉnh chuông.”
Nghe xong, Thiền sư Dịch Thượng rất hài lòng và ân cần khuyên nhắc thêm:
- Sau này khi có xử lý các việc, con cũng chẳng nên quên được một điều là “đều nên giữ gìn cái tâm thiền đã thỉnh chuông sáng hôm nay.”
Sa-di nghe như vậy rồi, từ nhỏ cho đến khi trưởng thành, chú nuôi thành một thói quen như vậy, luôn luôn cung kính, kính cẩn. Chẳng những thỉnh chuông mà khi làm bất cứ một việc gì, hễ vừa động một chút niệm thì liền nhớ đến lời khai thị của Thiền sư Dịch Thượng và vị Thầy thế độ nên luôn luôn giữ cái tâm thiền thỉnh chuông đó thôi.
Sau này, Sa-di chính là Thiền sư Sâm Điền, Ngộ Do.
Thủa bé, Ngài dung nghi trang nhã, toàn thân màu vàng, ánh sáng chiếu rất xa. Thầy tướng xem tướng ngài nói:
- Đứa bé nầy đời trước có phước đức thù thắng, lẽ ưng xuất gia.
Ngài giáng sinh ở xứ trung Ấn Ðộ, cha là vua Tịnh Phạn, mẹ là Hoàng Hậu Ma Da, Thuở nhỏ Ngài diện mạo càng thêm khôi ngôi, tài năng càng phát lộ gấp bội. Mặc dù như thế Ngài không bao giờ tỏ vẻ ngạo mạn, khinh người. Ngài có một thái độ rất hòa nhã ôn hòa, vô tư, bình đẳng. Mặc dù sống một cuộc đời quá đầy đủ: Nào chức tước danh vọng, nào lâu đài cung điện, nào đàn ca múa hát, nào vợ đẹp con ngoan, nhưng Ngài vẫn thấy lòng mình nặng trĩu bao nỗi băn khoăn, thắc mắc. Ngài cho cảnh đời Ngài đang sống đây không phải là hạnh phúc chân thật, mà là giả dối, mê muội, chỉ làm cho kiếp sống thêm nặng nề đau khổ.
Page 4 of 4