I. DẪN NHẬP
“Thoát trần một gót thiên nhiên,
Cái thân ngoại vật là tiên trong đời.”(Cung Oán Ngâm Khúc, Nguyễn Gia Thiều).
Có thực hành lối sống thoát trần, mới hy vọng có ngày nhận chân được “chiếc thân ngoại vật”. Có nhận chân và sống được bằng “chiếc thân ngoại vật” thì mới thấu tột và phát huy được tác dụng của chân lý thoát trần; mới sống giữa cuộc đời làm tất cả các công việc mà vẫn lạc an, tự tại, hơn cả thần tiên.
II. MỘT VÀI GIÁ TRỊ DỄ NHẬN THẤY QUA CHÂN LÝ THOÁT RA.
Khi ngồi xem người khác chơi cờ, chúng ta sẽ sáng hơn và thấy ra nhiều nước cờ hay hơn người trong cuộc. Nếu biết thoát ra khỏi cuộc cờ để chơi cờ, người chơi sẽ có thêm được tác dụng của người ngồi xem và mách bảo nước cờ. Khi gặp chuyện rắc rối, người ngoài cuộc bao giờ cũng vững vàng, tỉnh táo sáng suốt, giúp mình giải quyết mọi việc có kết quả hơn. Nếu biết thoát ra, chính mình sẽ tự làm được việc đó.
Khuyên một cháu bé bớt ăn đồ ngọt để không hại đến răng, vị Thầy cũng cần có thời gian khoảng một tuần để tập nhịn ăn đường thì mới có đủ kinh nghiệm khuyên dạy. Với vị ngọt của đường mà còn như vậy. Huống chi tất cả những mật ngọt của trần gian. Nếu chúng ta chưa từng kiêng cữ thoát ra, làm sao có đủ tỉnh táo, sáng suốt, tư cách và kinh nghiệm để khuyên dạy cho thế hệ con em mình không sa vào con đường tội lỗi? (Đủ tư cách, tỉnh táo, sáng suốt và kinh nghiệm để dạy người sau.).
Sống trải nhiều năm, con người ta nhận ra nhiều kinh nghiệm, học hỏi và sáng ra được nhiều điều. Đúc kết những điều hay thành những triết lý sống. Đồng nghĩa nhờ vào thời gian, con người mới trưởng thành và thoát ra được những gì đang có, mới đủ chính chắn và trí tuệ để phát hiện ra những triết lý mới mẻ. Nếu người khéo thoát ra, sẽ nhận chân được chân lý ấy ngay đây và bây giờ. (Nhận ra một triết lý, chân lý).
Khi mới nhận ra điều gì đó tâm đắc, con người thường thích thú thái quá. Vì háo hức muốn những người thân tín cũng được như mình cho nên nhiệt tình hơn mức bình thường và quên bẵng đi người đối diện đang có gì, đang cần gì. Kết quả là người ấy nhận ra mình khá chủ quan và không sẵn sàng nghe theo một chiều mình nói. Đó là do chúng ta chưa biết cách thoát ra một chân lý để bảo vệ một chân lý.
Một người quá kỹ tính dễ rơi vào bệnh cầu toàn, chấp vào những điều nhỏ nhặt. Người khác dễ tính thì lại dễ bị hời hợt, cẩu thả, ít có trách nhiệm với công việc, bản thân và mọi người chung quanh. Nếu biết thoát ra, chúng ta sẽ không bị cực đoan; sẽ có được lối sống trung dung, thành đạt. Rất nghiêm túc, khắt khe và kỹ lưỡng với chính mình; nhưng với mọi người thì biết cho qua những gì không cần thiết; không chấp trước nhỏ nhặt; biết cảm thông, sẻ chia, khoan hòa, độ lượng. Xem mọi thứ quanh ta nhẹ nhàng, nhưng luôn chu toàn trong mọi công việc. Làm mọi việc với một tinh thần trách nhiệm và hiệu quả cao nhất, nhưng vẫn xem mọi sự thế gian như một cánh hồng.
Biết thoát ra sẽ biết uyển chuyển tùy duyên, con người sẽ lạc quan, sống đời có ích cho mình và nhân loại. Nếu không như thế, chúng ta không khỏi biến mình trở thành một nhân tài bị bất đắc chí; bất mãn, suốt đời chỉ sống với những khúc mắc, hận thù, không có gì tươi sáng. Thử hỏi, những lời nguyền rủa, châm biếm trong tâm trạng uất ức như thế sẽ giúp được gì cho mình và cho xã hội. Hãy phấn phát gạt qua mọi thứ, đi làm ngay một công việc tích cực có ý nghĩa cho đời. Đi tìm một điều tốt để làm, sẽ có ý nghĩa hơn cố tìm ra những việc tốt trong quá khứ để kể lể.
Trong một buổi thảo luận, nếu biết thoát ra thì chúng ta sẽ chỉ tranh luận về một vấn đề để làm sáng tỏ vấn đề đó chứ không phải tranh cãi giữa những con người với nhau. Biết bình thản, tôn trọng và lắng nghe người khác nói; biết nói năng và im lặng hợp thời để đưa đến kết quả mỹ mãn, tình lý vẹn toàn... Tất cả đều nhờ vào năng lực của sự thoát ra mới cho chúng ta khả năng bình tĩnh và sáng suốt để quyết định kịp thời như thế.
Khi hòa lẫn trong dòng người xôn xao náo nhiệt; hoặc trong những công việc có áp lực lớn; đến cả khi nghe người khác mắng chửi, hay là đang trong cơn buồn đau; hoặc giữa những buổi tiệc tùng chén thù chén tạc; trước cả những thành công và thất bại... Trong tất cả những tình huống và công việc hằng ngày, nếu khéo thoát ra, chúng ta sẽ cảm nhận được sự cần thiết, nhiều ý nghĩa, giá trị và đạt được những kết quả bất ngờ. Cho thấy, giá trị chính đáng, cần kíp và thực tiễn nhất là con người cần thoát ra để được sống.
Bôn ba giữa dòng đời xuôi ngược, mỗi người đều phải toan tính mưu sinh, tìm cầu hạnh phúc. Phía trước luôn là những bất trắc khó lường cho nên khiến cho không ít người đã vô tình sống trái với nguồn cơn ban đầu mình cần tìm kiếm. Như đinh sinh ra rỉ sét, rỉ sét ăn mòn đinh. Vì sự sống nên phải mưu sinh. Nhưng rồi chính việc mưu sinh hại lại sự sống. Càng tìm kiếm, càng sa lầy, lún sâu, sa đọa, bất ổn. Không biết thoát ra, con người ta cứ mãi bị chôn sâu trong tù ngục vô hình tối tăm như thế.
Ngồi lại tỉnh táo, mọi thứ trong đầu tạm thời rũ xuống, tâm hồn sẽ tỉnh ra. Mới nhận ra tuồng đời là một sân khấu, mọi thứ như nước chảy mây trôi... Ta choàng tỉnh dậy tợ dường thức giấc chiêm bao, chợt hay ra cái hay biết nhìn đây không phải là mọi thứ trong đời. Nó thật là ta, chúng ta đang sống trên nó mà lâu nay lại lãng quên, không hề hay biết. Ngay đó liền được vượt thoát, được sống một cách đích thực; không còn kiếp sống mê mờ, cùng cực, lầm than
III. TRIẾT LÝ THOÁT RA.
1. KHÁI QUÁT.
a) Trang bị các kiến thức cơ bản cần thiết thật đầy đủ, kỹ càng.
b) Khai phóng, thoát ra hết mọi thứ đã học.
c) Vào ra tự tại, tùy thời vận dụng một cách linh hoạt, không ngăn ngại.
2. ÁP DỤNG VÀO CUỘC SỐNG.
Muốn tìm hiểu một vấn đề, phải nghe từ nhiều phía. Để đi đến kết luận một vấn đề, phải bằng vào trí tuệ của chính mình. Cụ thể:
a) Tìm hiểu vấn đề: Muốn thực hiện một vấn đề gì, trước tiên chúng ta phải biết nghe nhìn chung quanh một cách khách quan, nhưng không bị chi phối nghe theo để tìm hiểu cho thấu đáo.
b) Nhận định vấn đề: Gom hết tất cả những điều đã nghe nhìn và học được để tư duy cho thấu đáo. Có bao nhiêu cách giải trong một bài toán thì cứ giải hết cho đến khi cảm thấy thỏa mãn, tự tin.
c) Kết luận, quyết định và thực thi vấn đề: Sau cùng gác lại vấn đề đã tư duy qua một bên, thoát ra hết mọi thứ đúng sai phải trái, những hào hứng hay chưa vừa lòng... Khi tâm an tịnh, nhẹ nhàng, thanh thản, sẵn sàng thì đem ra xem lại. Lúc này trí mình tự dưng nhận ra tất cả những điều còn sai sót. Từ đó đưa đến kết luận và quyết định vấn đề một cách thấu đáo, tinh tường. Theo đó để thực hiện sẽ được tự tin, mạnh mẽ, vững vàng. Từ tầm nhìn đúng, hành động chuẩn xác sẽ đưa đến kết quả tốt đẹp.
3. TẠO NÊN NHỮNG KHOẢNH KHẮC VÀNG.
1. Là một cậu học trò thông minh, cần mẫn, kỹ tính; học chăm, nhớ giỏi, biết tư duy. Cứ thế theo thời gian, cậu ta trở thành một triết gia, một giáo sư nổi tiếng. Những bài thuyết trình được xây dựng một cách phong phú, đa dạng, chặt chẽ, khúc chiết đến độ hoàn hảo. Khi thuyết trình xong, vị này mong muốn mọi người phản biện lại đến mức phá tan vứt đi đề tài của mình cũng được. Khi mọi người phản biện quyết liệt, vị giáo sư mới nhận ra những sai lầm trầm trọng của mình.
Khi xây dựng một mệnh đề với quá nhiều dữ liệu đã được học hỏi, tư duy, cũng có khi là sản phẩm từ trí tuệ của mình, vô tình đã đưa ra quá nhiều thứ, là trao cơ hội cho người khác phản biện. Khi phải bảo vệ mệnh đề là lúc đã đánh mất vị thế, đã tự biến mình trở thành học trò của những cậu bé kia. Mất vị thế là đánh mất đi thần lực để thần phục người khác, là đã thất bại. Hôm sau có kinh nghiệm hơn, vị giáo sư giới hạn lại các vấn đề mình đưa ra. Và cuối cùng, vị này xây dựng mệnh đề bằng cách không còn một dữ liệu hay một vấn đề nào được đưa ra nữa. Chỉ là khéo léo chỉ thẳng cho người nghe tự nhận ra điều mình muốn truyền đạt ngay nơi chính bản thân họ. Ai muốn phá hoại mệnh đề là phá hoại chính họ, là phá hoại một chân lý. Đây là cách “không phải nói cho hiểu” mà là “chỉ cho thấy”.
Học thật kỹ, xây dựng một mệnh đề thật đầy đủ, chu đáo, sâu sắc, minh triết... rồi cho mọi người phản biện, phá tan đi những gì mình đang có. Dám làm như thế là biết ứng dụng chân lý thoát ra, chúng ta sẽ nhận được nhiều điều thú vị và thành đạt.
a) Khi không xem mình là một giáo sư, một triết gia hay kể cả bất cứ địa vị cao cả nào nữa. Dám sẵn sàng cho bất kỳ ai cũng có thể phản biện phá lại mệnh đề của mình. Khi ấy chúng ta được nghe mọi người nói thẳng, nói thật; được biết người khác đang có gì, đang cần gì và mình còn sai sót chỗ nào. Đó là tạo điều kiện để mình có cơ hội biết mình, biết người.
b) Cứ như thế theo thời gian, con người chúng ta sẽ được dạn dĩ, tự tin. Tinh thần và trí tuệ của mình thoáng đạt, mạnh lên; vượt khỏi những nhỏ nhoi, tầm thường.
c) Khi thật sự sẵn sàng để làm như thế, con người chúng ta đã phần nào vượt khỏi giới hạn của một bản ngã nhỏ hẹp. Tư tưởng và tinh thần đang được khai phóng. Theo thời gian, chúng ta sẽ có thông tuệ rất đặc biệt, cho mình có khả năng phát minh một cách đầy đủ, sâu sắc nhưng rất kịp thời.
Làm được như vậy là biết vận dụng chân lý thoát ra, biết tạo cho mình có được thời điểm lóe sáng, nhiều hơn những khoảnh khắc vàng
IV. THOÁT RA BẰNG CÁCH NÀO.
1) Phương án trước mắt: Là phạm trù tương đối, có tướng thoát ra.
- Biết rõ muôn sự muôn vật ở thế gian đều tương đối, chung hợp tạm có, không có gì bền chắc lâu dài.
- Luôn tỉnh giác.
- Trên mọi hiện tượng đang đối diện, chúng ta chan hòa mà tỉnh tỉnh lặng lặng để khéo léo thoát ra.
Đến thăm một người lâm trọng bệnh sắp qua đời, mọi thứ hận thù đều dễ dàng tha thứ. Đứng trước cái chết, con người thường nhận ra nhiều điều. Thấy rõ thân này không bền chắc, đau yếu, sống chết bất thường không ai lường trước được. Thân đã tạm bợ, mọi thứ thế gian lấy gì làm bền chắc? Thấu suốt một cách sâu sắc như thế, chúng ta sẽ được thoát ra, lột cởi bớt nhiều thứ trong đời.
Khi làm máy tính, thỉnh thoảng Click phải vào màn hình chính và chọn lệnh Refresh để máy vận hành mạnh hơn. Tương tự trong cuộc sống, nếu thường phản tỉnh, tâm trí sẽ được mạnh hơn. Có lúc cũng cần phải tắt máy đi rồi khởi động lại thì máy mới khỏe. Cũng vậy, nếu sắp xếp được thời gian tọa thiền, năng lực của định tuệ sẽ được tăng trưởng, mới có khả năng thoát ra.
Có người học thiền rồi áp dụng vào công ty để làm việc. Một hôm anh ta nói rằng: “Tôi biết thiền của thầy rồi. Khi nào giải quyết công việc dồn dập căng thẳng quá thì tạm thời gác lại, ra vườn thảnh thơi lui tới một chốc. Khi vào làm việc lại, mọi thứ sáng ra lạ thường, việc làm có hiệu quả, tinh thần không bị tổn giảm, phát minh nhiều điều mới lạ...”. Đó là nhờ biết thoát ra.
Trên mọi sinh hoạt, luôn luôn bình tâm, tỉnh táo, giác sáng. Không nhìn và phán đoán mọi thứ qua thân tâm sanh diệt, khéo léo suốt qua. Cứ như thế bằng tâm rỗng rang để nghe nhìn và làm việc, sẽ được thoát ra, vượt trên các tướng.
2) Phương án căn cơ lâu dài: Thoát ra tuyệt đối.
Để được thoát ra thực sự, chúng ta cần phải nhận ra và sống được bằng sức sống thiền. Ai đã đạt đến và sống được bằng sức sống này rồi mới cảm nhận hết giá trị của nó; không có bất kỳ một cái gì khác có thể đổi lấy được. Do đó, phương án căn cơ lâu dài để đạt đến thoát ra tuyệt đối và đúng nghĩa, cần phải thực hành công phu tu tập thiền định. Khi thời tiết nhân duyên chín muồi, tâm ta bất chợt hoát toang, tự tánh mình hiển lộ, không còn một thứ gì đủ sức chi phối, chúng ta sẽ tự vượt thoát một cách tự nhiên, rốt ráo, cùng tột. Thoát mà không cần phải thoát ra bất cứ gì. Không thoát mà luôn luôn lúc nào cũng đang vượt thoát. Đây là yếu diệu của chân lý thoát ra.
3) Đạt đến siêu việt, ra vào tự tại.
Nói là thoát ra, bởi lẽ con người đang lún sâu vào nhiều thứ. Nhưng khi đang cố thoát ra mọi thứ, không khéo chúng ta lại kẹt trong chính “tư tưởng thoát ra”, khiến cho một lần nữa bị vướng kẹt. Cho nên, chúng ta cần phải thoát ra luôn cả tâm niệm cố thoát ra. Muôn duyên buông xuống, buông luôn cả tư tưởng “buông”; tất cả đều buông sạch. Buông xuống cho đến tận cùng không còn gì để buông nữa; ngay đó, tâm thiền chân thật liền hiển bày.
Sơ Tổ Trần Nhân Tông dạy: “Buông xuống! Buông xuống! Cái buông chẳng được, chính là kẻ ấy.”. “Kẻ ấy” là kẻ không tên, nhưng có rất nhiều tên; là chân tâm, Phật tánh, là ông chủ, bản lai diện mục... Thấu đạt và sống được bằng “kẻ ấy” rồi thì nói là “thoát ra” hay “không cần thoát ra” đều thừa. Vì vốn nó đã tự vượt thoát. Ngay nơi sinh hoạt hằng ngày mà vẫn an nhiên, không động; không hề dính kẹt hay ngăn ngại gì. Tuy an nhiên, bất động, nhưng vẫn thấy nghe hiểu biết một cách linh thông, sống động thì nói làm gì đến việc “phải thoát ra” hay “không cần thoát ra”? “Thoát mà không thoát”, vì không còn khái niệm phải xa rời tất cả. “Không thoát mà hằng thoát”, do ở trên tất cả, nhưng vẫn bất động mà sinh động. Nhìn mọi thứ bình thường và tự tại, linh hoạt mà như nhiên. Không còn khái niệm ra vào, nhưng lại có năng lực vào ra tự tại, tùy duyên. Là ý nghĩa rốt ráo của chân lý vượt thoát, thoát ra.
Cuối cùng, cần xa lánh đời để được thoát ra; hay ở trong đời mà vẫn vượt thoát? Buông xuống luôn đi!
V. CHÂN LÝ THOÁT RA VỚI SƠ TỔ TRẦN NHÂN TÔNG.
1. Tinh thần thoát ra được phát hiện qua cuộc đời và trong sinh hoạt của Sơ Tổ.
Lúc còn nhỏ, tuy ở trong vị trí sang cả mà tâm vẫn hâm mộ thiền. Năm 16 tuổi được lập làm Hoàng Thái Tử, ngài cố chối từ để nhường lại cho em, nhưng vua cha không chịu. Vua cưới trưởng nữ của Nguyên Từ Quốc Mẫu cho ngài. Sống trong cảnh vui hòa hạnh phúc ấy, nhưng ngài vẫn thích đi tu. Cho thấy, ý chí xuất trần đã hiện rõ trong ngài lúc còn thơ bé.
Một hôm vào lúc giữa đêm, ngài trèo thành định trốn vào núi Yên Tử để tu hành (thoát ra lần đầu). Khi các quan tìm thấy, ngài phải về lại cung thành theo lệnh của vua cha (vào đời theo nguyện vọng của toàn dân, vì trách nhiệm với đất nước).
Năm 21 tuổi (1279), ngài lên ngôi Hoàng Đế. Tuy ở địa vị cửu trùng mà vẫn giữ mình thanh tịnh để tu tập. Trước bao nhiêu cao lương mỹ vị nhưng ngài lại thường ăn chay lạt. Hằng ngày, ngài thường đến chùa Tư Phước trong đại nội để dụng công. Những lúc nhàn rỗi, ngài mời các thiền khách đến bàn giải về thiền. Ngài tham học với Tuệ Trung Thượng Sĩ, thâm đắc đến chỗ thiền tủy. Cho thấy, ở tại ngôi vua, tuy sống trong đền vàng điện ngọc, nhưng tâm ngài lại luôn vượt thoát. Ngài đã khéo léo sắp xếp để tu tập thiền định cho nên có sự tiến bộ, có sự tự chủ để hành xử đúng mực và hiệu quả. Nhờ công phu tu tập có kết quả, thâm nhập thiền cho nên mới có nhiều phát kiến để vận dụng vào cuộc sống và thành đạt.
Khi làm tròn trách nhiệm, năm Quý Tỵ (1293), ngài trao ngai vàng lại cho Trần Anh Tông và làm Thái Thượng Hoàng để chỉ dạy cho con sáu năm. Trong thời gian này, ngài đã khéo léo sắp xếp để có thời gian tu tập nhiều hơn; nửa ngày làm việc, nửa ngày còn lại lo công phu tu hành. “Nửa ngày rồi tự tại thân tâm.”. Thấy mọi việc ổn định, ngài xuất gia lên núi Yên Tử tu hành (thoát ra lần thứ hai). Công phu chín muồi, đạo lý giác ngộ tỏ rạng, ngài đã sáng lập ra dòng Thiền Việt Nam – Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Từ đó phát nguyện đi vào nhân gian giáo hóa mọi người (vào đời để cứu đời). Đi trong trần thế làm lợi ích chúng sanh mà không chút bụi trần nào làm nhơ nhiễm. Ra vào tự tại, đúng nghĩa thoát ra, tạo nên tinh thần nhập thế đặc biệt của Phật giáo Thiền Trúc Lâm, hòa quang đồng trần, hòa vào cuộc đời mà không bị cuộc đời làm tan biến.
2. Chân lý thoát ra được thể hiện trong tư tưởng của Sơ Tổ.
Khi có giặc đến quấy rối đất nước, ngài đã họp hội nghị các tướng lãnh ở Bình Than và hội nghị các bô lão trong cả nước ở Diên Hồng để lấy ý dân, đồng tâm đồng lòng bảo vệ đất nước.
Có thoát ra được bản chất cố hữu độc tài và chủ quan của một đế vương thì mới thấy được sức mạnh đoàn kết của toàn dân là to lớn. Một ngọn núi sừng sững cao vợi bởi nó không từ bỏ bất kỳ một hạt bụi nào. Nhân tài tuy quý, nhưng chưa quý bằng người dùng được nhân tài. Có tài mà có tính chủ quan thì chỉ là một nhân tài bị cô lập. Không rèn cho mình thành tài mà hời hợt thích hùa theo số đông thì chỉ là một người tầm thường không hơn không kém. Có tài mà quên đi và thoát ra khỏi cái gọi là nhân tài, hòa đồng vào tất cả, đó là người làm nên đại sự.
Chất liệu thoát ra đã ăn sâu nên toát lên trong cuộc sống sinh hoạt hằng ngày, đã khiến cho một bậc minh quân có những cách hành xử đặc biệt, làm nên những chiến công hiển hách, những chiến thắng rạng ngời, khiến cho cả thế giới mãi đến tận bây giờ vẫn còn nghiêng mình thán phục, học hỏi, noi theo.
3. Chân lý thoát ra được thể hiện qua tâm chứng, qua sức sống thiền.
a) Ở trong đời nhưng luôn vượt thoát.
Khi còn làm Thái Thượng Hoàng, ngài đã sáng tác bài phú Cư Trần Lạc Đạo. Có thực học, chơn tu; có thực hành và thể nghiệm thì mới cảm nhận một cách thấu đáo; mới thấy đây là kết quả của một quá trình công phu tu tập đắc lực của ngài từ khi còn làm thái tử cho đến khi làm vua, suốt cho đến khi làm Thái Thượng Hoàng thì mới tích tụ được những tinh thần đạo lý siêu xuất cao quý như vậy. Nếu không có định lực và trí tuệ đủ lớn, không thể có được chỗ thấy và sức sống đặc biệt như thế.
“Mình ngồi thành thị, Nết dùng sơn lâm.
Muôn việc lặng an nhàn thể tính,
Nửa ngày rồi tự tại thân tâm.” (Cư Trần Lạc Đạo Phú).
Sống ở nơi thành thị, nhưng phong cách, tinh thần và tâm ngài vẫn an nhàn tự tại như đang ở chốn núi rừng thanh vắng. Sắc đẹp, tiếng hay cho đến sự náo nhiệt giữa phố thị phồn hoa không dính dáng gì đến “nết sơn lâm” của ngài. Một sự vượt thoát, thoát ra thực sự. Cho nên, trong Đắc Thú Lâm Tuyền Thành Đạo Ca, ngài nói:
“Ngồi trong trần thế, Chẳng quản sự thay;
Văng vẳng ngàn kia, Dầu lòng dong thả.”
b) Ở trong các pháp, nhưng vẫn sáng rỡ, rõ ràng, luôn thoát.
...Mở đầu pháp hội, sau lễ niêm hương, khai thị, Sơ Tổ dạy:
Thân như hơi thở ra vào mũi, Đời giống mây trôi đỉnh núi xa.
Tiếng quyên từng chặp vầng trăng sáng, Chẳng phải tầm thường qua một xuân.
Ngài dạy thân này mong manh trong hơi thở. Còn thở thì còn sống. Hết thở liền thôi. Cuộc thế thì vốn vô thường như mây qua đỉnh núi. Mọi việc quanh ta cứ vội diễn ra rồi lại vội qua đi một cách chóng vánh đến vô tình. Trước mọi diễn biến vô thường từ bản thân con người cho đến cuộc đời và muôn sự muôn vật, dù là một mùa xuân trôi qua hay một cuộc đời vừa chấm dứt, thì cũng chẳng phải dễ dàng trôi qua một cách tầm thường như thế được. Bởi vẫn còn đây một đóa hoa xuân luôn rạng ngời tươi thắm. Đóa hoa thấy nghe hiểu biết của tâm thiền sáng rỡ, không bị những thứ của thấy nghe hiểu biết chi phối, sai sử cho nên không bị cuốn trôi theo tử sanh, sanh diệt bao giờ. (Chẳng phải tầm thường qua một xuân).
Không dễ trôi qua một cách tầm thường như thế được. Hãy trả lại đây! Cho thấy, Tổ luôn hiện hữu mà lại luôn thoát ra, không bị mọi thứ của vô thường chi phối.
Trong Cư Trần Lạc Đạo Phú, có đoạn ngài nêu rõ sự vượt thoát sống động này:
“Chơi nước biếc, ẩn non xanh; nhân gian có nhiều người đắc ý.
Biết đào hồng, hay liễu lục; thiên hạ năng mấy chủ tri âm.
Nguyệt bạc vừng xanh, soi mọi chỗ thiền hà lai láng,
Liễu mềm hoa tốt, ngất quần sinh tuệ nhật sâm lâm.”
Dạo chơi suối khe xanh biếc hoặc ẩn náu nơi non xanh, nhân gian có nhiều người ưa thích. Nhưng đang khi ấy, người sáng tỏ và sống bằng tâm sáng rỡ rõ biết: “đào là hồng, liễu là lục”, sáng biết rõ ràng mà không hề động thì trong thiên hạ có được mấy người là tri âm, đồng cảm thông nhau trong chỗ đạo lý chân thật, sâu xa rốt ráo kia? Sống được như vậy rồi thì, nào là nguyệt bạc, vừng xanh, đâu đâu cũng rờ rỡ ánh sáng thiền lai láng. Nào là liễu mềm, hoa tốt, nơi nơi đều hiển hiện ánh sáng trí tuệ rạng ngời. Lúc này, nhìn cái gì mà không phải là đạo lý chân thật? Có lúc nào thiếu vắng ánh sáng thiền! Ngay trên các cảnh của nhân gian, trên mọi sinh hoạt bình thường như bao nhiêu người khác, nhưng tâm luôn sáng tỏ, bất động, vượt thoát một cách sống động vô cùng.
c) Tâm chứng tự thoát.
Thuở bé chưa từng tỏ sắc không,
Xuân về hoa nở rộn trong lòng.
Chúa xuân nay bị ta khám phá,
Chiếu trải giường thiền ngắm cánh hồng. (Xuân Vãn).
“Thuở bé chưa từng tỏ sắc không”, khi nào chưa tỏ lý sắc không thì còn thơ bé. Lúc nào chưa tỏ rạng trí tuệ bát nhã thì hãy còn thơ ngây, bị mùa xuân thịnh suy, thành bại của cuộc đời làm xao xuyến đến tan tát.
Từ khi ngài khám phá được chúa xuân, khám phá được ông chủ tạo nên mọi thứ, là tâm tánh chân thật nơi chính mỗi người (các pháp do tâm tạo) thì mùa xuân có đến hay qua đi, tâm ngài vẫn thảnh thơi như một thiền tăng đang tọa vị trên sàng thiền, tình cờ thấy cánh hồng rơi như một chuyện vô tình và cũng rất thường tình, không có gì đáng đề cập đến. Ai khám phá được chúa xuân đều có khả năng thấy biết mọi sự chuyển biến rõ ràng mà vẫn bình thản, bình thường, an nhiên bất động như vậy. Bằng vào tâm chứng, ngài vượt thoát mọi thứ một cách tự tại, thản nhiên.
4. Thoát mà không thoát, không thoát mà thoát.
Ai trói mà cố tìm giải thoát,
Chẳng phàm nào phải kiếm thần tiên.
Vượn nhàn ngựa mỏi ta già cỗi,
Như trước am mây chốn tọa thiền. (Sơn Phòng Mạn Hứng).
Không biết tự bao giờ mà mỗi người khi chưa giác ngộ đều thầm mang trong mình một tâm trạng “đang bị trói buộc”. Ngồi lại tỉnh táo xét xem “ai, cái gì trói mình?” thì lại nhận ra không có gì chắc thật đủ mạnh để trói được chúng ta cả. Đã không bị trói thì tìm cầu giải thoát làm gì? Cho nên Tổ nói: “Ai buộc mà cố tìm giải thoát, Chẳng phàm nào phải kiếm thần tiên.”.
Ai cũng hiểu, nhưng có lẽ hơi khó cảm nhận bởi chưa một lần xé toang màn lưới vô minh mê muội của thức tình. Cho đến khi tâm viên ý mã của mình ngoan ngoãn chịu lắng xuống, ta thấy:
“Trời xanh lồng lộng trời xanh,
Khi không vướn mắc tự mình riêng vui.”
Thảnh thơi mà sâu lắng; bất động nhưng sống động vô cùng; như thiền tăng vẫn ngồi đó bất động trước am mây đã tự bao giờ, mà bây giờ ta mới phát hiện. Có xao xuyến, bùi ngùi xen lẫn cả sự chấn động hân hoan khó tả? Đó là hình ảnh “Vượn nhàn ngựa mỏi ta già cỗi, Như trước am mây chốn tọa thiền.”.
5.Tùy duyên trong đời mà luôn vượt thoát.
“Ở đời vui đạo hãy tùy duyên,
Đói đến thì ăn, mệt ngủ liền.
Trong nhà có báu thôi tìm kiếm,
Đối cảnh vô tâm chớ hỏi thiền.” (Cư trần lạc đạo).
Ngay chỗ chúng ta đang sống, ngay tình huống mỗi người đang đối diện, ở bất cứ nơi nao, nếu chúng ta biết khéo léo tùy duyên vận dụng sống về và vui với đạo lý giác ngộ thì mới có được niềm vui thanh cao, vĩnh cữu. Mọi duyên là thuận, là nghịch, hay dù có như thế nào đi nữa, chúng ta cũng uyển chuyển tùy duyên một cách dễ dàng và nhẹ nhàng như việc thường ngày mỗi người vẫn làm – “đói ăn mệt ngủ”; để đạt được một mục tiêu duy nhất – “vui với đạo”.
Nếu không quan trọng mọi thứ bên ngoài thì việc tùy duyên này không khó. Mà không quan trọng cũng phải, bởi có gì quan trọng đâu! Tất cả chỉ là những thứ tạm bợ, không bền chắc. Hễ khéo tùy duyên, không tâm tìm cầu bên ngoài thì tâm mình rỗng lặng mà giác sáng trùm khắp. Mới biết, bảo bối ngay trong nhà mình, nơi chính mỗi người, không thể tìm cầu ở đâu khác mà có được (Trong nhà có báu thôi tìm kiếm). Nhận và sống được bằng tâm thiền vô giá này rồi thì sinh hoạt tới lui tự tại, không ngăn ngại. Ở ngay trong cảnh chúng ta đang sống mà vốn tự vượt thoát, không tâm mà thấy biết rành rẽ rõ ràng. Vậy thì còn tìm kiếm thiền ở đâu nữa? (Đối cảnh vô tâm chớ hỏi thiền).
6. Chân lý thoát ra được rạng ngời cho đến khi sắp viên tịch.
...Đến ngày mùng 1 tháng 11, đêm nay trời trong sao sáng, ngài hỏi Bảo Sát: “Hiện giờ là giờ gì?”. Bảo Sát bạch: “Giờ Tý”. Ngài lấy tay vén màn cửa sổ nhìn xem và nói: “Đến giờ ta đi.”. Bảo Sát hỏi: “Tôn đức đi đến chỗ nào?”. Ngài nói kệ đáp:
Tất cả pháp chẳng sanh, Tất cả pháp chẳng diệt.
Nếu hay hiểu như thế, Chư Phật thường hiện tiền.
Nào có đến đi gì đâu!
Như bầu trời xanh trong trẻo, có những áng mây trắng lặng lờ trôi. Nếu nhìn theo sự biến chuyển của áng mây thì chúng ta sẽ bị những vầng mây kia chi phối, trôi theo sự còn mất sanh diệt của nó mà quên đi bầu trời xanh kia không chút lay động. Nếu nhìn thấu suốt qua bầu trời xanh mà không quan tâm đến sự sanh diệt của áng mây thì cũng thấy mây trôi, nhưng chỉ là chuyện bình thường không dính dáng gì đến chân trời kia; chỉ là thế thôi chứ không có gì phải bận tâm, bàn nói.
Cũng thế, ngay áng mây của thân tứ đại và các pháp quanh ta có sanh có diệt, nhưng tất cả không ra ngoài chân trời tự tánh hãy còn đó, chưa từng sanh diệt bao giờ. Suốt qua áng mây sanh diệt của các pháp; thấu tột, thể nhận và sống thẳng bằng tự tánh kia, sẽ thấy các pháp có tụ có tán, có đến có đi; nhưng lại chưa từng sanh, cũng chưa từng diệt bao giờ. Sống trọn vẹn bằng tự tánh như thế, tâm ta vốn đồng tâm Phật, “chư Phật thường hiện tiền”. Năng lực vĩ đại của tự tánh cho ta không động mà thấu suốt tinh tường như thế. Đã đến trong đây thì thấy rõ các pháp xưa nay chưa từng sanh diệt. Thân này có sanh đi tử lại, nhưng chỉ thế thôi, chưa từng thấy có biến dịch bao giờ, “nào có đến đi gì đâu?”.
Bảo Sát hỏi: “Chỉ như khi chẳng sanh chẳng diệt là thế nào?”. Ngài liền tát vào miệng Bảo Sát và nói: “Chớ nói mớ!”. Nói xong, ngài nằm như sư tử lặng lẽ thị tịch.
Hiện nay, nhằm chỗ nào để thấy Tổ sư? Tổ vẫn còn đó hay đã nhập diệt đâu rồi?
Nói đến tột cùng cũng chỉ là bất đắc dĩ để tạm nói vậy thôi chứ không thể dùng lời để nói hết được. Hiện nay, chúng ta đang ở trong thời kỳ văn minh hiện đại, tất cả đều đang phát triển tiến bộ không ngừng, lại còn mạnh khỏe sáng suốt, nhưng để thấu suốt được lời khai thị của bậc tiền bối cha ông mình thì chưa bao giờ là việc dễ. Vậy mà đến trước cửa tử sanh, Sơ Tổ vẫn rạng ngời, vẫn lẫm lẫm oai phong hơn cả sư tử, tát cho Bảo Sát một tát rồi bảo: “Chớ nói mớ!”. Đến trong ấy liền thấy tột các pháp xưa nay chẳng sanh chẳng diệt. Thấy thì liền biết. Có ai ngộ đạo mà không biết đâu, lại còn đi hỏi là thế nào. Còn hỏi là thế nào thì có khác nào người ngoài cuộc, còn trong mê, đang mở mắt giữa ban ngày mà nói mớ! Một sự thoát ra tuyệt đối hiển hiện rạng ngời cho đến khi Sơ Tổ sắp qua đời. Thật tuyệt vời làm sao
Tóm kết.
Chưa bàn đến toàn diện, chỉ mới nhìn về một phương diện thoát ra, chúng ta đã thấy Sơ Tổ Trần Nhân Tông là một bậc kiệt xuất, vĩ đại trong một đời sống giản dị, gần gũi, bình thường. Nếu không chịu khó để tâm học hiểu và quyết tâm thực tập triết lý thoát ra, chúng ta sẽ nhuốm sâu trong hố đen của sai lầm, tội lỗi, không thể cảm nhận được giá trị lớn lao của chân lý ấy. Nhìn cuộc đời của Sơ Tổ Trúc Lâm qua những biểu hiện thoát ra từ hiện tướng kỳ đặc, cho đến đời sống sinh hoạt của ngài từ khi sinh ra mãi cho đến lúc nhập diệt, cả một đời vốn tự thoát ra một cách rất tự nhiên. Mới biết, đã bao nhiêu đời rồi ngài thực hành và huân tu sâu dày, hôm nay chín muồi mới đạt được như thế.
Thoát ra để không tự mãn, chủ quan hay tiêu cực. Thoát ra để được bình tĩnh và sáng ra. Nếu hay thoát ra được, sẽ cho chúng ta khả năng uyển chuyển tùy duyên, biết cảm thông và chia sẻ; để hành xử và giải quyết mọi việc một cách linh hoạt đưa đến kết quả hoàn hảo; để được lợi mình lợi người; để phụng sự nhân sinh, tích cực giúp ích cho đời mà không tự mãn; và cuối cùng là siêu việt.
Người sống được bằng sức sống thoát ra tuyệt đối thì không cố định là phải ở không, cũng chẳng phải nhất thiết phải làm nhiều công việc. Thoát khỏi hai khái niệm trên thì chúng ta tự vượt thoát, không còn những suy nghĩ như phàm tình. Hằng ngày có làm nhiều việc lợi ích cho đời nhưng vẫn như là chưa từng làm gì cả. Vì vậy, Tuệ Trung Thượng Sĩ nói: “Ngày ngày đi gặt lúa, Giờ giờ kho lẫm không.”. Chính không vướng kẹt vào sở đắc cho nên tích cực làm lợi ích cho chúng sinh một cách nhiệt tình, không có khái niệm bao giờ là vừa đủ, là nghỉ ngơi. Đây là tinh thần tích cực của người biết sống về bằng chân lý thoát ra.
VI. KẾT LUẬN.
Có nhận thức được giá trị, trong thâm tâm có thích thú để đêm ngày tâm tâm niệm niệm quyết tâm học hỏi, chiêm nghiệm và thực tập cho bằng được tột cùng chân lý thoát ra thì mới được thấm nhuận, tinh thần này mới được phát huy qua nhiều lĩnh vực, mang lại kết quả mỹ mãn như ý muốn. Chúng ta thấy rõ điều này nơi Sơ Tổ Trúc Lâm. Đời sống của ngài bình dị mà hướng thượng như thế cho nên từ cuộc đời, tư tưởng, hành xử, việc làm, sinh hoạt, tu tập, giáo hóa cả đến khi viên tịch, không bao giờ thiếu vắng sức sống từ chân lý thoát ra này. Thoát mà không thoát, không thoát mà hằng vượt thoát. Bình dị nhưng rất siêu xuất; bình thường nhưng lại phi thường. Đó là chân lý thoát ra đặc biệt chúng ta học được từ Sơ Tổ Trúc Lâm. Sống được bằng chân lý này thì không thể nào tả hết giá trị đặc biệt của nó. Bởi lẽ nó sẽ làm thành cho mình trong nhất cử nhất động của mỗi người. Bằng ngược lại thì phải trả giá, thất bại, khổ đau.
Trước một thời đại đang từng ngày phát triển tiến bộ nhanh chóng, nhiều lĩnh vực đạt đến đỉnh cao. Lẽ nào chúng ta lại bỏ sót một triết lý siêu việt mà cũng rất giản dị, thiết thực và gần gũi trong đời sống thường ngày của mỗi người mà cha ông chúng ta đã từng phát huy rất hiệu quả? Nếu thật sự như thế thì nhân loại phải chịu thiệt thòi biết bao!
Tài liệu tham khảo:
- Tam Tổ Trúc Lâm Giảng Giải. Tác giả: Hòa Thượng Thích Thanh Từ.
Nhà Xuất Bản Thành Phố Hồ Chí Minh, năm 1997.
- Thiền sư Việt Nam. Tác giả: Hòa Thượng Thích Thanh Từ.
Nhà Xuất Bản Thành Phố Hồ Chí Minh, năm 1999.
- Tuệ Trung Thượng Sĩ Ngữ Lục. Tác giả: Hòa Thượng Thích Thanh Từ.
Nhà Xuất Bản Thành Phố Hồ Chí Minh, năm 1996
ĐỀ TÀI THAM GIA HỘI THẢO TRẦN NHÂN TÔNG VÀ PHẬT GIÁO TRÚC LÂM.
Thượng Tọa Thích Tâm Hạnh – Thiền viện Trúc Lâm Bạch Mã, Huế.