Thứ Sáu 22/11/2024 -- 22/10/2024 (Âm lịch) -- 2568 (Phật lịch)
Cái tôi hoàn lại đất trời, trả tôi mặt mũi muôn đời chưa sanh. Chẳng rời trước mắt thường lặng trong, Còn tìm liền biết anh chưa thấy

Đặc trưng trong Phương pháp hành trì của Thiền phái Trúc Lâm VN: Chương 2

TT.Thích Tâm Hạnh

Chương 2: ĐẶC TRƯNG TRONG PHƯƠNG PHÁP HÀNH TRÌ CỦA THIỀN PHÁI TRÚC LÂM VIỆT NAM

 1.ĐIỂM ƯU VÀ KHUYẾT TRONG CÁC PHÁI THUỘC TÁNH TÔNG VÀ TƯỚNG TÔNG.

Điểm đặc biệt và nổi bật trong phương pháp hành trì của Thiền phái Trúc Lâ m Việt Nam đó là tránh hai điều khuyết và lấy hai điều ưu, dung thông giữa Tánh Tông và Tướng Tông.

1.1. Tánh tông.

Đây là Tông phái chủ yếu đứng trên lý tánh, đứng trên thể để lý luận và tu tập. Tông phái này chủ trương chỉ cần ngộ tánh liền xong, không qua phương tiện hay pháp môn nào cả. Tông này đứng trên thể để công phu và lý luận. Mà thể thì chỉ có tỉnh hoặc mê, nhớ hoặc quên, ngộ và chưa ngộ thôi chứ không làm gì thêm cả (vô công dụng hạnh). Thấy thì thẳng đó liền thấy, không thì trước mắt đã lầm qua, không bàn nói đến phương pháp hành trì. Ở phương diện này, cái ưu (hay) là trước đã nhận tánh, cái thấy đồng Phật Tổ. Cái khuyết là nếu căn cơ thấp, không theo kịp thì không biết cách hành trì.

 

 

 

 

 

 

 

1.2. Tướng tông.

Đây là Tông phái đứng trên sự, đứng trên dụng để lý luận và công phu tu tập. Do vậy, cần có phương pháp để tu, có Thầy hướng dẫn. Ở phương diện này, cái khuyết là chưa thấy tánh, chưa thấy đích đến, dễ rơi vào các tướng tạo tác sanh diệt của công phu. Cái ưu là có phương pháp để hành trì, có dụng công.

 

 

 

 

 

 

 

 

1.3. Tóm lại.

Nếu dụng công đúng, không sai lệch thì dù đứng ở phương diện nào đi nữa, nhưng mục đích đạt đến cuối cùng đều là chứng ngộ như nhau. Điểm đặc biệt của Thiền phái Trúc Lâm Việt Nam là tránh hai điều khuyết và lấy hai điều ưu vừa nêu trên. Tức là chủ trương hành giả tu hành trước phải thấy tánh, sau phải có công phu bảo nhậm cụ thể, kỹ lưỡng, rõ ràng; dung thông giữa sự và lý, viên dung tánh và tướng, thể và dụng.

 

2. ĐIỂM NỔI BẬT TRONG PHƯƠNG PHÁP HÀNH TRÌ CỦA THIỀN PHÁI TRÚC LÂM VIỆT NAM HIỆN NAY.

Lấy hai điểm ưu và tránh hai điểm khuyết của các Tông khác.

Vì sao gi là Thiền phái Trúc Lâm Việt Nam hiện nay?

Như đã nói tại Phần 2, Chương 1.

Thiền vốn là tâm thể sẵn vậy nơi mỗi người. Do đó, thiền là thiền, không có cổ đại hay đương đại gì cả. Cổ đại hay đương đại cũng chỉ là một tâm thiền. Cho nên thiền thì đồng nhau, không khác. Có khác chăng chỉ là phương pháp dụng công (yếu tố khế cơ). Sở dĩ phương pháp dụng công có khác là do Sở trường công phu, yếu tố con người và môi trường hoàn cảnh. Tuy có sai khác, nhưng tất cả đều chung một mục đích là đưa hành giả trực ngộ tâm thiền.(Xem đầy đủ tại mục 1, phần 2, chương 1).

2.1. Đối với pháp “Tri vọng”.

a)  Pháp tri vọngLấy cái ưu của DỤNG.

Hòa thượng Tông chủ Thiền phái Trúc Lâm hiện nay (Thiền sư Thích Thanh Từ) đã nói: “Tâm an nhiên, không duyên không trụ vào đâu, hằng tỉnh giác, tâm vọng khởi lên liền biết, không theo”. Giai đoạn này, hành giả còn sơ cơ, chưa ngộ tâm cho nên có pháp tu rõ ràng để dụng công. Đây là phát huy cái ưu của dụng (tướng tông). Đồng thời cũng là tránh được cái khuyết của thể (tánh tông), đó là không ngộ thì không có phương pháp để hành trì.

“Pháp tri vọng” tuy thấy như là có pháp để công phu. Nhưng chỉ là sáng biết, không theo vọng tưởng thôi, chứ không tạo tác sanh diệt, không rơi vào tướng của công phu. Pháp, nhưng chẳng phải có tướng của phương pháp cho nên cũng không phải là một pháp. Không pháp, nhưng hành giả có thể dụng công tu tập được, cho nên cũng là một pháp. Vì vậy, ở đây chỉ phát huy được cái ưu chứ không phải học theo công phu có hiện tướng như là tướng tông.

b)  Tánh tri vọng: Lấy cái ưu của THỂ.

Hòa thượng Tông chủ nói: “Đến đây, hành giả biết vọng tâm và chân tâm chỉ là hai mặt của một thực thể, như sóng biển và nước biển đều là nước. Đây là lúc “thấy dấu biết trâu” hay “kiến sắc minh tâm”. Tu trong giai đoạn này không căng thẳng mà luôn khéo tỉnh sáng, nhẹ nhàng bảo nhậm công phu...”. Hành giả nhận ra thể tánh và bảo nhậm, sống ngay bản tánh là tu hành. Đây là đứng trên thể mà tu tập, lý luận; là lấy cái ưu của thể (tánh tông). Đồng thời, đã tránh được cái khuyết của dụng (tướng tông).

2.2.  Đối với pháp “Biết là chân tâm”.

a) Pháp tu thiền Biết có chân tâm: Lấy cái ưu của DỤNG.

Hòa thượng Tông chủ nói: “Bằng tâm trong lặng sáng biết, hành giả nhận ra rõ ràng, mắt biết thấy là chân tâm, tai biết nghe là chân tâm…”. Đây là có phương pháp cụ thể cho những hành giả chưa ngộ tâm, nương vào đây để hành trì, dụng công tu tập; là đã phát huy được cái ưu của dụng (tướng tông). Đồng thời cũng đã tránh được cái khuyết của thể (tánh tông) là không triển khai cụ thể phương pháp hành trì.

Nói là có pháp mà không có tướng của pháp, không có dấu vết của công phu. Hành giả chỉ lặng tâm, sáng biết. Nhận ra ngay mọi thứ đang đối diện, chúng ta đang lặng sáng, thấy biết rõ ràng mà không động; là chân tâm thấy biết, chứ không tạo tác thêm gì.

b)  Chân tâm hiện tiền: Lấy cái ưu của THỂ.

Đến đây hành giả thể nhận rõ chân tâm: “Vốn tự không động, thường biết rõ ràng mà không cần khởi niệm phân biệt. Thênh thang còn mãi, vốn tự như vậy”. (Hòa thượng Tông chủ).

Đã nhận ra và sống bằng chân tâm thênh thang, trùm khắp. Đây là phát huy được cái ưu của thể (tánh tông). Đồng thời cũng đã tránh được cái khuyết của dụng (tướng tông) là chưa kiến tánh, chưa thấy đích đến; dễ rơi vào tướng tạo tác sanh diệt của công phu.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

3. ĐIỂM NỔI BẬT TRONG PHƯƠNG PHÁP HÀNH TRÌ CỦA THIỀN PHÁI TRÚC LÂM YÊN TỬ XƯA VÀ NAY.

Lấy hai điểm ưu và tránh hai điểm khuyết của các Tông khác.

3.1. Kiến tánh.

Đây là mặt phát huy cái ưu của THỂ (tánh tông).

a)    Trước phải thấy tánh.

Xưa: Nhị Tổ Pháp Loa.

Trong Thượng Thừa Tam Học Khuyến Chúng Phổ Thuyết, Tổ Pháp Loa nói: “Là người học Phật trước phải kiến tánh…”.

- Nay: Hòa thượng Tông chủ Thiền sư Thích Thanh Từ.

Trong sách Thiền Tông Việt Nam Cuối Thế Kỷ 20, ngài nói rõ yếu chỉ của Thiền tông Việt Nam hiện nay là trước phải kiến tánh, kế đến là khởi tu. Ngài nói: “Nói yếu chỉ thiền tông là kiến tánh khởi tu.”.

b)  Nói rõ về kiến tánh.

Xưa: Nhị Tổ Pháp Loa.

Trong Thượng Thừa Tam Học Khuyến Chúng Phổ Thuyết, ngài nói: “Thấy tánh, không phải có tánh bị thấy. Nói thấy, là thấy chỗ không thể thấy mà thấy vậy. Cho nên nói thấy, thấy không phải thấy, thì Chân tánh hiện. Tánh thấy là vô sanh, sanh thấy thì chẳng phải có. Chẳng có cái tánh thật, mà thấy thật không dời đổi. Thế nên gọi là chân thật thấy tánh”.

Có soi gương thì cũng chỉ có thể thấy được ảnh của nó thôi. Bởi con mắt chỉ thấy vạn vật mà không thể tự thấy nó. Nhưng khi nhìn thấy vạn vật thì biết mình có đôi mắt sáng. Cũng vậy, tánh thể là chính mình. Mình không thể thấy mình được cho nên nói “Không phải có tánh bị thấy...”. Tánh thể ấy vốn vô tướng, không sanh diệt. Tuy bất động nhưng hay thấy biết tất cả một cách rành rẽ rõ ràng mà không phải có ý phân biệt. Vì thế, các pháp tuy có sanh diệt, vạn vật tuy có đổi dời, nhưng với người kiến tánh thì thấy rất rõ tất cả vốn tự như như. Cho nên nói: “Chẳng có cái tánh thật, mà thấy thật không dời đổi. Thế nên gọi là chân thật thấy tánh”.

- Nay: Hòa thượng Tông chủ: Thiền sư Thích Thanh Từ.

Trong sách Thiền Tông Việt Nam Cuối Thế Kỷ 20, ngài nói: “Song chữ Kiến tánh dễ khiến người ta hiểu lầm. Bởi mọi người cứ đinh ninh rằng kiến là thấy bằng mắt. Phàm cái gì mắt thấy được đều là đối tượng ngoài mắt, có hình có tướng. Nếu Tánh giác của chính mình mà mắt mình thấy được thì không phải của mình nữa, vì đã thuộc về đối tượng. Hơn nữa, mắt chỉ thấy cái có hình tướng, Tánh giác không hình tướng làm sao mắt thấy được? Chẳng những thấy mà khởi hiểu tánh mình cũng không được. Vì Tánh giác là cái năng tri, nếu bị hiểu thì đã biến thành sở tri”.

Lời của Hòa thượng chỉ dạy đã quá rõ ràng. Như là ngài đã chỉ bày cho chúng ta thấu suốt những gì Nhị Tổ Pháp Loa xưa kia đã nói. Bởi đều từ trong thể tánh ấy nói ra cho nên lời nói của hai vị Tôn đức suốt thông, nhất quán nhau, không sai khác. Ngàn xưa, hiện nay và mãi đến ngàn sau, ai về trong ấy cũng thấy rõ và nói ra như nhau, không khác như thế. Đạt đến tánh thể rốt ráo tột cùng thì đồng thấy nhau trong ấy, không khác. Đây chính là tâm ấn tâm, là sự tiếp nối và kế thừa Tông phong thiền một cách rõ ràng, đúng nghĩa. Chỉ có người ngoài cuộc chưa kiến tánh mới sanh nghi ngờ và có nhiều lý luận. Như con cá ở dưới nước, có vẫy vùng kiểu gì thì ướt vẫn là ướt. Cũng thế, nếu chưa kiến tánh thì lý luận minh triết đến đâu cũng không thể chạm đến được thể tánh. Chẳng khác nào con cá, không thể nào ráo khô. Trừ khi nó hóa rồng, mới có khả năng xuống nước lên trời tự tại. Người kiến tánh cũng tương tự như thế.

Ở đây quý ngài đã phát huy được cái ưu của Tánh tông “Là người học đạo trước phải thấy tánh”. Hoặc là: “Kiến tánh khởi tu”. Đồng thời cũng tránh được cái khuyết của Tướng tông (không nhắc đến việc kiến tánh này).

3.2. Kế đến trì giới, tập định.

Đây là mặt phát huy được cái ưu của DỤNG (tướng tông).

a)  Trì Giới.

Xưa: Nhị Tổ Pháp Loa.

Trong Thượng Thừa Tam Học Khuyến Chúng Phổ Thuyết, ngài nói: Sau khi thấy tánh, phải gìn giữ giới cho thanh tịnh. Thế nào là giới thanh tịnh? Nghĩa là, trong 24 giờ, ngoài dứt các duyên, trong tâm không dấy động. Tâm không dấy động nên cảnh đến vẫn an nhàn. Mắt không vì cảnh khởi phân biệt, thức không vì pháp trần mà dính mắc. Ra vào không giao thiệp nên gọi ngăn dừng. Tuy nói ngăn dừng mà chẳng phải ngăn dừng. Nên biết tai, mũi, lưỡi, thân, ý cũng lại như thế. Đây gọi là giới Đại thừa, gọi là giới Vô thượng, cũng gọi là giới Vô đẳng đẳng. Tịnh giới này dù Tiểu tăng cho đến Đại tăng đều phải gìn giữ.”.

- Nay: Hòa thượng Tông chủ: Thiền sư Thích Thanh Từ.

Ngài cũng đã kế thừa phần giữ giới Thượng Thừa này trong Thanh Quy của các thiền viện Thiền phái Trúc Lâm Việt Nam hiện nay và các tác phẩm do ngài trước tác để hướng dẫn thiền sinh tu hành.

Tại sao đã kiến tánh mà còn nói đến gìn giữ giới? Có nghịch lý hay không?

Tổ Pháp Loa nói giữ giới: “...Trong 24 giờ, ngoài dứt các duyên, trong tâm không dấy động. Tâm không dấy động nên cảnh đến vẫn an nhàn”. Lục Tổ nói: “Ngoài lìa tướng là thiền, trong không loạn là định”. Như vậy:

- “...Trong 24 giờ, ngoài dứt các duyên”, tức là “Ngoài lìa tướng là thiền”.

- “Trong tâm không dấy động”, đồng nghĩa “trong không loạn là định”.

- “Tâm không dấy động nên cảnh đến vẫn an nhàn”. Ngay đây thiền định hiện tiền.

Đây là “Định cộng giới”. Trong thiền định, các lậu hoặc tự trừ, quấy ác vắng bóng, giới sẵn tự tròn đủ không khuyết.

Kế đến Tổ nói: “Mắt không vì cảnh khởi phân biệt, thức không vì pháp trần mà dính mắc. Ra vào không giao thiệp nên gọi ngăn dừng. Tuy nói ngăn dừng mà chẳng phải ngăn dừng. Nên biết tai, mũi, lưỡi, thân, ý cũng lại như thế”. Là đạt đến chỗ “Căn cảnh nhất như, ngay đó đạo giải thoát chân thật hiện tiền”. Đây là “Đạo cộng giới”. Trong thể đạo lặng sáng trùm khắp tự tại vô ngại ấy, căn trần không can hệ, vượt thoát tất cả, quấy ác tự trừ, giới tự tròn đủ.

Tóm lại.

Trì giới ở đây là Giới Thượng Thừa, là “Đạo cộng giới, định cộng giới” của 12 năm đầu thời Tăng đoàn của Phật chưa có pháp hữu lậu phát sinh, Phật chưa chế giới. Trong đạo chân thật, trong tâm thiền định ấy không có quấy ác, giới vốn tự tròn đủ.

Ngoài không dính kẹt sáu trần, trong tâm không dấy động, hành giả hằng sống bằng tự tánh đã thể nhận để giữ Giới Thượng Thừa như thế. Giữ giới mà không phải tạo tác, chỉ sống ngay tâm tánh đã kiến. Đây là sự bảo nhậm của hành giả sau khi đã ngộ, chứ không phải là việc giữ giới tu tập còn trong đối trị tạo tác thông thường. Đó là tu mà không tu, mới đạt đến chân thật tu hành.

b)    Tập thiền, tập định tâm.

- Xưa: Nhị Tổ Pháp Loa.

Thượng Thừa Tam Học Khuyến Chúng Phổ Thuyết, ngài nói: Nhân giữ giới vững chắc không động, kế đó mới tập thiền. Cái yếu chỉ của thiền định là thân tâm đều xả. Trước tập định tâm, thường tự suy xét: Thân này từ đâu mà đến? tâm này từ đâu mà có? Tâm không thật có thì từ đâu có thân? Thân tâm đều không thì pháp từ đâu mà có? Pháp không thật có, vì không có cái có, cái có có đó từ đâu mà có? Cái có có đó đã không thì không có pháp có. Mỗi pháp chẳng phải pháp, thì mỗi pháp nương vào đâu? Không có chỗ dựa nương thì pháp không phải mỗi pháp. Pháp này không thật cũng chẳng phải không thật. Chứng được thật pháp, mới hay chứng nhập thiền”.

Nay: Hòa thượng Tông chủ: Thiền sư Thích Thanh Từ.

Trong sách Thiền Tông Việt Nam Cuối Thế Kỷ 20, ngài nói: “Những cái suy nghĩ, tưởng tượng, phân biệt, ghét thương… thật là phiền toái, phức tạp, cái này sanh, cái kia diệt, chợt có chợt không, bất thường, khi dấy lên dường như có, tìm lại nó thì không. Chúng lập lòe như ánh lửa ma trơi, lúc ẩn, lúc hiện, chợt có chợt không. Qua ánh sáng trí tuệ của ta, chúng đã phơi bày bản chất hư ảo, không thật rồi. Ngược lại, cái tri giác nơi mắt, tai, mũi, lưỡi, thân… của ta, chúng luôn luôn có mặt, chưa từng sanh diệt, lặng lẽ bất động, thực tại hiện hữu, như ánh mặt trăng đêm rằm, vằng vặc sáng rỡ, trong veo lặng lẽ.”. Đây là chân tâm biết, tương đương với pháp “Biết là chân tâm” mà Hòa thượng đã hướng dẫn cho hành giả.

Kế đến ngài nói: “...Nếu không có tâm ấy, chúng ta làm sao biết được khi có vọng, khi không vọng, lúc có ý thức, lúc không ý thức. Cái biết được vọng quyết định cái đó không phải vọng. Vọng thì khi sanh khi diệt, cái thấy rõ sự sanh diệt của vọng quả là không phải sanh diệt. Vọng dấy lên do vin theo bóng dáng trần cảnh nên có tướng mạo, thuộc về nhân duyên. Cái biết vọng chưa từng dấy lên, chưa từng theo trần cảnh, nên không liên hệ đến nhân duyên. Cái thuộc nhân duyên thì có hợp có tan, có còn có mất, có sanh có diệt. Cái không thuộc nhân duyên không có tướng mạo, nên thường hằng, bất biến, chân thật. Nhận ra được cái đó là thấy Tâm chân thật ở trong”.  Đây là phần khế hợp với pháp “Tánh biết vọng” mà Hòa thượng đã hướng dẫn cho hành giả công phu.

Qua hai đoạn văn trên, chúng ta thấy rõ Hòa thượng chỉ dạy, ngộ tâm là ngộ thiền. Sống trọn vẹn bằng tâm ấy, phát huy diệu dụng bất tư nghì, là chứng nhập thiền như tinh thần Nhị Tổ Pháp Loa đã chỉ dạy ở trên (Chứng được thật pháp, mới hay chứng nhập thiền).

Đặc biệt, trong sách Thiền Tông Việt Nam Cuối Thế Kỷ 20, ngài nói: “…hành giả phản quán lại xem cái vọng này từ đâu mà khởi?”. Nếu dùng trí tuệ soi tột chỗ nơi phát khởi vọng niệm liền là không vọng.Mới hay ra, nơi ấy không nơi chốn, bởi vô tướng, trùm khắp, chứ không phải có một chỗ nơi cố định nào đó. Trong nhà thiền gọi là “Phương ngoại phương”. Trong ấy vốn tự không vọng mà linh thông, sáng rỡ rõ ràng; liền ngộ ra được chỗ tập thiền, tập định tâm mà Tổ Pháp Loa muốn chỉ bày. Đến đây, lại một lần nữa cho chúng ta thấy sự suốt thông và nhất quán giữa hai bậc Tôn đức đã kiến tánh, ngộ thiền. Bởi ai về trong ấy cũng thấy như vậy.

- Nói rõ hơn.

Nhị Tổ Pháp Loa nói:

- Nhân giữ giới vững chắc không động, kế đó mới tập thiền. Cái yếu chỉ của thiền định là thân tâm đều xả. Trước tập định tâm, thường tự suy xét...”. Tập định tâm ở đây không phải là tập tành, còn trong đối trị, động niệm tạo tác như người chưa kiến tánh. Chỉ dùng trí thấy rõ, do đó ngài nói: Thường tự suy xét”:

- Thân này từ đâu mà đến? tâm này từ đâu mà có? Tâm không thật có thì từ đâu có thân?”. Nghĩa là vì tâm ý khởi niệm, tạo nghiệp thiện ác lẫn lộn, mới có thân hiện nay. Hơn nữa, khi đang có thân, nếu không có tâm nhận biết thì thân này đồng với người đã chết, coi như không có. Do đó, vì có tâm cho nên mới có thân. Nhưng tâm ý vốn là những niệm thoạt có, thoạt không, không thật có. Theo nó thì mới tạo nghiệp, thành sự. Nếu không theo, soi xét lại tận nguồn cội thì nó liền mất tăm dạng. Tâm đã không thật có thì thân làm gì có? Tức là thân cũng giả tạm, huyễn có mà thôi.

- Thân tâm đều không thì pháp từ đâu mà có?”. Con người mình đây là chánh báo. Hoàn cảnh xung quanh có liên hệ đến cuộc sống của mình là y báo. Chánh báo là chủ đạo và y báo có ra tương ưng với chánh báo. Nghĩa là con người tạo nghiệp thiện ác thế nào thì sẽ có cõi nước, địa phương tương xứng như vậy. Do đó, vì có chánh báo cho nên mới có y báo.

Hơn nữa, nhờ có sự nhận thức của thân tâm (chánh báo) cho nên các pháp (y báo) mới tồn tại. Nếu người chết không còn nhận biết thì dù các pháp đang có cũng thành không. Vì vậy ngài nói: Thân tâm đều không thì pháp từ đâu mà có?”.

- “Pháp không thật có, vì không có cái có, cái có có đó từ đâu mà có? Cái có có đó đã không thì không có pháp có”. Nói cho dễ hiểu: Pháp (muôn sự muôn vật) đã không thật có thì không có ‘cái có’. ‘Cái có’ đã không thì ‘cái có’ được có ra từ ‘cái có’ trước đó, nhơn đâu mà được có? (Bởi cái sanh ra nó đã không). Cái có có đó đã không thì không có pháp có. Đây là ngài phá tột cùng tất cả những khả năng chấp còn có ‘cái có’ của con người, tức là phá tột cùng cái chấp có. Nếu còn cái nào nữa thì buông xuống luôn đi.

- Mỗi pháp chẳng phải pháp, thì mỗi pháp nương vào đâu? Không có chỗ dựa nương thì phápkhông phải mỗi pháp”. Nhân duyên hội tụ, các pháp nương vào nhau mà được hình thành. Nhưng đến đây, Tổ Pháp Loa đã thẳng thắn chia chẻ cho hành giả thấy ra tất cả đều không thật có. Đã không thật có cho nên mỗi pháp không còn là bản thân của mỗi pháp nữa, thì lấy cái gì nương vào cái gì để hình thành và tồn tại? Nếu không hình thành và tồn tại thì bản thân mỗi pháp không còn có giá trị thật.

Chỗ này, trong sách Thiền Tông Việt Nam Cuối Thế Kỷ 20, trang 128, Hòa thượng Tông chủ Thích Thanh Từ hiện nay đã viết: “…hành giả phản quán lại xem cái vọng tâm này từ đâu mà khởi?”. Tất cả từ thân này, tâm này, cảnh vật này và tất cả các “cái có” đều từ tâm mà sanh khởi. Nếu soi tột cùng, tìm tâm không thể được. Tâm không thể được thì tất cả nương vào đâu để có? Tất cả đã sạch trọi trơn, nhưng có tiếng thì chúng ta liền nghe, gió thoảng liền biết mát, thấy tất cả cảnh sắc rõ ràng mà không phải khởi tâm động niệm...; tánh thể đã hiện bày. Cái mà Tổ Pháp Loa gọi là “thật pháp” vô tướng đã hiển hiện rành rành ra đó. Buông cũng không được, bỏ cũng không xong. Thấy biết vượt cả năng và sở, có và không. Bất chợt hay ra, tất cả vẫn đang còn đó nhưng lại không tịch (vắng bặt), chưa từng sanh diệt bao giờ. Liền đó tỏ suốt chỗ mà xưa kia Tổ Pháp Loa đã nói: “Pháp này không thật cũng chẳng phải không thật. Chứng được thật pháp, mới hay chứng nhập thiền”.

- Tóm lại.

-  Các pháp do nhiều nhân duyên hợp lại, tựa vào nhau mà hình thành.

-  Mỗi nhân duyên cũng là một pháp. Nhưng mỗi pháp đã chẳng có, chẳng còn là mỗi pháp thì lấy cái gì để nương tựa vào cái gì?

-  Do không còn tựa nhau để thành, cho nên mỗi pháp không còn là mỗi pháp (không còn là chính nó).

-  Lúc này sẽ thấy ra, mỗi pháp tự ở ngôi vị của nó, nhưng vẫn suốt thông không ngăn ngại nhau. Ngay đây, tâm cảnh nhất như, chẳng phải một, chẳng phải khác, thấy biết vượt thoát căn trần, tự tại giải thoát.

-  Dùng trí soi tột như thế, sẽ bất chợt suốt thông, hoát toang ngộ ra: “Pháp ấy trụ ngôi pháp, tướng thế gian thường trụ”. (Kinh Pháp Hoa).

- Cái tâm ngộ ra ấy vốn tự trong lặng, không một vật; đồng pháp giới tánh rỗng rang không khác. Chính nó đang thấy biết tất cả mà không động, vượt thoát căn và cảnh. Do nó không phải là các pháp đối đãi sanh diệt của thế gian cho nên không nằm trong thật và không thật. Vì thế Tổ Pháp Loa nói: “Pháp này không thật cũng chẳng phải không thật. Chứng được thật pháp, mới hay chứng nhập thiền”.

- Đây là tâm pháp không sanh không diệt. Vốn vô tướng mà hay biết suốt các tướng, nhưng không phải như tướng pháp sanh diệt của thế gian, cho nên không nằm trong “Thật cùng chẳng thật”, mới đúng là pháp thật (thật pháp) không còn sanh diệt.

- Chứng được thật pháp này tức là đã chứng nhập thiền. Đây cũng chính là chỗ đức Phật nói kệ truyền cho Tổ Ca Diếp:

Pháp bổn, pháp, vô pháp,

“Vô pháp” pháp, diệc pháp.

Kim phó “vô pháp” thời,

Pháp pháp hà tằng pháp.

- Pháp bổn, pháp, vô pháp: Cái pháp gốc ấy là một pháp. Nhưng không có tướng, không giống như các pháp sanh diệt của thế gian.

- “Vô pháp” pháp, diệc pháp: Pháp thật ấy tuy vô tướng, nhưng không phải không ngơ, bởi nó đang hiển hiện ngay đây, không bao giờ thiếu vắng. Cho nên nó cũng là một pháp.

- Kim phó “vô pháp” thời: Nay trao cái pháp thật vô tướng này.

- Pháp pháp hà tằng pháp: Mỗi pháp, mỗi pháp, đâu từng là pháp. Tức là đang có nhưng vẫn không lặng. Mọi thứ đang vận hành mà cũng chưa từng sanh diệt bao giờ. Tuy tâm cảnh vắng bặt, nhất như, nhưng sáng biết rõ ràng linh thông tự tại đến chủ động. Sẽ hay ra, tất cả các pháp từ xưa đến nay vốn chưa từng sanh diệt. Tất cả pháp chẳng sanh, tất cả pháp chẳng diệt; đây là cái thấy của chư Phật. Ai ngộ ra, sống được và thấy ra như thế thì cái thấy đồng chư Phật, là Như Lai đang hiện tiền.

3.3. Đã là kiến tánh, sao lại còn tập định tâm? Có nghịch lý hay không?

Tuy sẵn vậy, nhưng muốn đạt được như vậy thì phải tập định tâm. Hơn nữa, người kiến tánh chưa phải là đã được chứng ngộ trọn vẹn. Tập ở đây không phải là tập tành, còn vụng về, tạo tác như người chưa kiến tánh. Chẳng phải động niệm quán chiếu, đối trị hay tạo tác thêm gì. Chỉ là dùng trí tuệ thấy tột các pháp để đạt đến chứng ngộ, thể dụng viên dung.

Do đó, trong Thượng Thừa Tam Học Khuyến Chúng Phổ Thuyết, Tổ Pháp Loa nói: “Bảy phen soi tám phen dùi, nhồi đi ép lại, thấu triệt chân nguyên. Chừng đó mới hay mượn pháp tòa của Phật Đăng Vương, nắm sừng thỏ, nhổ lông rùa, tay hoa một phen chuyển, bốn chúng thảy mịt mờ. Phát sanh vô thượng diệu huệ, chiếu soi không cùng”.

Hòa thượng Tông chủ Thiền sư Thích Thanh Từ đã nói trong sách Thiền Tông Việt Nam Cuối Thế Kỷ 20: “Chân lý đã thấy rõ rồi mà vọng niệm vẫn còn xâm lấn mãi. Vì thế sau khi giải ngộ cần phải cố gắng tu hành mới được chứng ngộ”. Hoặc cũng trong tập sách ấy, Ngài nói: “Sau khi kiến tánh cần phải khởi tu mới đạt chứng ngộ, giải thoát sanh tử, đắc thành Phật quả”.

Tóm lại.

Cái khuyết của tánh tông là có một số ít hành giả tuy thấy mục đích (tỏ ngộ, kiến tánh) mà chưa sống được, chưa phải là đã chứng ngộ. Lý luận thì tài mà tìm người thực tu thì quá hiếm hoi. Mới đạt được phần nào rồi tự mãn, dừng giữa đường mà không quyết chí công phu cho đến nơi đến chốn. Các Thiền sư đã phải nói: “Đất rộng người thưa, gặp nhau rất ít”. Vì tránh cái khuyết này cho nên chư vị Tổ sư và các Thiền sư Thiền phái Trúc Lâm Việt Nam đã đinh ninh dặn dò hành giả hết sức cặn kẽ, rõ ràng, khi kiến tánh rồi còn phải miên mật công phu, giữ giới Thượng Thừa, tập định tâm... cho đạt đến rốt ráo, viên mãn. Tu mà không phải có tướng của quán chiếu, đối trị, tạo tác. Thiền sư Nham Đầu Toàn Khoát dẫn lời cổ đức nói: “Chẳng phải trần chẳng xâm phạm ta, nhưng khi ta vô tâm thì nó cháy”. Cách trì giới thượng thừa và tập định tâm mà Tổ Pháp Loa chỉ dạy; hoặc Hòa thượng Tông chủ Thiền sư Thích Thanh Từ hiện nay nói: “Sau khi kiến tánh cần phải khởi tu mới đạt chứng ngộ, giải thoát sanh tử, đắc thành Phật quả”, cũng đồng một ý chỉ này. Đây là tu trong vô tu cho nên mới chân thật là tu hành. Hành giả phải khéo hạ thủ công phu như thế mới đắc lực, đạt đến rốt ráo viên mãn.

3.4.    Tu vô tu, không tu mà tu, mới thật là tu.

- Xưa: Nhị Tổ Pháp Loa nói: “Người tu tập thiền định không được chấp dụng công, dụng mà không có chỗ dụng, gọi là Thiền Thượng Thừa”.

Thiền sư Tông Mật nói: “Người tỏ ngộ tự tánh xưa nay vốn tự thanh tịnh... đó là Thiền Thượng Thừa. Vậy với người chưa tỏ ngộ thì sao? Lời dạy này của Tổ Pháp Loa đã mở ra một con đường, một nguyên lý cho những hành giả chưa tỏ ngộ tự tánh muốn tu Thiền Thượng Thừa. Nói là một con đường mà chẳng phải có tướng con đường gì cả. Chỉ là khéo tu trong vô tu, dụng mà không có chỗ dụng; đó là khéo tu tập Thiền Thượng Thừa.

Nay: Hòa thượng Tông chủ Thiền sư Thích Thanh Từ nói:

“...Hai phần “đốn ngộ tiệm tu” trên, tuy nói tu mà không có tu. Vì lẽ tu là sửa sang bồi bổ, tánh giác không tướng mạo làm sao sửa sang? Hơn nữa, tánh giác chẳng sanh chẳng diệt, nếu còn có tu là còn tạo tác, tức là còn sanh diệt. Đã không tu thì làm gì có chứng. Khi người tu hoàn toàn sống được với Tâm thể như như, gọi là chứng đạo hay thành đạo. Song sự thật có chứng cái gì, có thành cái gì? Chẳng qua sống viên mãn với Tâm thể của mình thôi. Tuy nhiên như thế, nói không tu mà tu. Vì khéo biết buông xả vọng niệm, hằng giác tỉnh luôn nên gọi là tu. Hoặc thường nhớ Ông chủ của mình, không giây phút nào để vọng tâm ngoại cảnh lừa gạt lôi đi gọi là tu”.

Lời của Hòa thượng Tông chủ hiện nay như là nói rõ ra những gì xưa kia Tổ Pháp Loa muốn nói. Sự so sánh này là do chúng tôi (người sau), chứ không phải Hòa thượng y cứ vào đây để so sánh biên tập. Cho thấy, hai ngài đã gặp nhau trong tâm ấn ấy. Càng minh chứng đây là một sự tiếp nối liền lạc mạng mạch Thiền phái Trúc Lâm Việt Nam, chưa từng đoạn dứt.

- Sơ lược lại nguyên lý cơ bản trong công phu tu tập Thiền Thượng Thừa.

Đó là “Tu mà không tu; không tu mà tu; mới đạt đến chân thật tu hành”.

Tổ Pháp Loa đã nói ở trên: “Người tu tập thiền định không được chấp dụng công, dụng mà không có chỗ dụng, gọi là Thiền Thượng Thừa”. Nghĩa là, còn dụng công thì không chấp vào phương pháp hành trì; là “Không được chấp dụng công”. Đã kiến tánh thì sống ngay bản tánh là công phu; là “Dụng mà không có chỗ dụng”. Đây là “Tu mà không tu; không tu mà tu; mới đạt đến chân thật tu hành”.

Cụ thể đối với người chưa kiến tánh, còn đang dụng công tu tập pháp “Tri vọng” thì chỉ là không theo vọng tưởng, sống bằng tâm thể lặng sáng, không khởi biết để biết theo, biết về vọng hay trừ dẹp vọng. Như thế:

-  Vì không theo vọng tưởng (không mê); dùng trí tuệ thấu suốt vọng tưởng vốn không thật (không lầm); sống bằng bản tâm chân thật “lặng mà sáng biết”; là đang tu. Nhưng hành giả không đối trị, không tạo tác, cho nên như là không tu (vì không có tướng tu hành). Đây là “tu mà không tu”; là đúng lời Nhị Tổ Pháp Loa dạy: “Người tu tập thiền định không được chấp dụng công”.

- Hơn nữa, hành giả không đối trị, không tạo tác cho nên như là không tu (vì không có tướng tu hành). Nhưng không theo vọng tưởng (không mê); dùng trí tuệ thấu suốt vọng tưởng vốn không thật (không lầm); sống bằng bản tâm chân thật “lặng mà sáng biết”; cho nên vẫn là đang tu hành. Đó là “không tu mà tu”; là chỗ Nhị Tổ Pháp Loa nói: “Dụng mà không có chỗ dụng”.

-  Hành giả ứng dụng công phu tu tập “Pháp Tri Vọng” như thế. “Không chấp dụng công, dụng mà không có chỗ dụng”; là đúng với nguyên lý tu tập Thiền Thượng Thừa mà Nhị Tổ Pháp Loa đã chỉ dạy ở trên.

(Xem đầy đủ phần này tại Mục 3 và 4, Phần 3, Chương 1).

4.     TÁC PHẨM VÀ CHƯ TÔN ĐỨC.

Chư vị Tổ sư và Thiền sư thuộc Thiền phái Trúc Lâm Việt Nam rất nhiều, tại sao chỉ dẫn chứng nhị Tổ Pháp Loa của thời xưa và Hòa thượng Thiền sư Thích Thanh Từ hiện nay? Tác phẩm cũng vậy, tại sao chỉ dẫn chứng mỗi một tác phẩm của một vị duy nhất?

4.1.    Chư Tôn đức.

¯ Thời kỳ đầu.

Sơ Tổ Trúc Lâm có công sáng lập nên Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử và đã giáo hóa làm cho Thiền phái này phát triển mạnh mẽ. Sau đó truyền lại cho Tổ Pháp Loa. Nhị Tổ Pháp Loa đã hoằng truyền, đưa Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử lên một đỉnh cao mới, biến Thiền phái (đạo Phật) trở thành Quốc giáo thời bấy giờ. Cho thấy, ngài Pháp Loa được Sơ Tổ Trúc Lâm truyền trao Tổ vị. Đồng thời khi đảm nhiệm trọng trách, ngài đã thể hiện trách nhiệm của mình đối với Phật pháp và đưa đến kết quả tốt nhất. Hơn nữa, ngài là tác giả đi liền với tác phẩm trong bài viết. Vì thế chúng tôi  dẫn chứng Nhị Tổ Pháp Loa đại diện cho chư vị Tổ đức Thiền phái Trúc Lâm.

Thời kỳ đương đại.

Trải qua thời gian dài vắng bóng, Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử đã bị chìm mất. Trong khoảng thế kỷ 20 – 21 này, Hòa thượng Thiền sư Thích Thanh Từ đã tiếp nối và phục hưng, khiến cho Thiền phái Trúc Lâm được phát huy rực rỡ. Từ cơ sở các thiền viện, đến Kinh, Luận, Ngữ Lục được Hòa thượng dịch ra tiếng Việt và giảng giải, cho đến độ Tăng Ni tu tập có kết quả, giáo hóa Phật tử nhận ra được giá trị của Thiền Việt Nam và hướng về nghiên cứu, tu học... Tất cả đã được hình thành và phát triển mạnh mẽ trên khắp mọi miền đất nước, đồng thời lan tỏa ra nhiều nước khác trên Thế giới. Do đó chúng tôi dẫn chứng Hòa thượng Thiền sư Thích Thanh Từ trong bài viết này.

4.2. Tác phẩm.

Tác phẩm “Thượng Thừa Tam Học Khuyến Chúng Phổ Thuyết”, Tổ Pháp Loa đã nêu rất rõ yếu chỉ tu hành của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Tác phẩm “Thiền Tông Việt Nam cuối thế kỷ 20”, Hòa thượng Thiền sư Thích Thanh Từ đã nói rõ tông chỉ và phương pháp hành trì của Thiền phái Trúc Lâm Việt Nam hiện nay. Chính vì lý do đó cho nên chúng tôi đã dẫn chứng hai tác phẩm này.

4.3. Vì muốn tóm gọn, đi vào trọng tâm.

Hơn hết, vì muốn tóm gọn nội dung, đi thẳng vào vấn đề cần nêu để người đọc dễ nhận ra, không bị dài dòng, lan man, lạc hướng. Do đó, chúng tôi đã chọn chư vị Tổ đức và tác phẩm ít nhất có thể để đi vào trọng tâm của chủ đề.

5. BỎ QUA NHỮNG KHIẾM KHUYẾT.

Lá dù chỉ đơn thuần là màu xanh mà hay tô điểm cho tía, vàng, đỏ, tím của các loài hoa càng thêm rực rỡ. Đức Khổng Tử nói: “Vô tiểu nhân bất thành quân tử”. Không tiểu nhân thì cũng không nương vào đâu để biết có quân tử. “Nhân vô thập toàn”. Tương đối vốn dĩ là một sự thật trong đời. Trong phải có quấy, trong quấy có phải. Có khi cái chưa hoàn bị lại tô điểm cho lẽ phải đã hoàn bị. Nếu không có tà thì cái chánh cũng không. Rốt cuộc, chánh tà, phải quấy chỉ là do vọng chấp con người đặt ra. Đối với chân lý tuyệt đối, thật tánh các pháp thì vốn không có bóng dáng của chánh tà, phải quấy.

Tuy nhiên, khi nói và hành xử sinh hoạt thì hẳn sẽ còn nhị biên. Nhưng có vướng kẹt ở trong nhị biên hay không là do tâm của mỗi người chứ không thể căn cứ trên tướng hình để nhìn thấy. Đức Phật là bậc phước trí tròn đủ, thế nhưng ngài vẫn thị hiện còn trong nhị nguyên thì chúng sinh mới thấy mình có phần để tu tập. Hai ngài Hàn Sơn, Thập Đắc vốn là hiện thân của Bồ tát Văn Thù và Phổ Hiền, nhưng lại thị hiện dưới một con người kỳ đặc khiến ai cũng khinh thường; có khi những hành động của quý ngài khiến mọi người không chấp nhận được. Và còn nhiều Ngài có nhiều sự thị hiện nghịch hạnh khác nữa. Nếu quý ngài hiện đúng với phúc trí của mình và bắt chúng ta phải theo thì không có phàm phu nào trong nhất thời theo kịp. Nhưng mắt phàm thì không đủ trí tuệ để thấy như thế, chỉ kịp thấy trên những dấu vết thị hiện thuận hạnh hoặc nghịch hạnh của quý ngài rồi bàn luận khen chê.

Nếu nhìn trên tướng thì sẽ chỉ thấy nhị nguyên rồi phân biệt. Do đó, khi nói đến chánh thì phải có tà. Nếu bằng sự nhiệt huyết và trí tuệ để tiếp thu chân lý một cách trực diện thì sẽ học hỏi được chân lý. Nếu một bề soi mói nhìn vào phải quấy đúng sai thì không thấy được cái chính yếu là chân lý vẫn đang tồn tại; cái mà sẽ có giá trị thiết thực giúp ích lớn lao cho mình và mọi người.

Không có cái gì trong đời là đồng nhất cả. Tổ chức nào cũng có người thế này, người thế khác, như thế mới có được đa màu sắc và sống động. Tông phái thiền thì cũng có tông phái này tông phái khác, mới có nhiều phương tiện và bản sắc độc đáo để hướng dẫn người tu hành. Tuy đa dạng, có phải, quấy, chánh, tà; nhưng để tồn tại thì tất yếu chính nó phải có chất lượng, phải có bản chất của nó. Những điều khác với chân lý thì theo thời gian sẽ bị bào mòn và đào thải.

Hiện nay, Thiền phái Trúc Lâm Việt Nam không sao tránh khỏi một số khiếm khuyết, nhưng không đáng kể. Sự thật, chất lượng và bản chất vẫn đang tồn tại cho nên Thiền phái Trúc Lâm Việt Nam vẫn đang hiện hữu một cách tốt đẹp trong thời kỳ văn minh phát triển hiện nay như mọi người vẫn thấy.

6. KẾT LUẬN.

Tổ Pháp Loa dạy: “Là người học Phật, trước phải kiến tánh”. Hoặc Hòa thượng Tông chủ Thiền sư Thích Thanh Từ hiện nay nói: “Nói yếu chỉ thiền tông là kiến tánh khởi tu”. Đây là đứng trên THỂ, là phát huy cái ưu của Tánh Tông; là đã tránh được cái khuyết của Tướng Tông. Vì Tướng tông không nói đến điều này.

Kế đến phải biết giữ giới cho thanh tịnh, tập thiền, tập định tâm... Nếu đã kiến tánh, hành giả sẽ tự biết lối đi, tự biết trì giới và tập định tâm như thế. Nếu không biết thì đó là người chưa thật kiến tánh.

Vậy thì, đã thấy tánh, tại sao lại còn giữ giới, tập định tâm? Có nghịch lý hay không?

Nói là giữ giới mà thật ra là bảo nhậm. Gọi là tập định tâm nhưng thực chất là khuyên hành giả không nên được ít mà cho là đã đủ rồi kẹt giữa đường. Cần nỗ lực chuyên tâm hơn để sống bằng tâm tánh đã kiến cho đến ngày công viên quả mãn, thành tựu Phật đạo. Đây là đứng trên DỤNG, là phát huy cái ưu của Tướng Tông; là đã tránh được cái khuyết của Tánh Tông. Vì Tánh Tông không chủ trương như thế.

Cho thấy, ở đây phát huy được cái ưu là “người học đạo trước phải thấy tánh” hoặc: “Kiến tánh khởi tu”. Đồng thời, bổ túc vào cái khuyết là khi ngộ rồi vẫn phải miên mật hạ thủ công phu tu tập. Thiền sư Đạo Minh Trần Tôn Túc nói: “Việc lớn chưa sáng như đưa ma mẹ. Việc lớn đã sáng như đưa ma mẹ”. Thiền sư Phổ Chiếu dạy: “Biết không sanh tử, chẳng bằng thể không sanh tử. Thể không sanh tử chẳng bằng khế không sanh tử. Khế không sanh tử chẳng bằng dụng không sanh tử”. Hoặc có vị nói: “Đốn ngộ tuy đồng Phật, Nhiều đời tập khí sâu. Gió dừng sóng còn vỗ, Lý hiện niệm còn xâm”.Các Thiền sư thi thoảng có nhắc dạy điều này. Nhưng khi lập tông thì các tông phái hoặc là ở trên tánh thể (tánh tông), hoặc là ở trên dụng (tướng tông), chứ không dung thông giữa ưu và khuyết như Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Đây là điểm đặc biệt của Thiền phái Trúc Lâm Việt Nam mà không Tông phái nào có được.

Chỉ trong một pháp bảo nhậm, sống bằng bản tâm chân thật này là đã bao gồm tất cả pháp. Tất cả pháp đều vào trong này. Bởi tu pháp nào cuối cùng cũng phải đạt đến định tuệ mới giác ngộ. Và đã sống bằng thiền định, tâm giác thì thông qua sáu căn, thấy nghe biết gì mà không phải là Bồ-đề (giác). Tất cả các pháp đều là Phật pháp. Trong thể sẵn dụng, trong dụng sẵn thể; thể dụng không hai, lý sự dung thông thì lo gì Phật đạo không viên thành!

 

 

 

 

Chương 2: ĐẶC TRƯNG TRONG PHƯƠNG PHÁP HÀNH TRÌ CỦA THIỀN PHÁI TRÚC LÂM VIỆT NAM

 

Gá thân mộng
Dạo cảnh mộng
Mộng tan rồi
Cười vỡ mộng

Ghi lời mộng
Nhắn khách mộng
Biết được mộng
Tỉnh cơn mộng

HT Thích Thanh Từ
a

Bài đọc nhiều nhất

Thống kê truy cập

1193115
Hôm nay
Hôm qua
Tuần này
Tuần trước
Tháng này
Tháng trước
Tất cả
1366
4486
17632
1147600
78118
118095
1193115