TT.Thích Tâm Hạnh
A. NÓI THÊM VỀ TỰ TÁNH GIÁC SÁNG
1. CHƯA NGỘ, CÒN TRONG SANH DIỆT.
Qua các phần trên cho thấy, gạn tột cùng công phu, sẽ nhận ra “Giác là tu”. Có thể chưa tột được nguồn tâm, nhưng khi còn trong quá trình hạ thủ công phu tu tập thì giác sáng là cách dụng công thẳng đến tâm tánh. Sống ngay tánh giác sáng đó mới khế hợp tự tâm, mới có lúc đủ duyên bừng ngộ. Sẽ thấy rõ, công phu như thế là đã khế hợp với chỗ Thiền sư Hàm Thị nói: “Ngoài phân biệt vẫn lưu lại căn tánh để chờ đợi phát minh”.
CHƯƠNG 5:
TỔNG QUAN DỤNG CÔNG TU TẬP THIỀN – CÁI BIẾT
1. DẪN NHẬP.
Con người khác với vạn vật là có hiểu biết. Chư Phật, thánh nhân sáng biết, an lạc diệu thường. Chúng ta cũng biết, nhưng lại dẫy đầy khổ đau. Đồng thời là biết, nhưng tại sao lại còn đau khổ và hết đau khổ không đồng. Như vậy là do ở người này còn khổ, người kia thì không, hay tại mỗi chúng ta?
TT.Thích Tâm Hạnh
CHƯƠNG 4:
BUÔNG XUỐNG
1. DẪN NHẬP.
Thời đức Phật còn tại thế, có vị Bà-la-môn tên Hắc Chỉ, hai tay cầm hai bình hoa vận thần thông bay đến dâng lên đức Phật. Ngài bảo:
Buông xuống!
TT.Thích Tâm Hạnh
CHƯƠNG 3:
NGUYÊN LÝ DỤNG CÔNG TU TẬP THIỀN
1. DẪN NHẬP.
Còn là chúng sanh thì còn đau khổ. Không ai trong chúng ta muốn mình khổ đau, ai cũng muốn vượt khổ. Mà muốn vượt khổ tức là muốn tu hành, bởi tu hành để hết khổ, được an vui. Cũng thế, hiện nay chúng ta phát tâm tu hành là vì muốn chấm dứt khổ đau, được giải thoát an vui mãi mãi. Đồng thời muốn cứu cho tất cả chúng sanh đều được như thế. Muốn vậy, cần phải tìm ra nguyên nhân chính khiến cho con người khổ đau là gì? Kể ra thì nhiều, nhưng nói tóm gọn lại thì con người bị đau khổ bởi hai nguyên nhân chính, đó là vô minh, mê mờ và loạn động, sanh diệt.
TT.Thích Tâm Hạnh
CHƯƠNG 2:
CĂN BẢN DỤNG CÔNG TU TẬP THIỀN (tiếp theo)
5. CÁC LƯU Ý KHÁC:
5.1. Sự tiến bộ.
Có tu tập, dụng công đúng pháp, miên mật thì chắc chắn sẽ có sự tiến bộ. Muốn công phu tu tập thiền được đắc lực thì yếu tố cần quan tâm là sự liên tục, không để gián đoạn. Không phải siêng thì ngồi thiền, hôm nào lười biếng thì nghỉ ngơi. Dụng công theo kiểu một ngày nắng mười ngày mưa như thế thì khó có thể tiến bộ được.
TT.Thích Tâm Hạnh
CHƯƠNG 2:
CĂN BẢN DỤNG CÔNG TU TẬP THIỀN
1.THIỀN LÀ GÌ?
Thay lời tựa
Tâm tánh vốn thênh thang, không ô hộc tròn vuông giới hạn của ngằn mé. Thể ấy vắng bặt không hình tướng, ngàn thánh khó dò tìm. Bởi nó chính là mình, là mỗi một chúng ta, người ngoài không thể ra tay, để mắt thấu. Đúng ra thẳng đây liền nhận, nhưng do nghiệp thức che đậy, vì thế người người trước mắt lầm qua. Chúng sanh phước ít nghiệp nhiều, vọng tập sâu dày, cho nên phần nhiều phải quyết chí hạ thủ công phu, mới mong suốt tột.
TT.Thích Tâm Hạnh
Hòa thượng Tôn sư thượng Thanh hạ Từ, Tông chủ Thiền phái Trúc Lâm đã tiếp nối phục hưng Thiền phái Trúc Lâm Việt Nam, cho pháp Thiền nước Việt sáng lại trong thời kỳ đương đại của thế kỷ 20 – 21 này. Ngài uyển chuyển lập này phương tiện, giúp nhiều người trên mọi miền đất nước và khắp nơi trên thế giới biết đến Thiền tông Việt Nam, quy hướng tu tập, đạt được những lợi lạc nhất định. Đến nay, thiền được phổ cập, nhiều người thấm nhuần thiền cho nên rốt sau Ngài nói thẳng “Ngay thấy nghe biết, chân tâm đang hiện tiền”.[1]
TT.Thích Tâm Hạnh.
1. DẪN NHẬP.
Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử do Phật Hoàng Trần Nhân Tông khai sáng trong khoảng cuối thế kỷ 13. Đến thời Nhị Tổ Pháp Loa, Thiền phái được phát huy rực rỡ lên một tầm cao mới, Phật giáo bấy giờ trở thành quốc giáo.
Thầy Tâm Hạnh
1. DẪN NHẬP.
Quên tâm này gọi là mê, nhận lại bản tâm gọi là ngộ. Chúng sanh quên bản tâm, thấy biết theo trần cảnh, Phật nói đây là “Bối giác hiệp trần”. Người học đạo, quay lưng với trần cảnh để trở về nhận lại tánh giác chính mình, Phật dạy “Bối trần hiệp giác”.