BẢO NHẬM
Đốn ngộ tuy đồng Phật,
Đa sanh tập khí thâm.
Phong đình ba thượng dũng,
Lý hiện niệm du xâm
Nghĩa:
Đốn ngộ tuy đồng Phật,
Nhiều đời tập khí sâu.
Gió dừng sóng còn vỗ,
Lý hiện niệm vẫn vào.
Lẽ thật sờ sờ không chối cải, nhưng làm sao một phen sáng phải sáng mãi không cùng tận! Bởi ngộ thì trong chớp mắt không kịp suy nghĩ, song từ đó vềsau thời gian còn dài, sức sống của mình chưa trải qua, đâu thể đem công phu trong một thoáng mà sánh kịp! Do đó, cần phải có sự bảo nhậm, gìn giữ, khiến cho LÝ TỨC NHƯ THẾ, SỰ CŨNG NHƯ THẾ mới là thật sự có sức sống không dối. Hãy nghe Qui Sơn sau khi tỏ ngộ, lễ tạ trình bày với Tổ Bá Trượng, Bá Trượng liền bảo:
“Đây là con đường rẻ tạm thời. Kinh nói: Muốn thấy Phật tánh, phải quán thời tiết nhân duyên, thời tiết đã đến, như mê chợt ngộ, như quên chợt nhớ, mới tỉnh vật của mình không từ bên ngoài được. Cho nên Tổ Sư bảo: - Ngộ rồi đồng chưa ngộ, không tâm cũng không pháp. Chỉ là không tâm hư vọng, phàm thánh..v.v… xưa nay tâm pháp nguyên tự đầy đủ. Nay ngươi đã vậy nên tự khéo giữ gìn.”
Và Ngưỡng Sơn bảo Quang Dũng:
“Phàm thánh cả hai đều quên; tình dứt, thể hiện bày. Ta lấy đây để nghiệm xét người, hai mươi năm không kẻ đến, ông nên gìn giữ đó”
Bài “Bảo Cảnh Tam Muội” do ngài Vân Nham truyền cho Động Sơn Lương Giới, mở đầu bằng bốn câu:
Như thị chi pháp,
Phật Tổ mật phó.
Nhữ kim đắc chi,
Nghi thiện bảo hộ.
Nghĩa:
Pháp ấy như vậy,
Phật Tổ thầm trao.
Nay ông được đó,
Nên khéo giữ gìn.
Cho thấy, chư Tổ luôn luôn dặn dò gìn giữ kỹ lưỡng như thế, đâu thể hời hợt xem thường! Song, bảo nhậm như thế nào?
I. TÂM VÔ TRỤ
Chúng sanh chúng ta luôn luôn sống với “tâm có trụ”, do đó hằng mất mình trong chỗ trụ. Chỗ trụ tức các duyên trần, cũng gọi là bạn bè. Tâm chúng ta không bao giờ sống không bạn bè, trái lại cứ luôn luôn tìm bạn để duyên, để biết, không bạn bè thì tưởng chừng như không còn có mình. Sống từ kiếp này qua kiếp nọ, cứ lang thang nơi đất khách quê người, chính vì TÂM CÓ TRỤ này.
Giờ đây đã sáng được bản tâm, tỏ được bản tánh, thấy rõ được nguồn sống chân thật của chính mình rồi, có lẽ nào lại chịu sống theo nếp cũ đường mê đó sao? Kinh Kim Cang Phật dạy, nếu muốn AN TRỤ TÂM VÔ THƯỢNG CHÁNH ĐẲNG CHÁNH GIÁC, phải bố thí cả sáu trần. Nghĩa là muốn tâm không chạy lang thang nữa, phải buông xả, không trụ vào sáu trần, thì tự nhiên AN TRỤ thôi. Tâm đối trước sáu trần, tức là thường hiện diện trước thế gian này, nhưng không trụ vào một trần nào, là đi qua tất cả mà không dừng lại trên bất cứ thứ gì, thì chính đó là luôn luôn có mặt hiện hữu không mê. Bảo nhậm là chỗ đó!
Có vị tăng hỏi thiền sư Bổn Tịch:
- Học nhân trong mười hai giờ, thế nào bảo nhậm?
Sư đáp:
- Như người đi qua làng cổ độc, một giọt nước cũng chẳng được thấm môi.
Muốn giữ gìn suốt ngày không để vắng mất, phải như người đi qua làng cổ độc, thì cái gì trong đó, từ ngọn cỏ, cọng rau, giọt nước đều có chất độc, quyết không được đụng vào một chút gì. Cũng vậy, người bảo nhậm không mất, phải luôn luôn sáng ngời, đi qua tất cả cảnh trần mà không dừng lại trên bất cứ chỗ nào, thì có mất đi đâu? Trong ấy, chỉ cần vừa động niệm là để chạy lọt rồi.
Thiền sư Hân ở Dũng Tuyền từng bảo: “Ta bốn mươi năm tại chỗ này còn có chạy lọt, các ông chớ mở miệng to. Kẻ kiến giải thì nhiều, người hạnh giải thì trong muôn người mới có một.”
Đây là lời nói thành thật của người đã từng kinh nghiệm qua. Kẻ mới sáng, thoáng thấy lẽ thật ngay hiện tiền, tưởng chừng như mình đã sống trong ấy. Không ngờ giây phút đột biến xuất thần ấy qua rồi, tâm niệm quen theo đường cũ, lối mòn vẫn nổi dậy theo duyên, tình yêu ghét, lấy bỏ vẫn chưa sạch.
Thiền sư Đại Huệ bảo: “Thường thường người lợi căn thượng trí nhận được nó chẳng phí sức, bèn sanh tâm khinh dễ mà không tu hành; họ phần đông bị cảnh giới trước mặt cướp đoạt mang đi, làm chủ tể chẳng được, ngày qua tháng lại mê man chẳng tỉnh, đạo lực không thắng được nghiệp lực, nên ma được dịp thuận tiện phá hoại, chắc chắn bị ma nắm quyền sai sử, đến lúc mạng chung cũng chẳng đắc lực.” (trích “Kho Báu Nhà Thiền”).
Người lanh lợi nhận được dễ dàng tưởng là xong, là tự tại, không cần công phu gì thêm, lâu ngày sức yếu, đạo lực lại chưa có, hẳn bị nghiệp lực làm chủ dẫn đi, đụng cảnh yêu ghét vẫn yêu ghét như thường, mới biết THẬT CHƯA PHẢI.
Thiền sư Vô Văn Thông ở Hương Sơn, nối pháp ngài Thiết Sơn Quỳnh, đã từng kể lại kinh nghiệm của mình: “Tuy kiến giải về thiền đã rõ ràng và đầy đủ, nhưng vọng tâm vẫn còn ẩn kín sâu xa chưa hoàn toàn dứt sạch. Thế rồi, tôi lại lánh mình vào trong núi sáu năm ở châu Quang, kế sáu năm nữa ở Lục An, và sau rốt lại ba năm ở châu Quang nữa, bấy giờ mới được thật thảnh thơi.”
Cho thấy, người có thực sống đàng hoàng thì lời nói ra có đầy đủ hạnh giải thiết thực, không đồng với người chỉ nghiêng một bên lý. Lời nói thì giải thoát ngay trước mắt không cần trải qua thứ lớp công phu bên ngoài, nhưng thực tế có thật giải thoát hay không là một việc khác. Đâu phải nói giải thoát là thành giải thoát.
Chúng ta hãy nghe Hòa Thượng Viên Ngộ bảo: “Thuở xưa, bậc đạo cao đức dày bảo người đã thoát căn trần nên hoằng mật ấn hai ba mươi năm dụng công phu một cách lạnh lẽo, lặng lặng, vừa có mảy may tri kiến liền quét sạch, cũng chẳng lưu lại dấu vết càn quét. Ở trên bờ kia buông tay, quên hẳn toàn thân thì chắc chắn được sống rất thích thú. Chỉ sợ khởi cái biết về hành động ấy thì cái biết đó là tai họa vậy.” (trích “Kho Báu Nhà Thiền”).
Nghĩa là, người thực sự sáng đạo và sống đạo thì phải âm thầm gìn giữ cho quên hẳn tướng Ngã, không phải chưa gì đã lo phô trương cho người biết TA đã ngộ, bày hiện tri kiến này, tri kiến nọ. Đâu biết, trong ấy vừa khởi một chút thấy biết là dư rồi. Nếu lại khởi cái biết về hành động ấy, tức có bóng dáng cái TA xen vào, BIẾT TA ĐÃ NGỘ. Lục Tổ đâu chẳng từng bảo:
Ngơ ngơ chẳng tạo dữ,
Ngốc ngốc chẳng làm lành.
Lặng lẽ dứt thấy nghe,
Thênh thang tâm không dính.
Tổ nhắc, phải như ngu như ngốc, không một chút dấu vết cho quỷ thần xem thấy, không cần ai biết tới mình. Nên nhớ, muốn tỏ bày cho người biết mình đã ngộ, đã sáng, là trình cái TA ra rồi! Chúng ta đang mang thân phàm phu này, Ai dám bảo rằng ngay đây mình đã sạch tướng Ngã? Dù ngộ cao sâu cách mấy, nhưng tập khí chấp ngã nhiều đời vẫn còn đó, chưa hẳn sạch hết hoàn toàn, mà nó vẫn ngủ ngầm trong ta. Thiếu ánh sáng chánh giác là nó lộ ra ngay! Kinh nói, chỉ Phật mới là “Tri tập khí vĩnh đoạn”, tức Phật mới thật sự biết rõ chính mình dứt sạch hẳn không còn tập khí. Người có công phu thực sự cần nghiệm kỹ!
Ở một đoạn khác, ngài Viên Ngộ bảo: “Sau khi nhận được ý chỉ, phải miên mật tương tục giữ gìn khiến không gián đoạn để trưởng dưỡng thánh thai. Dẫu cho gặp cảnh giới ác mà vẫn có khả năng dùng được định lực chánh tri kiến dung nhiếp nó khiến thành một phiến thì cơn biến đổi lớn sanh tử chẳng đủ làm động lòng mình, hàm dưỡng được lâu năm sẽ thành con người vô vi, vô sự, đại giải thoát, đâu chẳng phải là chỗ làm đã xong, việc hành cước đã rồi ư!” (trích “Kho Báu Nhà Thiền”).
Tức một phen đã sáng phải sáng mãi không cùng tận, dù trong nghịch cảnh vẫn không mất, trong cơn sanh tử vẫn sáng tỏ, mới có sức sống chân thật. Chỗ này không thể nói suông, ngộ suông mà được; trái lại, phải công phu miên mật, liên tục giữ gìn không gián đoạn. Kinh nghiệm của người đi trước là như thế, chúng ta đâu dám tự hào với chỗ thấy hiểu riêng tư?
Hòa Thượng Qui Sơn hỏi Ngưỡng Sơn:
- Này Huệ tịch! Tâm thức ông vi tế lưu chú không đến, đã được mấy năm rồi?
Ngưỡng Sơn chưa vội đáp, hỏi vặn lại:
- Hòa Thượng không đến, đã được mấy năm rồi?
Lúc đó Qui Sơn đã bảy mươi tuổi, Sư đáp Ngưỡng Sơn:
- Lão tăng không đến đã bảy năm rồi.
Ngưỡng Sơn thưa:
- Huệ Tịch con chính đang náo loạn.
Lời bình của ngài Đại Huệ: - “Lấy đây mà xét, chỗ này lấy thô tâm nói không để mà dối nhau được chăng? Thật ra, phải là người có lực lượng lớn mới được!” (trích Kho Báu Nhà Thiền).
Vi tế lưu chú tức dòng sanh diệt nhỏ nhiệm, ngầm ngầm trong tâm. Ngưỡng Sơn như thế mà còn đáp: “Con chính đang náo loạn”, thử hỏi chúng ta ngày nay công phu được tới đâu mà dám vỗ ngực nói mình tự tại? Hãy nghe kỹ lời bình của thiền sư Đại Huệ: “Lấy đây mà xem, chỗ này lấy thô tâm nói không để mà dối nhau được chăng?” Chưa gì đã hấp tấp bảo tất cả đều không, nhưng thực sự đã không chưa? Dùng “lý hay” để dối người mê thì được, nhưng đâu thể dối Phật, dối Tổ, dối Diêm Vương! Hành giả chân chánh không thể không xét kỹ!
Cho nên, chính “Vô Trụ” là trả lại “tâm bình thường là đạo”, sạch hết mọi kiến giải sai biệt, chỉ một sức sống chân thật luôn hiện hữu.
Qui Sơn hỏi Ngưỡng Sơn:
- Chư Thánh từ trước hướng chỗ nào đi?
Ngưỡng Sơn đáp:
- Hoặc ở trên trời, hoặc ở nhân gian.
Vậy, đâu là chỗ đi của chư Thánh? Có chỗ nào, là bị người khám phá ngay, là bị quỷ thần có cơ hội thuận tiện, thì cùng phàm phu khác gì? Ngưỡng Sơn trả lời: “Hoặc ở trên trời, hoặc ở nhân gian”, ý chỉ không có chỗ cố định để tìm, để thấy, bặt dấu vết của tâm. Chỗ đi của chư Thánh là như thế như thế, người còn “có tâm” làm sao bắt theo kịp? Do đó không bao giờ có thể bắt chước.
Như vậy, chỉ một TÂM VÔ TRỤ mà sống đúng ý nghĩa chân thật của nó, tức luôn luôn sáng tỏ không mê, không gián đoạn. Ở trong đó thì một hạt bụi nhỏ cũng không lầm qua được. Như Tổ Lâm Tế bảo: “Giả sử có Văn Thù, Phổ Hiền mỗi vị hiện một thân đến hỏi pháp, vừa mở miệng: Thưa Hòa Thượng, tôi sớm biết rồi. Huynh đệ vừa đến gặp nhau, tôi đã trọn rõ. Bởi vì chỗ thấy của tôi riêng khác, ngoài chẳng trụ phàm thánh, trong chẳng trụ căn bản, thấy suốt trọn không có nghi ngờ.”
Tại sao ngài biết tinh tế như vậy? Chính vì tâm vô trụ, không trụ trong tâm, không trụ ngoại cảnh, trong ngoài phàm thánh đều bặt, không chỗ bám dừng, nên hằng sáng ngời, không có chút gì có thể làm lầm được. Vừa mở miệng “Thưa Hòa Thượng”, là biết ngay trong tâm ông có vấn đề gì rồi! Người vừa đến gặp nhau, cũng biết là: có việc rồi! Đến đây mới thực sự là “trâu trắng sờ sờ”. Chưa được vậy, đừng vội ăn to nói lớn, khó tránh khỏi nhân quả.
II. Ý CHỈ TÙY DUYÊN
Sùng Tín ngay khi được Hòa Thượng Long Đàm khai thị tâm yếu, Sư liền tỏ ngộ; sau đó bèn hỏi thêm:
- Làm sao giữ gìn?
Long Đàm bảo:
- Mặc tánh tiêu dao, tùy duyên phóng khoáng, chỉ hết tâm phàm, chẳng có thánh giải khác.
Con đường bảo nhậm rất đơn giản như thế. Đã sáng được việc lớn ấy rồi, thì cứ ngay đó mà sống, không mong cầu thêm gì khác nữa. Vẫn sống bình thường trong cuộc sống hằng ngày, tùy duyên mà đối tiếp, ăn cũng ăn, mặc cũng mặc, làm việc cũng làm việc như mọi người, song không trụ vào một cái gì để mất mình trong đó. Điểm quan trọng là: Trong đây không tạo thêm nghiệp mới, mà nghiệp cũ phải tiêu mòn vì không có duyên để tiếp nối, lâu ngày thuần thục mới thành tự tại. Trái lại, tùy duyên rồi tha hồ tạo nghiệp mới, nghiệp cũ lại tiếp tục tăng trưởng, đó là sai lạc đường tà, không phải tùy duyên chân chánh. Tùy duyên như thế là mặc tình buông thả theo duyên, theo cảnh, chính đó là bị duyên cuốn, là tùy duyên tiêu sự nghiệp quí báu, rất nguy hiểm! Tùy duyên đúng lý cần phải thấu rõ:
* THỨ NHẤT, THẤU RÕ TÁNH KHÔNG
Muốn thấu lý tùy duyên, phải rõ suốt Tánh Không trong bát-nhã. Nghĩa là, phải mở con mắt Bát-nhã, thấy rõ tất cả pháp trên đời không có gì thật cố định. Từ bản thân mình cho đến sự vật bên ngoài đều là tánh không, do duyên khởi tạm có. Thân thì đất nước gió lửa hợp thành, tế hơn thì từng tế bào từng tế bào chung hợp lại. Tâm thì từng niệm từng niệm thiện ác, có không, buồn vui, giận ghét..v.v… chung hợp. Cảnh thì từng nguyên tử từng nguyên tử kết lại thành. Trong đó có cái gì là thật thể cố định? Chính vì TÁNH KHÔNG, mới có thể tuỳ duyên mà hiện khởi tất cả. Như gương, vì nó vốn không một cái gì, nên nó có thể hiện đủ tất cả mọi thứ, nếu thật có một hạt bụi thì ngay hạt bụi đó nó không thể hiện cái khác. Cũng vậy, hư không vì nó không một cái gì nên nó có thể hiện đủ mọi vật. TÂM, không một cái gì nên nó có thể nghĩ đủ hết tất cả.
Năm ấm, vì tánh không nên có thể tùy duyên mà hiện lớn, hiện nhỏ, hiện mập, hiện ốm, hiện đen, hiện trắng, hiện trẻ, hiện già, hiện nam, hiện nữ… Nếu nó cố định là nam thì đời đời là nam không thể hiện nữ. Cố định là nhỏ thì suốt đời là đứa bé, không thể hiện thành người lớn. Cố định là người thì hiện người mãi, không thể hiện trời, hiện a tu la..v.v… Vậy Bồ-tát Quán Thế Âm làm sao có ba mươi hai ứng thân, khi hiện nam, khi hiện nữ…?
Đã rõ vốn không một cái gì cố định, thì bám chặt một chỗ làm gì để chịu khổ? Như vậy, tùy duyên là do rõ được TÁNH KHÔNG của các pháp, nên tùy duyên luôn luôn có ánh sáng Bát -nhã đi theo; do đó không mê lầm. Trái lại, nhắm mắt mà tùy duyên là đi xuống hố, vào chỗ u minh tối tăm hiểm nghèo.
Xưa ngài Tăng Triệu bị tội sắp hành hình, Sư thản nhiên nói bài kệ:
Ngũ ấm nguyên phi hữu,
Tứ đại bổn lai không.
Tương đầu lâm bạch nhẫn,
Nhất tự trảm xuân phong.
Nghĩa:
Năm ấm vốn chẳng có,
Bốn đại xưa nay không.
Đem đầu đến đao bén,
Giống hệt chém gió xuân.
Đó mới là thật sự biết tùy duyên. Với Sư, dù bị tử hình, vẫn không thấy buồn khổ, không sợ hãi, vì biết rõ năm ấm vốn không, bốn đại vô ngã, trong đó không thật có một cái gì để chết, một cái gì bị chém, nên chém đó như chém gió xuân vậy thôi. Thấy được như vậy, là tuỳ duyên hết khổ. Nghĩa là, còn duyên thì làm Phật sự tiếp, hết duyên thì ra đi, không cố ghì lại để chịu khổ, không oán trách để tạo thêm nghiệp mới. Đây là thật sự BIẾT TÙY DUYÊN.
* NHẬN RA BẢN TÁNH
Người nhận ra bản tánh chính mình luôn luôn hiện hữu, đây là của báu sẵn có nơi mỗi người, nên tùy duyên để sống trở về trong đó, đối mọi cảnh không lấy không bỏ, chỉ thuận với tánh mà sống không để mất nó, chính là khéo bảo nhậm.
Bài kệ tóm tắt bài phú Cư Trần Lạc Đạo của vua Trần Nhân Tông đã nói:
Cư trần lạc đạo thả tùy duyên,
Cơ tắc xan hề khốn tắc miên,
Gia trung hữu bảo hưu tầm mích,
Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền.
Nghĩa:
Ở đời vui đạo hãy tùy duyên,
Đói đến thì ăn, mệt ngủ liền,
Báu sẵn trong nhà thôi tìm kiếm,
Đối cảnh không tâm chớ hỏi thiền.
Muốn sống ngay trong lòng đời mà được vui với đạo, thì phải khéo biết tùy duyên. Duyên đến thì làm, duyên qua liền thôi, không bám víu, không ghì níu, cũng không chối bỏ, không xua đuổi, khiến sạch hết dấu vết cái TA xen vào trong đó. Đói thì ăn, mệt thì ngủ, giống như người đời nhưng không phải người đời, đòi hỏi ăn thế này thế nọ, nằm trằn trọc tính toán đủ điều, mà chỉ một lòng rỗng rang vô sự. Sở dĩ được như vậy, là vì nhận biết rõ trong nhà có sẵn của báu vô giá, không gì ở thế gian sánh kịp, đâu còn phải dong ruỗi tìm kiếm theo bên ngoài nữa. Chính ngay đây, đối trước mọi cảnh, mọi duyên mà vô tâm, không khởi niệm trụ vào cảnh, đó là thiền rồi. Tức là đối trước cảnh mà không mất mình, vẫn luôn luôn giữ của báu trong nhà. Đấy là tùy duyên mà thường sáng tỏ, không mê mờ, lúc nào cũng có ánh sáng chân thật đi theo, không đặt thành một cái TA trong đó: Nên ăn hay chẳng nên ăn, nên ngủ hay chưa?
Thiền sư Nghĩa Hoài ở Thiên Y có bài kệ:
Nhạn quá trường không,
Ảnh trầm hàn thủy.
Nhạn vô di tích chi ý,
Thủy vô lưu ảnh chi tâm.
Nghĩa:
Nhạn bay qua trên trời,
Bóng chìm dưới nước lạnh.
Nhạn không có ý để dấu lại,
Nước không có tâm giữ bóng kia.
Tức là đi qua tất cả cảnh mà không để lại dấu vết gì, không lưu giữ trong tâm một bóng dáng. Đó mới thật là tùy duyên tự tại. Gọi là vào nước không quậy sóng, vào rừng không động lá. Chỗ này có thể bắt chước được sao?
Có vị tăng hỏi ngài Triệu Châu:
- Thế nào là cầu đá Triệu Châu?
Sư đáp:
- Độ lừa độ ngựa.
Đây hỏi cầu đá, nhưng ngầm ý muốn chỉ chỗ sống kia. Triệu Châu đáp rất bình thường: “độ lừa độ ngựa”, nghĩa là nó sẵn sàng đưa lừa, đưa ngựa đi qua, lừa ngựa đi qua trên đó, nó không khởi niệm thuận cho hay chối bỏ, ngăn cản; không cố chấp phải đưa người sang quý, đưa hàng Bồ-tát, Thánh hiền, còn thú vật thì bỏ lại. Nếu thấy như thế thì chưa thật thấy cầu đá Triệu Châu trong đây rồi. Chỉ có điều là, nó độ lừa, độ ngựa bình đẳng nhưng không đồng hóa mình với lừa, với ngựa, khiến mất mình trong chỗ lừa ngựa đó, là nguy! Thế là tùy duyên mà không đòi hỏi theo một cái TA, không sanh niệm lấy bỏ để tạo thành nghiệp mới, tự tánh luôn sáng ngời trong mọi duyên. Bảo nhậm như thế mới thật sự là MỘT PHEN SÁNG HẰNG SÁNG MÃI !
* CỐT HIỂU RÕ THẾ GIAN TƯƠNG ĐỐI
Để biết tùy duyên, cốt phải hiểu rõ lẽ thật của thế gian là luôn luôn tương đối, tất cả đều nằm trong đối đải mà thành, không có một cái gì cố định hoàn toàn, thì cố bám chặt một chỗ để làm gì? Dù bám cũng không thể được! Hãy xem, thiện thì đối với ác, phải đối với quấy, vui đối với buồn, Thánh đối với phàm, cha đối với con, nam đối với nữ, ta đối với người..v.v… không có một cái gì đứng riêng lẻ mà thành. Vậy mà chúng ta cứ đòi hỏi một chiều, đòi hỏi cái toàn mỹ, làm sao có? Không thể có mà đòi hỏi, khi không được liền khổ! Nhưng tâm lý con người, ai ai cũng muốn thấy toàn mỹ, đó là mê. Bởi chính mình còn chưa toàn mỹ mà muốn mọi người toàn mỹ làm sao được? Ngay nội tâm mình cũng thường tự mâu thuẫn với chính mình. Có khi ngoài mặt thì vui vẻ mà trong lòng đang buồn bã, đau khổ. Mới đó muốn xả hết để tu hành kế lại đổi ý tiếc thế gian! Vừa muốn đi nghe pháp, kế đổi ý muốn đi chơi..v.v… Ngay mình với mình còn trái ngược như vậy mà đòi hỏi bên ngoài phải toàn mỹ, phải toàn như ý là điều không thể có. Không thể có mà cứ đòi hỏi là khổ thôi! Là không biết tùy duyên.
Kìa, Phật cũng có người chê! Kẻ uống rượu say sưa, kẻ trộm cắp cũng có người khen. Ai khen? Tức đồng bọn với nhau đó! Kinh Pháp Cú có câu:
Xưa, vị lai và nay,
Đâu có sự kiện này.
Người hoàn toàn bị chê,
Người trọn vẹn được khen.
Lẽ thật từ xưa tới nay, trên thế gian này không có ai là người hoàn toàn được khen, dù là bậc Thánh; nhưng cũng không có người hoàn toàn bị chê, dù là kẻ xấu. Do đó, người hiểu đạo thì bình tỉnh trước lời khen chê của thế gian.
Đó là nói về khen chê, về “được mất” cũng vậy, có được thì có mất, nếu người biết tùy duyên khéo chuyển thì vẫn an vui, trái lại thì buồn khổ. Như chuyện bà Tỳ Xá Khư một nữ thí chủ quan trọng trong thời Đức Phật. Một hôm bà khoác cái áo choàng rất quí giá để đi chùa. Khi đi đến cổng Tinh xá, bà cởi áo choàng ra đưa cho người hầu gái cầm giữ. Lúc ra về, cô hầu gái vô ý, bỏ quên lại. Về đến nhà sực nhớ, bà bảo đứa hầu gái quay trở lại tìm, nhưng dặn rằng, nếu có vị tỳ kheo nào đã đụng đến chiếc áo đó thì thôi, không nên lấy về. Cô hầu gái đến Tinh xá hỏi thăm thì biết rằng Đại Đức A Nan Đa đã cất giữ cái áo choàng, nên trở về báo lại cho bà. Bà Tỳ Xá Khư liền đến gặp Phật và tỏ ý muốn làm một việc thiện với số tiền bán cái áo choàng quí giá ấy. Đức Phật khuyên bà nên xây dựng một ngôi Tinh xá cho chư tăng có nơi trú ngụ. Vì không có ai đủ tiền mua chiếc áo đắt giá ấy, cuối cùng bà bỏ tiền ra mua lại và dùng số tiền ấy xây dựng thành một ngôi Tinh xá khang trang dâng lên chư tăng. Sau khi làm lễ dâng ngôi Tinh xá xong, bà gọi cô hầu gái đến và bảo: “Nếu không có con vô ý bỏ quên chiếc áo choàng thì hẳn ta không có cơ hội để tạo nên phước báo này. Vậy thì ta xin chia phần phước này với con.”
Đây là chuyển MẤT thành ĐƯỢC. Nếu như người khác, cứ bám chấp vào cái đã mất hẳn sanh tâm tức giận, chửi mắng, đánh đập người hầu gái, thế là tự mình vừa bị lửa sân đốt khổ, lại vừa tạo thêm nghiệp dữ cho đời sau chịu khổ tiếp. Vừa gây khổ cho mình, vừa làm khổ cho người. Còn ngay đây biết chuyển trở lại như bà Tỳ Xá Khư, thì chẳng những bà được niềm vui cúng dường, người hầu gái cũng vui, chư tăng cũng vui và ngày nay chúng ta nghe nhắc lại cũng vui theo!
Vì vậy, người biết rõ thế gian đều tương đối, không có cái hoàn toàn, thì không một bề cố chấp theo ý mình, không bám chặt vào cái TA cố định để chịu khổ, mà khéo biết tùy duyên sống an lành giữa dòng đời tương đối.
* PHẢI BIẾT LINH ĐỘNG KHÔNG CỐ CHẤP
Đã hiểu rõ lẽ thật như trên, cần có một cuộc sống cởi mở linh động và sáng ngời, tùy duyên không khư khư ôm lấy một chiều. Như chuyện ông Lưu Ngưng Chi đi giày, có người đến nhận là giày của họ, ông liền cởi giày đưa cho người ấy ngay. Sau đó, người ấy tìm được giày của mình, vội đem giày trả lại cho ông, ông nhất định không nhận. Thẩm Lân Sĩ cũng đi giày, có người đến nhận là giày của họ, ông cũng cởi đưa cho họ. Sau, người ấy tìm thấy giày của mình, liền đem giày đến trả lại cho ông, ông nói: - Không phải giày của bác à! Ông cười và nhận lại.
Tô Thức nói: - Việc này tuy nhỏ mọn, song ở đời ta nên cư xử như ông Lân Sĩ, không nên như ông Ngưng Chi. (Cổ Học Tinh Hoa)
Giày mình đang mang, người đến nhận là của họ, liền cởi ra đưa cho họ, thực là một việc ít có khó làm! Song, người đã biết lầm, đem trả lại thì cũng phải cảm thông nhận lại cho người, khiến người giải tỏa lỗi lầm. Nếu cứ khư khư giữ lấy cái phải của mình, e rằng chưa trọn tốt!
Đó là chuyện của nhà Nho. Đến trong nhà Thiền, chúng ta thấy tinh thần tùy duyên của Thiền rất cao tuyệt! Thiền sư Bạch Ẩn Huệ Hạc lúc tiếng tăm Sư đã lên cao, người người đều ca tụng Sư sống rất trong sạch. Bỗng một hôm ở gia đình bán thực phẩm gần đó có cô con gái xinh đẹp, bất chợt họ phát hiện cô có thai. Cha mẹ cô nổi giận trách mắng cô và gạn hỏi ai là tác giả bào thai đó. Cô nói tên: Bạch Ẩn. Cha mẹ cô liền đến chùa tìm Sư tặng cho đủ những lời không tốt của thế gian. Sư chỉ nói: - THẾ À!
Khi đứa bé được sanh ra, nó được mang đến chùa giao cho Sư. Từ đó, danh dự của Sư bị xuống dốc hẳn, Sư vẫn thản nhiên. Sau, cô gái không chịu nổi sự ray rức nơi cõi lòng, thú thật với cha mẹ rằng: - Cha đứa bé không phải ngài Bạch Ẩn, mà là chàng thanh niên bán cá ngoài chợ. Cha mẹ cô bật ngửa, lo sợ, vội vàng đến sám hối với Sư và xin nhận lại đứa bé. Sư cũng chỉ thốt lên: - THẾ À!
Chúng ta thấy tinh thần tùy duyên của thiền sư Bạch Ẩn thật là tuyệt diệu! Được tiếng tăm không hảnh diện, mất tiếng tăm không chút buồn khổ, xem sự được mất như trò chơi. Người nói oan, người biết lầm, vẫn thản nhiên như không có chuyện gì, không chút bận lòng. Khi nhận đứa bé, không buồn giận, không oán hờn. Khi trả đứa bé, không trách mắng, không nặng lời, chỉ một câu: “THẾ À!”, trước sau trong lòng vẫn bằng phẳng không chút gợn sóng. Chỗ này dễ bắt chước được sao? Nếu không phải người thực sự có sức sống chân thật sâu dày bên trong, không thể nào làm được.
Còn đây, thiền sư Trí Chơn gặp thời vua Võ Tông hủy diệt Phật giáo, bắt tăng trẻ phải hoàn tục, Sư cũng hoàn tục. Lúc đó, Sư có bài kệ dạy chúng:
Nhẫn tiên lâm hạ tọa thiền thì,
Tằng bị Ca Vương cát tài chi.
Huống ngã thánh triều vô thử sự,
Chỉ linh hưu đạo diệc hà bi?
Nghĩa:
Nhẫn tiên thiền tọa ở rừng sâu,
Từng bị Lợi Vương chặt cắt đau.
Huống nay Thánh chúa không việc ấy,
Chỉ bắt thôi tu đáng buồn đâu?
Đây là Sư hằng có sức sống chân thật nơi nội tâm, nên tùy hoàn cảnh mà thuận sống, không có gì trái nghịch, không có gì ngăn chướng. Sư đã thật sự có sức sống thiền.
* TÙY DUYÊN LÀ PHÁ NGÃ KIẾN
Với tinh thần tùy duyên, là nhằm phá cái kiến chấp ngã, tức luôn luôn thấy có TA thật, vật thật, cái thấy của ta là trên hết, hằng có một cái TA ngự trị nơi mình. Do đó, cứ chấp chặt một là một, hai là hai, không thể thay đổi. Ta nghĩ thế nào thì bảo vệ tối đa cái nghĩ ấy, vì nó là TA mà! Sợ mất cái TA! Đấu tranh, chết chóc, đau thương không dừng, cũng vì đó! Song hãy xét kỹ: cái gì là cái nghĩ của ta? Đem chỉ ra xem! Kinh Kim Cang Phật dạy: “Nói ngã kiến tức chẳng phải ngã kiến, đó gọi là ngã kiến”. Phật xác định rõ, nói là ngã kiến tức cái kiến chấp ngã, mà thực không cố định có cái kiến chấp ngã, không có cái ngã thể thật để chấp. Chấp ngã chỉ là một KHÁI NIỆM sai lầm về TA vậy thôi. Tìm đâu ra cái kiến chấp để chỉ? Mở sáng con mắt Bát -nhã, nhận rõ cái thấy sai lầm đó, liền hết lầm, không chỗ để chấp.
Hãy xem, một viên kim cương, ta thấy là quí, đứa bé thấy là món đồ chơi, tùy tâm tưởng sai biệt mà thấy thành quí, thành tiện, có gì cố định đâu mà khăng khăng bám chặt không chịu buông, để chịu khổ!
Trong Tuyệt Quán Luận có đoạn nói lên ý nghĩa tùy duyên này.
Hỏi: - Con thấy có người học đạo, phần nhiều chẳng chuyên ròng giữ giới, chẳng chăm lo gìn giữ oai nghi, chẳng giáo hóa chúng sanh, cứ mặc tình thoải mái, là ý gì?
Đáp: - Là muốn quên tất cả tâm phân biệt, muốn dứt tất cả kiến chấp có, tuy tợ mặc tình thoải mái mà bên trong thực hành không gián đoạn.
Tức là, ở đây vì phá niệm SẠCH NHƠ, thấy ta đây tu hành thanh tịnh, nếu bị người chê liền buồn giận, đó là chưa thật thanh tịnh, cho nên thiền sư mới có những hành động khó hiểu như trên. Bởi tướng thanh tịnh cũng không cho chấp, không cho để lại dấu vết trong tâm thể kia. Tuy nhiên, chỗ này dễ bị hiểu lầm bắt chước. Người chưa thật có công phu, nghe nói sống thoải mái để phá kiến chấp “CÓ” trên hình thức, rồi cũng bắt chước sống buông lung, ngang bướng, làm như vẻ tự tại, mà thực trong lòng chưa phải. Đó là bệnh!
Trong đây cần chú ý! “Tuy bên ngoài như vậy nhưng BÊN TRONG THỰC HÀNH KHÔNG GIÁN ĐOẠN”. Nghĩa là, bên trong luôn luôn sáng ngời không mê, không để một chút lọt hở khiến niệm khác xen vào. Nhất là không để cái TA chen vào liền thành bệnh hoạn.
Nên nhớ, thuận tánh mà sống tùy duyên để quên mọi kiến chấp phân biệt, không sanh tâm tạo tác thêm nghiệp mới, đó là bảo nhậm. Trái lại, làm như tự tại để tỏ ra TA đây không chấp, bèn thành CHẤP CÁI KHÔNG CHẤP, vẫn là bệnh nặng khó chửa. Vì bệnh mà không biết, tưởng mình là lành nên đâu chịu uống thuốc!
Song hãy nhớ kỹ! Làm để phá tâm phân biệt, tức là chưa sạch hết phân biệt mới phá! Nếu đã sạch thì còn phá cái gì? Vì vậy, khi nói “tôi làm để phá tâm phân biệt”, thì biết ngay là trong lòng đang còn có tâm phân biệt chưa thật sạch, chưa phải thật tự tại, chớ vội lầm mà sanh tâm kiêu mạn! Cũng như nói “tôi phá chấp cái này, phá chấp cái kia”, tức là “tôi còn chấp” mới phá! Chỗ này rất tế nhị, chớ lầm!
* TÙY DUYÊN KHÔNG LẬP DỊ
Một điểm quan trọng nữa cần thấu rõ là, vì tùy duyên nên không làm khác người, không lập dị để tỏ ra mình là bậc đạt đạo khiến người cung kính, chính đó là tướng khác của tướng Ngã. Ở đây, cần làm tất cả, cũng ăn, cũng mặc, cũng ngủ, cũng sống như mọi người, song luôn luôn không rời tự tánh, không để vắng mặt ánh sáng tự tâm, thì tùy duyên mà không biến đổi, không làm tiêu sự nghiệp.
Hòa Thượng Quán Khê khi đến chỗ Mạt Sơn, Sư hỏi bà ni Liễu Nhiên:
- Thế nào là chủ Mạt Sơn?
Liễu Nhiên đáp:
- Chẳng phải tướng nam nữ.
Sư bảo:
- Sao chẳng biến đi?
Liễu Nhiên đáp:
- Chẳng phải thần, chẳng phải quỷ, biến cái gì?
Sư kính phục, ở lại Mạt Sơn làm Tri viên ba năm.
Hỏi chủ Mạt Sơn, đáp chẳng phải tướng nam nữ. Vì cái ấy đâu thuộc tướng trạng gì, song bảo biến đi là lầm. Bởi nó vốn sẵn như vậy, không phải do biến mất tướng nam nữ mà thành. Biến tướng nam, biến tướng nữ cho mất đi, cũng là ở trên tướng mà bàn, vẫn thuộc lấy bỏ, đâu thể thấy được người chủ kia! Trong khi đó, người chủ kia vẫn ở ngay tướng nam nữ này, mà không phải tướng nam nữ, vẫn đi đứng tới lui mà không tướng tới lui, hiện trong mọi hành động mà không rời tự tánh, đó mới là chân thiền. Vì vậy, trong đây vừa có một chút tình chấp là không biết tùy duyên.
Có vị ngoại đạo đến hỏi Phật:
- Hôm qua Ngài thuyết pháp gì?
Phật đáp:
- Hôm qua ta thuyết pháp định.
Ngoại đạo hỏi:
- Hôm nay Ngài thuyết pháp gì?
Phật đáp:
- Hôm nay ta thuyết pháp bất định.
Ngoại đạo hỏi:
- Hôm qua giảng pháp định, vì sao hôm nay giảng pháp bất định?
Phật đáp:
- Hôm qua định, hôm nay bất định.
Phật đáp quá hay! Ai thấy chăng? Ngoại đạo chấp theo ngôn từ, nghe nói định hiểu là định, nghe nói bất định hiểu là bất định nên thắc mắc sao Phật nói lạ. Không ngờ Phật phá cái chấp cố định của ông, không cho ông chấp chặt một chỗ thành pháp chết. Tại sao hôm qua nói pháp định, hôm nay nói pháp bất định? Bởi vì, nếu một bề là pháp định thì đâu có ngày hôm nay. Có hôm qua, có hôm nay thì rõ ràng là bất định rồi. Nên Phật nhấn mạnh: “Hôm qua định, hôm nay bất định”. Như vậy, nếu cứ một bề chấp chặt hôm qua là hôm qua, hôm nay là hôm nay, đó là mê, là sống với quá khứ đã chết, thiếu sức sống sáng tạo. Cũng vậy, nghe nói định pháp, chấp định pháp, tức là mê, là kẹt trên ngôn ngữ khái niệm.
* TÙY DUYÊN LÀ SÁNG TẠO
Bởi khéo tùy duyên, không bám chặt vào một cái TA cố định nào hết, do đó mới có sức sống sáng tạo vi diệu, không đóng khung vào một chỗ chết.
Thiền sư Pháp Diễn từng có một bài pháp thiền nói về ăn trộm. Sư bảo:
Ta trong đây, thiền giống cái gì? Như có người giỏi nghề ăn trộm, anh có một đứa con, một hôm đứa con nghĩ rằng: “Sau thời của cha ta, ta làm sao để nuôi sống gia đình? Ta cần phải học theo sự nghiệp của người mới được.” Đứa con bèn đem ý nghĩ đó thưa với người cha. Người cha bảo: - Tốt lắm! Đêm nọ, anh dẫn đứa con đến một ngôi nhà đồ sộ, khoét vách vào trong nhà. Gặp cái rương to, anh mở nắp rương ra, bảo đứa con vào trong đó lấy đồ. Đứa con vừa chun vào trong rương thì bất ngờ anh đóng ập nắp rương lại, rồi khóa luôn. Xong, anh ra ngoài sân đập cửa ầm lên đánh thức người trong nhà. Người nhà tỉnh dậy, vội thắp đuốc báo động thì biết rõ có ăn trộm, nhưng tìm khắp nơi không thấy, cho rằng đã đi khỏi rồi. Đứa con trong rương tự nghĩ hận cha mình, không biết làm sao hành động như thế. Nó chợt nghĩ ra một kế, bèn cào vào thành rương giả tiếng chuột gặm. Người nhà nghe tiếng, gọi đứa ở thắp đèn xem xét lại cái rương. Rương vừa được mở ra, đứa con ấy tung mình phóng ra, thổi tắt đèn, xô ngã chị ta, chạy ra ngoài. Người nhà đuổi theo đến giữa đường, đứa con ấy thấy bên đường có cái giếng, bèn ôm một tảng đá to gần đó ném vào trong giếng. Mọi người vội bao quanh bên giếng để tìm tên trộm. Đứa con chạy thẳng về nhà gặp người cha vừa định trách, người cha vội bảo: -”Khoan khoan, con hãy nói vì sao mà chạy được về đây?” Đứa con thuật lại xong, anh ta liền cười bảo: “Như vậy thì ngươi đã thành nghề rồi.”
Thiền sư nói thiền như vậy đó. Cho thấy ăn trộm là pháp xấu của thế gian, nhưng qua tay thiền sư cũng thành pháp thiền khai thị cho người. Nếu một bề cho là pháp xấu, là cái bị chê trách, nghe nói liền tỏ ý chê bai, khinh khi, tức bị khái niệm cũ kỹ lấp bít trong đầu, làm cho mất ánh sáng chân thật.
Bảo nhậm đến đây là đã thành một sức sống thật sự tuyệt diệu, khó nghĩ bàn!
Tóm lại, tùy duyên là gì? Tức là KHÔNG CHỖ BÁM. Đã rõ tất cả pháp có ra, từ pháp thế gian đến pháp xuất thế gian đều là nhân duyên đối đãi thành, không có một pháp thật, thì tại sao lại bám chấp vào một chỗ để chịu khổ? Để đóng khung mình một cách đáng thương!
Người biết tùy duyên chân chánh, tức là quên Tướng Ngã, luôn luôn tự tánh hiện hữu sáng ngời không gián đoạn, không chết trong một khuôn khổ nào, do đó không thể bắt chước. Vì đã tùy duyên tức không cố định, vậy làm sao bắt chước? Bắt chước là thành có cái khuôn rồi.
Điểm cần chú ý là: Tùy duyên mà còn có tướng “Ngã” xen vào, tức là bệnh, không phải thật.
Phải nhớ rõ: Tùy duyên là tiêu nghiệp cũ mà không tạo thêm nghiệp mới. Trái lại, tùy duyên mà tạo thêm nghiệp mới, nghiệp cũ lại đậm hơn là nguy! Đó là con đường đi xuống, gọi là bị duyên chuyển, chìm mãi trong sanh tử, là phiêu linh lãng tử lang thang trong các nẽo luân hồi.
Có câu chuyện để cảnh tỉnh: xưa có một thiền sư ăn uống hỗn tạp, không chọn lựa chay mặn, nhiều đệ tử thấy vậy bắt chước theo. Một hôm, Sư bày một bửa cúng ngay chỗ thiêu xác chết, rồi lấy thịt thiêu còn sót lại đem gộp chung vào thức ăn mà ăn. Đệ tử đều ói mửa, chạy mất. Sư bèn bảo: - Ta nhiều đời thanh tịnh mới không chọn lựa. Các ông có thể cùng ta ăn món này mới nên duy trì việc ăn uống như thế.
Từ đó, cả chúng sợ hãi, lo vâng giữ giới luật, nghiêm chỉnh tu hành.
Để thấy, người bắt chước mà trong tâm còn dấy niệm phân biệt nặng nề, còn đủ tình yêu ghét chưa quên, còn thích ăn ngon mặc đẹp, còn chán dở ghét xấu, mà bảo tùy duyên không ngại, đó là tự dối mình, dối người thôi, nhưng không thể dối người mắt sáng, không thể dối được nhân quả. Với thiền sư, tâm phân biệt đã sạch, có sức sống chân thật sâu dày bên trong mới tùy duyên tự tại để cảnh tỉnh người.
Như vậy, với một ý nghĩa tùy duyên này, nếu người thấu đạt cho cùng tột để sống, tức đã cởi mở tình chấp rất nhiều, là thành tựu công phu bảo nhậm vững vàng, không phải dễ dàng như cái hiểu thông thường, không phải tùy duyên là gặp gì làm nấy để mất mình trong duyên. Hoặc tùy duyên để tỏ ra TA đây tự tại, TA đây không vướng mắc, chính ngay đó đã vướng mắc rồi! Vướng mắc cái gì? Vướng mắc ngay lý tùy duyên. Đó là bệnh cần phải tránh.
Để tóm tắt lại ý nghĩa này: TÙY DUYÊN LÀ LUÔN LUÔN SÁNG NGỜI, TỰ TẠI KHÔNG CHỖ NÀO ĐỂ BÁM, KHÔNG CÓ XEN TƯỚNG NGÃ VÀO. Đó là TÙY DUYÊN tức VÔ TRỤ: một công phu thiết thực của người đạt đạo.
III. TÓM KẾT
Nói đơn giản, bảo nhậm là tùy duyên sống trở lại trong đời sống hằng ngày mà không để gián đoạn ánh sáng chân thật kia. Một phen đã sáng tỏ VIỆC LỚN rồi, sao cho trong bất cứ trường hợp nào, trong bất cứ cảnh duyên nào, dù nghịch, dù thuận, dù trong chỗ nguy hiểm ngặt nghèo vẫn không mất là thành tựu, ngoài ra không có thêm gì khác nữa. Muốn vậy, tâm phải luôn luôn đi qua tất cả mà không dừng lại ở bất cứ cái gì. Vừa có chỗ dừng liền không phải rồi. Vẫn sống bình thường như mọi người, nhưng trong ấy luôn sáng ngời ánh sáng tự tâm, không để thói quen nghiệp cũ sống lại. Đi qua không ngó lại! Cuối cùng tìm một chỗ trụ trọn vẹn không thể được, còn chỗ nào để đi? Để chạy lọt? Vô trụ xứ Niết bàn là đây!