Thứ Tư 30/10/2024 -- 28/9/2024 (Âm lịch) -- 2568 (Phật lịch)
Cái tôi hoàn lại đất trời, trả tôi mặt mũi muôn đời chưa sanh. Chẳng rời trước mắt thường lặng trong, Còn tìm liền biết anh chưa thấy

Thưa Hỏi Thiền - Chương II

 

CHƯƠNG 2: THƯA HỎI THÊM

 

 

 

Câu hỏi 1:

 

Khi ngồi thiền, có cần phải sổ tức, tùy tức không thưa Thầy?

 

Đáp:

 

Khi đề cập đến phương pháp sổ tức (đếm hơi thở) và tùy tức, quý vị nên nhớ là hai phương pháp này chỉ áp dụng cho lúc ngồi thiền (trong an tĩnh), chứ không ứng dụng trên các sinh hoạt khác có tính chất chuyển động, vận hành.

 

Khi đã sẵn sàng để thực tập ngồi thiền, ban đầu hành giả cần phải sổ tức. Thời gian sau thuần thục rồi đến tùy tức, sau đó tri vọng, biết là chơn tâm... Cá nhân quý Thầy kinh nghiệm, sổ tức là một phương pháp căn bản rất cần thiết cho một người bắt đầu tập ngồi thiền. Nếu muốn vượt bậc, ban đầu bỏ qua mà không thực hành kỹ bước này thì về sau sẽ sanh các chứng hơi thở tự hổn hển, cơ thể không thông và tự máy động nhúc nhích không giữ yên được, tâm loạn lên khiến hành giả mệt mỏi, chán chường, có cảm giác hối thúc xả thiền, không muốn tiếp tục ngồi nữa. Có người còn bị nóng chỗ này, lạnh chỗ kia, tức chỗ nọ... Muốn điều trị thì cũng phải đếm hơi thở lại cho thông, nhưng lúc này sẽ gặp khó khăn hơn rất nhiều so với người thực hành kỹ lưỡng có căn bản ngay từ buổi đầu. Cho thấy, sổ tức và tùy tức rất quan trọng cho một hành giả sơ cơ mới thực tập tọa thiền.

 

Bởi khi mới thực tập tọa thiền, cơ thể, tâm niệm, hơi thở đều còn thô phù. Khi tọa thiền đúng phương pháp, tất cả sẽ bắt đầu tự nó chuyển hóa từ thô sang tế. Có một số người thô trược mạnh quá thì khi mới thực tập ngồi thiền có thể có triệu chứng mắc ói một thời gian ngắn rồi sau mới hết. Vì vậy phương pháp sổ tức rất cần cho người sơ cơ. Khi tọa thiền, chỉ đếm hơi thở bình thường chứ không hề dùng thủ thuật, phương pháp, hay cách vận khí điều chỉnh gì đó để có ý cố chuyển từ trược trở về thanh, từ thô trở về tế. Chỉ thực tập tọa thiền và dụng tâm đúng pháp như Hòa thượng Tôn sư đã hướng dẫn, còn lại tất cả chỉ là một nguyên lý tự nó biến chuyển thôi. Những pháp thiền vận dụng về việc điều chỉnh, vận khí... đều không phải là thiền của Đạo Phật, dễ sanh bệnh hoạn.

 

Hơn nữa, lâu nay chưa quen công phu, bây giờ mới bắt đầu cho nên khi ngồi lại thì vọng niệm cứ cuộn trào mãnh liệt, cũng là chuyện thường. Nếu ngồi đó mà kềm vọng tưởng thì càng sai pháp, không đưa đến kết quả tốt, có khi còn phát sinh nhiều triệu chứng ngoài mong muốn. Thực hành phương pháp đếm hơi thở sẽ giúp giảm bớt đi sự chi phối của vọng tưởng. Sau một thời gian công phu tương đối thuần thục, không lộn số đếm, cơ thể và hơi thở thông từ từ, thân tâm cảm thấy nhẹ và hoan hỷ; đó là bắt đầu có được chút ít vốn liếng nội lực. Nhờ vậy nên vọng tưởng tự thưa dần. Và đó là nền tảng căn bản giúp chúng ta bước sang các nấc thang thực tập tiếp theo có kết quả tốt. Xe muốn chạy, trước tiên phải đề-pa cho có trớn rồi mới chạy nhanh dần. Cơ thể và hơi thở mỗi người cũng đang hoạt động như một động cơ ô tô vậy, nếu vận dụng đúng nguyên lý thì xe chạy sẽ tốt.

 

* Tóm lại: Pháp đếm hơi thở rất căn bản và hay vô cùng. Khi tu tập pháp này cần tránh hai cực đoan: Vượt bậc, bỏ qua nhanh và bám chấp vào sở đắc.

 

* Vượt bậc, bỏ qua nhanh: Đừng vội cho pháp đến hơi thở là thấp nhỏ rồi xem thường và bỏ qua thì sẽ ảnh hưởng công phu về sau. Có nhiều vị muốn vượt bậc bỏ qua, sau này bị chướng ngại rồi cũng phải quay lại dùng sổ tức để điều trị. Nhưng ban đầu thực hành cho thật kỹ và căn bản sẽ giúp chúng ta dụng công suôn sẻ và tốt vô cùng. Còn đợi đến khi bệnh mới quay lại điều trị thì sẽ khó khăn và vất vả hơn nhiều, chưa nói đến các phản ứng phụ không mong muốn.

 

* Chấp vào sở đắc: Có nhiều vị thực hành thành công pháp này đã đưa đến trạng thái mất thân, mất tâm, rỗng rang, thanh tịnh tuyệt đối. Thấy không còn thở nữa mà tự suốt thông, lạ lắm. Khi xả thiền ra ngoài đi đứng nói năng chạy nhảy gì cũng không động. Thích lắm! Đặc biệt lúc này chỉ trình cho vị thầy để được chỉ dạy thì sẽ tiến thêm rất nhanh. Còn đi kể cho người khác nghe thì dễ bị mất. Nếu không biết cầu tiến vươn lên thì dễ bị say đắm trong chỗ thanh tịnh đó, được ít cho là đủ, sẽ không vượt qua được chỗ tạm thời, dễ sanh bệnh. Cụ thể đến chỗ này hơi thở ngưng bặt nhưng lại suốt thông hơn cả hít thở bình thường. Ít ăn, không ngủ. Nếu có ngủ cũng vẫn sáng quắc, lặng trong như là đang thức, nhưng lại rất an như là ngủ sâu. Thức dậy như là mới chớp mắt, không có thời gian trôi trong đó. Thích tọa thiền nhiều. Khi ngồi thiền cảm nhận tất cả đều mất hút, suốt thông, thênh thang, nhưng sâu thẳm và an lạc đến diệu kỳ. Nếu không gặp vị Thầy sáng đạo có kinh nghiệm để chỉ dẫn, hành giả sẽ bám chấp vào đó và sống theo, không biết điều hòa sinh hoạt ăn uống, ngủ nghỉ; không khéo dụng tâm... Lâu ngày thân không theo kịp tâm; tâm thì dụng công chưa đúng; chỗ đạt được chỉ là “cái định của buổi đầu”, chưa đủ trí tuệ để biết dụng tâm, bắt đầu sanh bệnh và không thể tiếp tục công phu được nữa. Mới thấy, chấp chặt trong đó cho là đã chứng đắc sẽ bị ngăn ngại, không thể tiến thêm; có khi còn rơi vào tà kiến, bởi lúc này trí tuệ vô lậu chưa phát khởi. Ngược lại, nếu không chấp cho là đã chứng đắc, biết cầu tiến vươn lên thì tất cả đều tốt. Những điều vừa đạt đó là nền tảng rất căn bản để tiến đạo, công phu sau đó được nhẹ nhàng và tiến bộ rất nhanh. Khi đạt đến đây, hành giả không phải dẹp trừ hay giữ lấy gì cả. Chỉ là đừng mong cầu níu giữ nó lại, không chấp có sở chứng, quên đi sự thầm thầm chấp giữ bên trong; tiếp tục công phu, luôn GIÁC SÁNG mạnh lên, nó tự sâu lắng. Từ đó sẽ có những bước tiến đột phá, đặc biệt.

 

Câu hỏi 2:

 

Khi bắt đầu ngồi thiền, con sổ tức. Khi thấy người nhẹ nhẹ, tâm an thì con thả ra. Nhưng con thấy vọng tưởng có những lúc nó chỉ là những niệm suy nghĩ đơn thuần, đến và đi. Cũng có khi nó như một đoạn phim lộn xộn, không có ý nghĩa nhưng mang theo hình ảnh. Có lúc con đang mở mắt đàng hoàng mà những hình ảnh này hiện lên. Vậy thưa Thầy có phải là con bị rơi vào vô ký không?

 

Đáp:

 

Đó là một dạng của vọng tưởng. Dạng thức này không còn có niệm cho hành giả thấy nữa mà là một dải như phim. Đến một lúc nó sẽ không còn là những đoạn phim lộn xộn có hình ảnh cho hành giả thấy, mà tự nhiên nơi thân thể có một cảm giác gì đó bất thường, gần giống như cảm giác nghe một bài thơ, nhắc lại một ký ức xa xưa khiến cho lòng người tê tái vậy. Vi tế lắm. Nhưng tất cả chỉ là sự biến tướng của tâm, là vọng tưởng, không thật. Trên tất cả mọi dạng thức đó, chỉ cần đừng quan tâm trên nó, đừng thèm để ý theo nó mà chỉ là đang tự sáng biết, đang GIÁC SÁNG, KHÔNG MÊ MỜ LÀ ĐANG TU, thế thôi, đừng khởi hay lập thêm gì cả. Công phu đến chỗ không tu như thế, sau đó sẽ thấy rõ kết quả tốt bất ngờ. Nếu cố làm gì thêm, đều không thể vượt qua được.

 

Nếu thấy vọng tưởng khởi lên giống như đoạn phim lộn xộn, có nghĩa là lúc đó hành giả đang mê mờ, không rõ ràng, cái giác biết không mạnh, cho nên niệm này tiếp nối niệm kia thoải mái dệt thành một dạng vọng tưởng như thế. Còn vô ký là không biết gì hết, ngồi hai tiếng đồng hồ rất yên như mới ngồi xuống chốc lát, cho đến khi nghe chuông báo xả thiền thì mới nhận ra suốt thời thiền không hay biết gì, coi như khoảng ấy đã bị chết.

 

Câu hỏi 3:

 

Vậy cách đối trị trong trường hợp này là như thế nào thưa Thầy?

 

Đáp:  

 

Trấn tỉnh cho mạnh mẽ. Chỉnh thân ngồi thẳng lên, kế đến kiểm tra hơi thở cho thông, buông thư cơ thể một cách bình thường, cơ xương không bị gồng. Nếu cảm thấy trì trệ thì hít vào thật sâu và thở sạch ra ba lần, sau đó sổ tức bình thường, thấy an thì nhè nhẹ buông xuống, không để ý hơi thở nữa. Vừa chấn chỉnh lại, an mà sáng thì những chướng ngại trên sẽ không còn. Một thời gian sau tâm mạnh rồi thì tự hết.

 

Câu hỏi 4:

 

Câu biết vọng không theo, thì cái không theo đó chỉ là một cách nói để mình dễ hiểu hơn thôi, phải không Thầy. Vì mình biết chỉ biết thôi. Còn khi mình suy nghĩ về phía trước là đã theo vọng thì chúng ta phải dừng lại, không theo nữa phải không Thầy?

 

Đáp:

 

Quý vị đã từng nghe Hòa thượng Ân Sư dạy: “Biết vọng không theo”, nghĩa là khi tọa thiền, chúng ta thấy có niệm tưởng nào khởi lên, thấy rõ và biết nó là vọng tưởng, không thật, không theo nó. Vậy là cứ ngồi yên lặng, nếu có vọng khởi thì đừng theo chứ không phải thêm chữ “không theo” trên cái vọng đó. Một khi đã biết rõ, thấu suốt niệm tưởng cho đến muôn sự muôn vật là huyễn hóa rồi thì hằng thấy như thế, như là đã mặc định xong rồi. Khi công phu thấy vọng tưởng khởi lên, lúc này chúng ta đã được suốt tột, trước đã biết rõ và mặc nhiên nó là thứ hư huyễn rồi, cho nên không cần khởi thêm niệm biết nó là vọng tưởng nữa. Chỉ rõ suốt mình đang “không mê” nghĩa là đang “sáng biết”, vậy thôi. Không theo vọng tưởng, cũng không dẹp trừ vọng niệm; không khởi tâm để mặc kệ, không can thiệp bất cứ gì trên vọng tưởng hay vì vọng tưởng mà làm thêm gì cả. Khi không vọng đã sẵn sáng biết như thế. Khi vọng khởi cũng chỉ một tánh sáng biết thế thôi, không thay đổi. Khéo léo dụng công như thế sẽ đắc lực. Tu tập một thời gian, Hòa thượng thấy các đệ tử thuần thục hơn cho nên chỉ thêm một bước nữa: BIẾT LÀ CHÂN TÂM. Tức là như ở trên quý Thầy đã nói, mình đang tự sáng biết hay là đang biết về vọng tưởng? Nếu biết về nó thì không phải là chân tâm. Còn đang tự sáng biết thì chân tâm đang hiện tiền. Đơn giản vậy thôi. Tóm lại có hai trạng thái:

 

1.   Khi thấy vọng tưởng khởi, nếu chúng ta biết về cái vọng tưởng đó, đó là biết theo đuôi của vọng tưởng, là phan duyên, là rơi vào sanh diệt và không thắng được vọng. Cụ thể bình thường vọng tưởng hơi ít thì còn biết như thế được. Nhưng khi nhập thất tu miên mật hơn, vọng tưởng sẽ kéo về nhiều quá mà biết vọng theo cách này sẽ bất lực, choáng ngợp, không biết nổi nữa; và có khi còn bị cảm giác sợ ngược trở lại vọng tưởng của mình.

 

2.   Ngược lại, nếu chúng ta đang tự sáng biết chứ không phải biết về vọng tưởng, không phải biết theo vọng tưởng. Biết chỉ là biết, tánh ấy vốn luôn sẵn sáng biết như thế. Có vọng hay không vọng, vẫn chỉ là một thể biết không động, không đổi khác. Cái biết này không phan duyên, không rơi vào vọng động sanh diệt. Đây chính là chỗ Hòa thượng chỉ dạy: BIẾT LÀ CHÂN TÂM.

 

Câu hỏi 5:

 

Con có nghe nói về khoảng giữa của hai niệm là vắng lặng, không sanh. Khi niệm trước vừa diệt, niệm sau chưa sanh, khéo sống thẳng ngay đó thì sẽ sống được với chân tâm của mình. Xin Thầy chỉ dạy cho chúng con rõ hơn về công phu này?

 

Đáp:

 

Bản tánh của tất cả chúng sanh xưa nay vẫn vậy, vốn tự sẵn đủ như thế. Nhưng do thoạt bất giác cho nên bị mê mờ, vọng niệm sanh khởi. Từ đó, bị vô minh mê mờ và các tướng của vọng tưởng che đậy, tâm tánh chân thật không phát huy được. Bị che, không phát huy có nghĩa là không mất; là đang sẵn đó nhưng tạm thời bị che khuất thôi. Như mặt trời luôn có, nhưng khi bị mây dầy che phủ thì không thấy. Tất cả chúng sanh hằng ngày đang sống trên bản tánh đó, nhưng do lao ra nhận lấy ngoại duyên cho nên đã bỏ sót nó. Vì vậy không sáng, bị mê, loạn động, chịu các khổ đau.

 

Như vậy, chúng sanh bị vọng niệm, nhưng bản tâm ấy vẫn không mất. Những niệm tưởng sanh diệt, diệt sanh cũng không ra ngoài bản tâm chân thật ấy, chỉ là chúng ta bỏ sót tâm tánh chân thật mà thôi. Niệm này nối tiếp niệm kia, có nghĩa là giữa chúng phải có những khoảng hở nhất định. Trôi là niệm tưởng trôi, khoảng hở giữa các niệm hẳn là không trôi, bất động. Như nước vẫn chảy, mây vẫn bay, mọi thứ vẫn đang vận hành, nhưng tất cả không ra ngoài hư không. Giữa chúng cũng có những khoảng hở của hư không cho nên mới vận hành được. Hư không của bầu trời và khoảng hở giữa các vật đang vận hành cũng là hư không. Kinh Lăng Nghiêm nói: “Nhọc tự tánh Bồ đề thì sanh phiền não”. Vọng niệm là sự biến tướng của bản tâm. Bản tâm luôn sẵn vậy như hư không kia. Niệm tưởng của chúng sanh nối tiếp nhau, nhưng bản tâm kia vẫn không thiếu vắng, chỉ là trôi trên tự tánh sẵn vậy. Và khoảng giữa các niệm kia vốn tự vắng lặng, vốn là tự tánh nơi mỗi người.

 

Vì thế, khi nói “Khoảng giữa của hai niệm là vắng lặng, không sanh. Khi niệm trước vừa diệt, niệm sau chưa sanh, khéo sống thẳng ngay đó thì sẽ sống được với chân tâm của mình”. Đó là quý Thầy muốn chỉ cho quý vị xoay lại nơi mình để dụng công, để tự cảm nhận và phát hiện ra rằng, khi đang còn vọng tưởng, chân tâm cũng không thiếu vắng, không mất. Là quý Thầy nói rõ, là giới thiệu để quý vị quay về tự cảm nhận, rồi tin chắc mình đang có chân tâm. Còn muốn thể nhận chân tâm, cần phải biết cách hạ thủ công phu tu tập, chứ không phải ngồi canh niệm trước vừa diệt liền nhảy vào để sống, để chặn lại cho niệm sau không có cơ hội sanh ra. Như thế là đã cố làm, là có tạo tác, có khởi tâm, là trái với bản thể của chân tâm thì làm sao thể nhận chân tâm được. Cho nên quý Thầy thường nói, khi niệm vừa lặng, KHÉO AN ngay đó thì công phu sẽ đắc lực. Chữ AN ở đây là khéo sống thẳng chứ không thành một động tác, một động niệm, một hành động; cũng chẳng phải có chỗ yên lặng để an trú vào trong đó. Người KHÉO AN trong trường hợp này là không lập hai bên có mình và có chỗ tâm an; không khởi tâm tác ý như là làm gì đó; mà chính là khi công phu chín muồi, khoảng lặng ấy hiển hiện bình thường như là một sự tự nhiên, lúc này khéo mất hút các tướng của tâm, không khởi tâm tác ý hay thêm bất cứ gì, liền khéo thể nhập, sống thẳng mà không phải tạo tác.

 

Tựu trung vào đạo chỉ có hai đường. Một là ngay đây nhận thẳng, ngộ thẳng. Hai là công phu tu tập dần dần. Người chưa nói đã ngộ thì đã tự biết đường. Với người đang còn trên đường tu tập thì cũng đã được nghe nói: “Ngay khi niệm trước vừa diệt, niệm sau chưa sanh, khoảng ấy vốn tự không động”; liền biết: “Chúng ta không thiếu vắng chân tâm bao giờ”. Tin chắc, xác quyết không bị lay chuyển, quyết chí hạ thủ công phu đúng pháp. Khi thời tiết nhân duyên chín muồi, mọi thứ bất ngờ bùng vỡ, chân tâm hiển hiện rõ ràng. Tự mình thể nhận, sống thẳng, suốt thông tất cả, không còn bị kẹt trên lời.

 

Câu hỏi 6:

 

Lúc con ngồi thiền, vọng tưởng tất nhiên là có. Nhưng có những giây phút con thấy rất tỉnh táo, con biết cái toàn thể như thầy nói. Lúc đó con thấy nó bình thường lắm, cũng không có gì an lạc, cũng không có gì là bực bội, nói chung rất tỉnh. Và khi con khởi niệm là mình biết như vậy thì một lúc nó mất, nó lại chuyển qua thành vọng, xong một lúc nó lại chớp trở lại, tỉnh trở lại và biết như vậy. Con lại khởi niệm là biết này có đúng hay không? Nó mất con lại quay lại hơi thở và đề khởi đếm 1,2,3. Nhưng khi đếm như vậy con rất dễ rơi vào hôn trầm. Tức là đếm đến số 4, 5  gì đó thì nó thành một quán tính mình đếm luôn đến số 10 và mình tự động quay trở lại đếm số 1, nhưng mà nó không có một sự biết trong số đếm đó. Nhưng khi nhớ lại thì số đếm nó vẫn đều mà không bị lộn.

 

Con lại thấy an ổn hơn ở chỗ con biết mặc dầu nó rất ngắn ngủi, nhưng con thấy nó rất tỉnh táo và nó không cần làm gì hết. Con không biết trong trường hợp như vậy nên dụng công như thế nào cho hợp?

 

Đáp:

 

1.   Trong khi buổi đầu tọa thiền còn đếm hơi thở, đếm từ 1 đến 10 một cách máy móc tự động, trở thành một quán tính không lẫn lộn, nhưng không thấy có biết rõ ràng trong số đếm, mà vẫn cảm thấy an ổn, đó là bắt đầu chuẩn bị rơi vào sai lệch. Cái gọi là cảm thấy an ổn ở đây chỉ là trạng thái cảm thấy yên ả chuẩn bị ngủ ngon thôi, chứ không phải đúng nghĩa an ổn trong công phu tu tập. Khi ở vào trạng thái như cái máy tự động đếm hơi thở là lúc thức nghiệp đang mênh mang. Đếm như là việc của cỗ máy, còn cái thức này khiến cho hành giả miên man bất định. Có trường hợp đếm thì tự đếm, mà vọng tưởng cũng đang tự do vọng tưởng. Một vài trường hợp khác thì rơi vào vô ký, lơ mơ hoặc không còn hay biết gì.

 

Vô ký sẽ êm đềm ru ngủ, giết chết con người vào kiếp vô minh mà không hề hay biết. Cái an ổn trong đó là một sự ru ngủ mà vẫn có biết lơ mơ. Tuy tỉnh mà không rõ ràng, nó không ngủ say mà cũng không tỉnh hẳn, ngồi vẫn thẳng mà không bị gật gù... Cái an đó không phải là sự an ổn đúng nghĩa, mà bởi ngồi thiền lâu ngày thấy mệt mỏi, không phấn chấn cho nên tìm rúc vào đó để trốn ngủ ngầm một cách khéo léo, lười biếng trộm an (tỵ lại thâu an) vậy thôi. Vọng tưởng có tướng sanh khởi cho nên dễ phát hiện, dễ hàng phục. Vô ký thì không rõ ràng, vì thế rất khó trị. Vào trong vô ký là tự mình đi đào hầm để vùi lấp chính mình. Khi bị vô ký sẽ thấy thời gian ngồi thiền trôi qua rất nhanh. Vì mơ hồ vô thức cho nên không thấy có gì trong đó để mệt nhọc, cũng không phải là được an lạc đúng nghĩa. Bởi lúc này không khác với người đã chết, mình đang giết mình. Nếu tiếp tục lâu ngày sẽ quen đường quen ổ; hễ bắt chân ngồi thiền là sẽ tự động lạc vào trong đó, rất khó cứu. Có nhiều vị vào trong đó rồi ngồi 2 tiếng đồng hồ mà thấy như mới bắt chân lên. Vì trong khoảng đó không còn biết gì nữa cả cho nên không thấy có thời gian nhanh chậm. Ngồi lặng phắt như cây khô, không nhúc nhích, chỉ có cái đầu hơi chếch nghiêng một tí hoặc người không được ngay thẳng lắm. Trong khoảng thời gian ngồi thiền đó, vị này không hay biết gì hết. Chỉ tự thấy kết quả là mình ngồi thiền được hai tiếng và được yên thân thế thôi. Ngỡ là an, nhưng thực ra là đang rơi vào một trạng thái cực đoan khác. Bị vọng tưởng là chết lửa, rơi vào vô ký này thì chết chìm, chết nước. Trạng thái vô ký chết nước này nó lơ mơ, không rõ ràng nên khó cứu hơn vọng tưởng thô phù như chết lửa. Khi đã bị nặng rồi thì bắt chân lên tọa thiền, liền vào trong ấy, cứ như người đã chết, cho đến khi nghe kẻng xả thiền vang lên thì mới giựt mình, nhận ra. Đây là trạng thái nguy hiểm, không nên tiếp tục tìm sự an ổn theo kiểu đó nữa. Đếm hơi thở là biết rõ ràng, chứ không phải đếm quen rồi tự nó nhớ số đếm và trở thành cái máy tự động đếm, còn mình thì chui vào hang quỷ vô ký để trú ẩn cho yên, rồi tự chôn vùi mình như loài gấu ngủ ngày. Như vậy là tự ru ngủ, là tự giết chết mình từ đời này qua kiếp khác. Rất nguy hiểm!

 

2.   Khi quý vị đang biết, nhưng chưa thấy vui lắm hoặc sức tỉnh giác không được dài là do sức giác biết chưa đủ lớn mạnh và sâu lắng để khinh an và duy trì được sức giác dài hơn. Phải cần có thời gian. Dụng công thẳng đến chỗ sáng biết đó là đúng rồi. Cứ tiếp tục công phu liên tục như vậy, theo thời gian càng lâu, công phu sẽ càng thuần thục, sức giác đủ lớn thì sẽ tự cảm nhận niềm vui rất đặc biệt, rõ ràng.

 

Khi đang lặng biết, an lạc, nếu vừa sanh khởi tâm giữ nó là tâm mình đã sanh khởi. Tâm sanh thì không phải là tánh sáng biết vô sanh cho nên bị mất. Nếu ngay đó chỉ cứ sáng biết bình thường thì tâm không sanh, tâm tánh tự hiện tiền, rõ ràng. Còn vừa sanh tâm xét xem nó như thế nào hay là muốn giữ cho được lâu hơn thì liền bị mất.

 

3.   Có khi đang giác biết được một chút xíu thì lại quên đi, đó là chuyện bình thường. Nên nhớ mình là một trẻ thơ mới chập chững thì phải như vậy thôi. Kể cả khi công phu trong thời gian nhập thất cũng thế. Đã có lúc bất chợt lóe lên sức giác kha khá, nếu chưa phải là đại ngộ, chứng ngộ thì được một thời gian rồi cũng bị tạm qua đi. Bởi vì đã lâu rồi chúng ta quen sống với tâm có, tâm bám víu phan duyên. Hôm nay mới lần đầu tiên bất ngờ rỗng rang vắng bặt, chưa quen nên bị vụng về, không khéo léo nên có khi bị chới với, rồi xét xem nó như thế nào, sau đó là sanh tâm muốn níu giữ, muốn làm sao để kéo dài thời gian an định này được nhiều hơn cho nên bị mất, bị trôi qua đi. Cứ thế tiếp tục công phu, tâm thể ấy sẽ hiển hiện lại nhiều lần và mỗi lần một mạnh hơn, chúng ta quen dần, kinh nghiệm, khéo léo tinh tế, không tác tâm động niệm thêm gì trên đó, sức giác sáng sẽ hiển hiện lâu dài và mạnh hơn. Càng sống như thế công phu sẽ tiến bộ, sẽ phát hiện ra nhiều điều siêu xuất hơn. Rất sâu xa. Càng tiến bộ về sau, mới thấy càng sinh động và đặc biệt hơn trước.

 

Tâm con người rất dễ rơi vào hai bên. Vừa muốn để yên một chút là rơi vào vô ký. Vừa muốn giữ gìn hay dụng công mạnh mẽ một chút là rơi vào sanh diệt, tạo tác liền. Chúng ta còn thơ dại, hoang dại, ngây thơ trong ngôi nhà tâm vô sanh ấy. Bất ngờ thình lình nhận ra nó, mừng quá, sợ mất và cố giữ, liền bị mất. Hoặc có khi vừa muốn nhìn lại xét xem trạng thái vô sanh đó như thế nào thì cái vô sanh ấy đã biến thành một trạng thái, không còn là chính mình và rơi vào sanh diệt loạn động trở lại. Tâm sanh diệt vừa sanh thì cái vô sanh liền mất. Hoặc có khi vừa thâm nhập lại được một chút, liền nghĩ, thôi để yên nó thì nó lại rơi vào vô ký, vô minh... Luôn vụng về thô tháo như vậy và phải nhiều lần tu tập thâm nhập lại như vậy chúng ta mới có kinh nghiệm. Ai cũng vậy thôi, quyết tâm tu thì sẽ được, đừng nản. Phải nhớ, còn là đứa con nít thô tháo, vụng về thì phải nhiều lần bị vuột mất. Nhưng nhiều lần như thế sẽ lớn mạnh, sẽ có kinh nghiệm. Là người đã dụng công tu tập có kinh nghiệm và khá thuần rồi thì sống về thể vô sanh đó rất dễ dàng. Nhưng cũng cần thời gian sống bằng sức sống ấy thuần thục rồi thì thể tánh mới luôn hiện tiền, không mất. Trên tất cả mọi sinh hoạt luôn luôn là chính nó, không thấy có ngôi nhà vô sanh nào ngoài mình để vào nữa. Lúc này hoạt dụng rất linh thông, tự tại. Nếu còn thấy có chỗ vô sanh để giữ gìn thì vẫn còn ngăn ngại, chưa thực sự tự do tự tại. Mới biết, việc này phải kiên trì, phải có thời gian chứ không thể muốn mau một cách đơn giản được.

 

Câu hỏi 7:

 

Vậy thì mình cũng không phải máy móc là sổ tức trước phải không Thầy? Có những lúc con thấy như thế được rồi thì con cứ để cho nó cứ biết như vậy. Con cũng không cần đề khởi?

 

Đáp:

 

Không phải máy móc mà phải biết ứng dụng đúng lúc. Ban đầu mới tập ngồi thiền thì phải sổ tức, tùy tức, biết vọng… Khi qua các bước cơ bản thuần thục rồi thì tùy thời khéo ứng dụng cho tâm được an và sáng là tốt. Có những lúc bắt đầu vào thiền, đếm 1,2,3... rồi buông thư thì toàn thể hiện bày liền. Nhưng có những hôm do trời mưa lạnh, sức khỏe không tốt, thức ăn không phù hợp khiến cơ thể nặng nề, hoặc trước khi tọa thiền mà đọc sách hoặc hành động thô tháo lăng xăng quá... thì khi ngồi thiền sẽ có cảm giác ì ạch, nặng nề, vọng tưởng nhiều quá khó điều phục. Lúc này cũng có thể đếm sổ tức trở lại để tâm được lắng, giúp hàng phục được vọng tưởng... Nếu lúc nào thấy hơi yên, đang đếm 1,2,3 hay 4 gì đó, thấy yên, thình lình không đếm nữa, như là buông xuống thì mọi thứ rỗng thênh, sáng ngời, hoan hỷ, an lạc. Nếu khi quá động và thô phù đến độ khó điều phục thì có thể sổ tức lại. Nói chung, phải khéo léo và hết sức tinh tế để vận dụng trong công phu thì tâm sẽ sáng lặng. Khi bị vọng động quá thì nên lắng lại, sống mạnh bằng sự an tịnh thì sẽ ổn. Nếu cảm thấy lắng lặng quá, dễ rơi vào vô ký, lờ mờ thì nên phấn chấn, trấn tỉnh, dùng cái biết mạnh hơn một chút. Phải khéo cân bằng cho hợp lý. Khi động thì dùng định để chế lại. Khi lặng chìm quá thì trấn tỉnh mạnh lên một chút để giác tỉnh. Còn trên đường dụng công tu tập thì phải khéo léo cân bằng sự yên định và sống động, khéo léo vận dụng công phu như thế sẽ được tiến bộ. Điểm then chốt là phải biết dụng tâm thẳng đến chỗ vô sanh như quý Thầy đã nói ở trên. Khéo điều chỉnh tốt như thế cho đến khi sức giác đủ lớn thì bất chợt tự bừng ra. Lúc này tự thấy biết rõ ràng, không còn phải bàn nói thêm gì trong đó nữa. Rất sống động, sinh động mà vốn tự không động. Vốn sẵn tự tịnh, tự định, muốn động cũng không xong. Có chạy nhảy, múa may, làm tất việc cũng chỉ như thế, không động.

 

Câu hỏi 8:

 

Thưa Thầy, khi ngồi lâu con bị đau, hơi thở dồn dập, tim đập mạnh. Hơi thở không thông suốt như vậy, con cảm thấy ngồi cứ thô phù lại cộng với đau chân nữa. Thế thì nên giải quyết như thế nào?

 

Đáp:

 

Ngồi thiền đau chân có nhiều lý do. Có khi do ăn đồ béo và ngọt nhiều, hoặc do thời tiết thay đổi, sinh hoạt không điều độ đúng cách, hay khi ngồi thiền liên tục cũng sẽ đau hơn thỉnh thoảng ngồi...

 

Khi bắt đầu đau, có thể chịu đựng thêm được 15 phút nữa là bình thường. Nhưng khi quá sức chịu đựng rồi, chúng ta có thể buông chân ra, xoa nhẹ rồi bắt chân lên lại. Khi đang trong 15 phút chịu đau chân, không quan tâm đến cái đau mà chỉ điều chỉnh thân cho thẳng rồi buông thư. Đừng nín thở, đừng gồng lên để chịu đựng. Tất cả, từ hơi thở cho đến mọi thứ kể cả thân và tâm đều phải ổn định, lưu thông, thông suốt thì sẽ tốt. Được vậy, sẽ thấy mình là cái biết đau, còn cơn đau là bị mình biết, ở ngoài mình và nhỏ bé lại, bớt hoành hành; cho đến 5 hoặc 10 phút sau thì xả thiền. Sau thời gian một hoặc hai tuần rồi mới ngồi tăng thêm khoảng 5 phút nữa. Rồi khoảng hai đến ba tuần sau tăng thêm 5 phút nữa. Được như vậy là tăng dần thời gian ngồi có khoa học. Tăng đều như thế và một khi đã tăng thì không để thụt lùi. Theo thời gian sẽ được tiến bộ, sẽ ngồi thiền được lâu mà rất nhẹ nhàng, an ổn. Nếu vừa mới đau liền xả, hoặc là ngồi bữa nhiều bữa ít bất chừng thì không tiến bộ được. Hoặc có người vì ham tu quá, chưa trải qua thời gian tập sự hợp lý, bắt chân lên thì cố ngồi 2 tiếng đồng hồ liền. Ý chí mạnh thì vẫn ngồi được, nhưng hôm sau nghe đến ngồi thiền là ngán, ớn, sợ, không thể ngồi được nữa.

 

Câu hỏi 9:

 

Con cứ ngồi tăng một thời gian, lại bị lùi xuống. Có phải con chưa đủ can đảm, thưa Thầy?

 

Đáp:

 

Trong khi công phu tu tập, tiến trình như hình xoắn ốc. Khi bị lùi xuống là lúc chuẩn bị tăng vọt lên nếu chúng ta cố gắng, không bỏ cuộc. Có khi bị lùi xuống một cách thê thảm, nhưng phải trấn tĩnh, thông suốt, nhẹ nhàng. Khéo điều chỉnh cho thông suốt thì mới vượt qua được gian đoạn khó khăn đó. Kiên trì được thì một thời gian sau sẽ vọt tiến lên lại. Nhớ là khi bị tuột lùi xuống là lúc chuẩn bị tiến mạnh lên nếu hành giả kiên trì, cố gắng.

 

Trong trường hợp đau quá sức chịu đựng thì xả chân, xoa nhẹ rồi bắt chân lên ngồi lại cho hết giờ mới được đứng dậy. Đừng có niệm giãi đãi, lười biếng là được. Còn đang ngồi được 2 giờ mà tuột xuống còn 30 phút rồi xả thiền luôn thì sẽ bị thua trận, tuột lùi luôn, không thể tiến lên được. Nếu thấy không chịu nổi thì chỉ chấp nhận tha thứ cho nó bằng cách xả nhẹ rồi bắt chân lên ngồi lại cho đến khi mãn thời thiền, chứ không phải xả thiền nghỉ luôn, không ngồi tu nữa. Khéo vận dụng như vậy thì không lâu sau sẽ vượt qua được thời điểm khó khăn và tiến mạnh.

 

Câu hỏi 10:

 

Khi ngồi thiền, con không nhắm mắt. Con kinh nghiệm thấy khi nhìn xuống như vậy sẽ có độ tỉnh nhiều hơn. Khi nhắm mắt thì dễ rơi vào hôn trầm. Suốt 1,5 giờ ngồi thiền con mở mắt, khi rơi vào hôn trầm, vọng tưởng nhiều hoặc vô ký, tự động nhắm mắt lại và gật.

 

Đáp:

 

Không cố định là phải mở mắt hay nhắm mắt. Khi ngồi, Sư Ông có dạy chuẩn của mắt là mở 1/3; từ vị trí hai chân chéo nhau, mắt mở nhìn ra khoảng 3 gang tay là vừa. Không phải trụ tâm vào điểm ấy, đó là tầm chuẩn để biết nên mở mắt ngần ấy là vừa phải. Khi nào vọng động hơi nhiều thì có thể nhắm mắt lại. Khi cảm thấy hôn trầm thì mở mắt ra. Buồn ngủ nhiều thì mở lớn hơn, có khi nhìn thẳng để đối trị bệnh buồn ngủ. Đó là phương pháp vận dụng để đối trị trong khi ngồi thiền. Cần biết để khéo léo linh động xử lý sao cho được cân bằng là tốt.

 

Câu hỏi 11:

 

Con xin Thầy chỉ cho con cách trị hôn trầm?

 

Đáp:

 

Có nhiều cách để đối trị hôn trầm. Một là nghe những bài pháp, đọc những lời cảnh tỉnh nói về nỗi khổ lớn trong sinh tử lâu dài. Muốn thoát khỏi thì phải tinh tấn ngồi thiền. Nếu cứ ngủ như thế thì sẽ đi vào trong hang quỷ mê mờ chịu khổ mãi, biết ngày nào ra. Hai là cần rõ biết công năng của tọa thiền sẽ khiến cho tâm được an định, có trí tuệ chiếu phá sanh tử, chỉ có như thế mới dứt hết gốc khổ. Ba là chỉ có đạt được thiền định thì mới có thể giải quyết hết mọi thứ một cách triệt để. Nếu không thì không làm được gì hết. Có khi phải quở trách, rầy la nó: “Sanh tử nhiều kiếp khổ như vậy rồi, bây giờ còn muốn xuống địa ngục nữa hay sao mà còn ngồi đó ngủ nữa!”. Trong trường hợp bị hôn trầm nặng quá thì phải sám hối. Quý Ngài xưa cũng dạy có thể nghĩ đến Bát Nhã Tâm Kinh để quán chiếu và đối trị. Ngoài ra còn có cách mở mắt lớn ra, trấn tĩnh cho mạnh... Khi công phu thuần thục rồi, quý Thầy chỉ cần chỉnh hơi thở cho thông thì cơn buồn ngủ tự nhiên bị tan biến. Thuần thục hơn nữa thì chỉ cần giác sáng là cơn buồn ngủ tự tan biến rất nhẹ, không còn.

 

Có nhiều cách, nhưng ứng dụng làm sao để kích hoạt tinh thần phấn chấn, ham tu, thiết tha với công phu, thích thú tu hành giống như đói được ăn, khát được uống thì không còn buồn ngủ.

 

Câu hỏi 12:

 

Ví dụ khi con ngồi thiền, không quá chú tâm đến một điều gì. Khi có âm thanh đến, nghe rõ âm thanh và cũng có cảm nhận về tư thế đang ngồi, các cảm nhận khác... Con cũng để ý hơi thở vào ra, con biết. Vậy làm thế có đúng không?

 

Đáp:

 

1. CÓ TIẾNG, KHÔNG CÓ TIẾNG

 

Nếu là người mới tập ngồi thiền chưa thuần thục thì như thế là tương đối ổn cho buổi ban sơ. Nhưng công phu một thời gian sau đã thuần thục thì cần lưu ý điểm này để tiến thêm. “Không chú tâm đến một điều gì”, nhưng phải rõ mình đang tự sáng biết, chứ không phải biết theo vọng hay biết về một tiếng gì đó. “Đang giác biết” khác với “biết theo, biết về” một điều gì đó. “Đang có âm thanh đến mình nghe âm thanh”, như vậy kiểm tra lại xem là đang bị nghe theo âm thanh hay chính mình đang tự luôn luôn sẵn tánh nghe biết, tự sáng biết? Nếu khi có tiếng thì mới nghe biết tiếng, đó là biết theo tiếng chứ không phải tự mình đang sáng biết. Nếu tự mình đang biết thì tánh sáng biết ấy luôn luôn hiện hữu. Có tiếng hay không tiếng, vẫn đang sáng biết như thế, không bị thay đổi. Cái biết này không có một mảy may thay đổi hay động niệm phân biệt gì bởi sự xuất hiện hay mất đi của âm thanh bên ngoài cả. Điều này khá tinh tế, sâu kín; cứ vận dụng vào khi tọa thiền rồi sẽ cảm nhận được. Thử kiểm nghiệm lại sẽ thấy. Nếu nói “Có tiếng thì có biết”, vậy lúc này quý vị vẫn đang sáng biết bình thường, vẫn thế, không thay đổi, như là khi tiếng ấy chưa vang vọng? Hay là khi có tiếng mới biết tiếng ấy, là đang biết theo tiếng? Nếu thực sự là đang sáng biết, không biết theo tiếng kia thì không cần có niệm lập thêm là có tiếng hay không có tiếng nữa. Công phu được như thế thì có tiếng hay không tiếng, tánh bày vẫn đang sáng biết, không đổi khác, không động, không sanh tâm, tiếng tiếng đều như thị. Tương tự, khi biết hơi thở hay biết các thứ xúc chạm chung quanh trong lúc tọa thiền cũng vận dụng như thế. Điều này khéo léo thầm nhận thì được. Ban đầu có thể hơi khó vận dụng. Nhưng đã hạ thủ công phu tu tập thì phải để tâm dụng thẳng đến chỗ này mới hy vọng đắc lực. Đây vẫn còn là cách dụng công tu tập thôi chứ chưa phải là chỗ chứng đắc gì ghê gớm, do đó cũng còn nằm trong tầm của người đang công phu tu tập như chúng ta. Dù là hơi khó, nhưng là bài tập ngang tầm của mình thì phải cố gắng thực tập thôi, không thể nhờ ai thay mình làm giúp được.

 

2. NÓI THÊM VỀ SỔ TỨC, ĐẾM HƠI THỞ

 

Việc thứ hai, quý Thầy nói thêm một chút về kinh nghiệm đối với công phu đếm hơi thở khi tọa thiền.

 

Nếu quý vị đã tham dự các lớp thiền Hòa thượng Ân sư chỉ dạy thì biết tuần tự ban đầu phải sổ tức, đến tùy tức... Và sổ tức (đếm hơi thở) là bước căn bản quan trọng ban đầu không thể thiếu. Khi công phu, nếu cứ đếm hơi thở, theo hơi thở, làm một cách đơn điệu máy móc theo quán tính mà không vận dụng tâm tỉnh táo, rõ biết số cho rành rẽ rõ ràng thì dễ bị rơi vào vô ký (mơ hồ, không tỉnh sáng). Khi ấy phải phấn chấn tinh thần lên, biết mạnh mẽ lên thì trị được. Nhưng cũng phải khéo điều chỉnh. Nếu biết mạnh mẽ mà hơi quá thì bị vọng động, phải điều chỉnh cho an tĩnh lại. Cần khéo léo vận dụng cho cân bằng khi công phu, đừng để rơi vào vô ký hay loạn động là tốt.

 

Thời gian sau thuần thục rồi, không còn ứng dụng phương pháp sổ tức nữa, nhưng nếu khéo tùy thời vận dụng đếm hơi thở đúng lúc thích hợp thì cũng giúp cho chúng ta công phu tốt. Cần lưu ý là đừng kẹt trong sự an lạc của phép quán sổ tức là được.

 

Cụ thể khi ngồi thiền, hôm nào cảm thấy an ổn thì cứ ngay đó sống thẳng liền xong. Nếu hôm nào cơ thể bất ổn và bị loạn động quá thì lúc mới nhập thiền, chúng ta có thể bắt đầu bằng việc đếm hơi thở từ 1 đến 10... Đến khi thấy người hơi nhẹ, tâm bắt đầu an thì buông đi, không đếm nữa là tất cả mọi thứ hiện bày rõ ràng, an lạc. Lúc này chỉ là rỗng lặng, sáng biết. Thế thôi. Đừng khởi biết theo cái gì nữa. Khi đang sáng biết mà vắng lặng không động như thế là đang sống trong Thiền rồi, đừng lập thêm gì nữa, đừng tìm kiếm thêm nữa để phải rơi vào sanh diệt vọng động trở lại. Không nên cố chấp là phải đếm hay không nên đếm. Pháp chỉ là phương tiện để cho hành giả ứng dụng sao cho đạt đến giác ngộ chứ không cố định. Không nên thấy có một pháp nào đó là cố định rồi phân định pháp này thấp, pháp kia cao... Khi nào cần sổ tức và lúc nào không đếm hơi thở nữa, đó là nghệ thuật khéo léo tinh tế để tự nhận biết công phu của mình, tùy thời vận dụng phù hợp thì công phu sẽ tốt. Cần lưu ý ở đây là đừng chấp vào pháp quán sổ tức đó mãi. Khéo vận dụng sống thẳng như thế thì quý vị sẽ thấy công phu thăng tiến rất nhanh. Ban đầu có thể hơi khó, nhưng một khi đã quyết tâm vận dụng cho bằng được công phu như vậy thì trong một thời gian ngắn, sẽ có lúc sức giác bỗng nhiên vọt tăng, tất cả mọi thứ sau đó sẽ là bất ngờ, đặc biệt. Dám mạnh dạn vận dụng thì sẽ cảm nhận được thôi. Quý Thầy diễn tả trước sẽ khiến quý vị rơi vào thức tưởng, làm ngăn chặn bước tiến của mỗi người.

 

Câu hỏi 13:

 

Thầy có nói mình phải TỈNH LẠI rồi làm mọi việc. Vậy có thể tạm gọi nó là chánh niệm hay gọi là mình đang sống trong hiện tại được không?

 

Đáp:

 

1. SỐNG TRONG HIỆN TẠI

 

Khi nói “đang sống trong hiện tại” thì tâm chúng ta dễ tự nó lập nên “thấy có một cái hiện tại” để sống. Mới nhìn qua thì thấy cái hiện tại ấy vẫn vắng lặng. Nhưng do “có một cái hiện tại đang vắng lặng” và “có mình đang biết về cái hiện tại đó” thì đã phân hai, “cái hiện tại” đó đã trở thành cái bên ngoài, không phải thật là mình. Hơn nữa, có “người biết” và có “cái được biết” là có chỗ cho TÌNH THỨC xen vào; đồng nghĩa là đã rơi vào sanh diệt nhỏ nhiệm mà trí tuệ thường tình không phân định được cho nên không nhận ra. Tình thức con người rất nhạy và vi tế. Chỉ cần đặt thành danh từ, đặt tên, suy thành nghĩa thì nó liền lập nên một đối tượng để biết về liền. Như thế là có chỗ cho thức sinh, là rơi vào sanh diệt. Hay sạch hết tất cả mà vẫn tự sáng biết không động. Mất hút các tướng của tâm và cảnh, bất động mà vẫn đang thấy biết rành rẽ, rõ ràng. Không còn bất kỳ một cái gì để tình thức có chỗ phan duyên, lập nên thì công phu sẽ tốt. Còn có một chỗ gọi là hiện tại được lập nên thì chưa phải rốt ráo. Vì vậy, phải khéo sống thẳng, không nên thấy có một cái gì đó, hay có một chỗ nào đó để bị phân hai, để tình thức tưởng lập là tốt. Cần tránh tuyệt đối điều này.

 

2. CHÁNH NIỆM

 

Muốn biết có phải là Chánh niệm hay không thì cần phải hiểu cho đúng nghĩa của chánh niệm. Nếu nói Chánh niệm là niệm chơn chánh, không tà niệm thì nghĩa này không phải là chỗ “tỉnh lại rồi làm”.

 

Nghĩa thứ hai, Chánh niệm là không bị thất niệm, không bất giác, không quên, là vô niệm. Khi không một niệm tưởng mà hằng sáng biết không động, là đã đúng nghĩa vô niệm. Ngay đó giác tánh sáng biết đang hiện tiền, là không bất giác, không thất niệm, nên được gọi là Chánh niệm. Theo nghĩa này thì Chánh niệm chính là chỗ “tỉnh lại rồi làm”. Bởi vì khi “tỉnh lại rồi làm”, không phải có một cái tỉnh, mà tỉnh lại đó là nhớ lại, giác lại, không bất giác, không phải biết theo công việc, không bị cuốn trôi trên công việc; ngay đó không phân biệt chia hai thấy có việc và mình; chỉ là một thể lặng sáng thênh thang, sáng biết rõ ràng một cách linh thông, mạnh mẽ, lanh lợi đến mức chủ động nhưng không hề vọng động. Không niệm tưởng mà vẫn sáng biết, làm tất cả việc mà vẫn rõ ràng, không động. Sinh hoạt và làm việc như vậy là sống bằng sức sống Thiền, không bàn đến Chánh niệm hay thất niệm gì nữa cả. Thông thường mọi người dễ hiểu theo một chiều, chánh niệm là niệm chơn chánh, là đối lại với tà niệm. Nếu vậy là có một niệm chơn chánh ngược lại với tà niệm thì Chánh niệm vẫn là một loại niệm. Mà có niệm thì còn có chỗ cho tâm sinh, còn trong tình thức sinh diệt, chưa phải là chỗ vô niệm đúng nghĩa mà hành giả cần hướng tiến.

 

Trong Kinh Viên Giác,đức Phật nói: “Nếu ông dùng tâm suy lường phân biệt (tâm sinh diệt) mà suy lường đức tướng trí tuệ Như Lai thì đức tướng trí tuệ Như Lai cũng chỉ bằng với cái tâm suy lường phân biệt nhỏ hẹp của ông mà thôi”. Ví như đem cái ly thủy tinh mà đo lường nước biển cả thì nước biển cả chỉ còn bằng cái ly, chứ không còn đúng nghĩa mênh mông nữa. Nếu dùng tâm suy lường phân biệt là tâm sanh diệt có hạn lượng, nhỏ hẹp mà suy lường đến đức tướng trí tuệ Như Lai là trí vô sanh thênh thang không ngằn mé thì làm sao hiểu tới? Có hiểu cũng chỉ hiểu theo cái tưởng tượng suy lường trong sanh diệt nhỏ nhoi của phàm tình mà thôi, không phải của Phật. Phải bằng tâm vô sanh thì mới cảm nhận được Đức Tướng Trí Tuệ Như Lai. Cho nên dù là niệm chánh hay niệm tà cũng đồng một tính chất là niệm. Mà còn niệm là còn sanh diệt, là rơi vào hạn lượng. Hoặc chú tâm, buộc niệm để an trú, để không thất niệm thì như là có định, có an; nhưng vẫn thầm còn có chỗ để an trụ cho nên chưa rời được hạn lượng, có ngằn mé. Dù lớn đến đâu cũng vẫn là nhỏ bé so với cái không thể đo lường; không phải là thể vô niệm thênh thang không ngằn mé. Như nước biển trong ly, trong hồ, hay trong bất kỳ cái gì đo lường được đều không phải là biển cả mênh mông.

 

Câu hỏi 14:

 

Chúng con đã từng nghe thầy dạy, trên tất cả mọi việc, mình nên tỉnh rồi làm. Tỉnh trở lại thì liền là giác, đang giác là tu. Vậy trong sinh hoạt hằng ngày khi làm việc, con luôn biết, biết một cách bao quát tổng thể. Ví dụ như đang ngồi đây, con biết con ngồi như thế nào, tay để đâu, chân thế nào, tư thế con ngồi, đến tất cả mọi thứ chung quanh... Đương nhiên con không thể đi vào chi tiết, mà chỉ biết đại khái như thế. Như thế thưa Thầy có phải là TỈNH không ạ, hay là con đã đi ra và nương vào những pháp trần một cách cụ thể?

 

Đáp:

 

Chúng ta biết một pháp (sự vật, sự việc) hay biết tất cả các pháp (mọi vật, mọi việc) thì cũng không rời pháp mà biết và đang biết về pháp đó. Mà biết về pháp đó, biết theo pháp đó, tức là mình đang bỏ mất chính mình và đi ra theo pháp trần rồi. Thí dụ bây giờ nhìn máy ghi âm này, quý vị đang biết về nó hay là đang tự sáng biết? Nếu biết về nó, Phật gọi đó là phan duyên, gốc của phiền não sanh tử, khổ đau có ra từ đó. Nếu đang sáng biết một cách bình thường, thì không phải là biết về nó hay biết về bất kỳ một cái gì bên ngoài, mà chỉ là đang sáng biết, là tâm tự giác biết, không phải phan duyên. Khi giữ tâm tĩnh lặng để biết tất cả, nghe có tiếng chim kêu, thấy cái tủ, thấy bàn ghế, thấy các vật bên ngoài…, nhưng nếu cố giữ tâm để cùng một lúc biết hết tất cả là đã bỏ sót cái "tự sáng biết" để biết về những thứ đó, biết theo nó và bỏ mất chính mình rồi. Đó là đã đi ra và nương vào những pháp trần kia để biết về chúng một cách cụ thể, chưa phải công phu đúng mức. Cái tự sáng biết của tâm là không có tâm bỏ tất cả, cũng không cần biết về tất cả. Không cần biết về cái máy ghi âm này, không cần biết về cái ghế này, cũng không phải là một lúc phải cố biết hết tất cả. Biết như thế được một lúc sẽ căng thẳng, trái đạo. Chỉ cần tỉnh sáng thì tự mình đang là sáng biết, thế thôi! Lúc đó, tự tâm sáng biết hết tất cả một cách linh hoạt, không động nhưng chủ động, rõ ràng chứ không phải biết theo, biết về những thứ bên ngoài.

 

Thử ngay đây, không thèm chú tâm vào bất cứ gì, cũng không phải phớt lờ, bỏ qua, và không mặc kệ. Nếu còn tí gợn là như thế nào đó trong tâm thì cũng không luôn đi. Lúc này, tánh mình tự thấy nghe biết khắp một cách bình thường đến mức tự nhiên, nhưng rất rõ ràng. Không cần cố tâm, nhưng tất cả mọi âm thanh, sắc tướng đều tự thấy nghe hết một cách thông lưu, không động; mọi thứ không ra ngoài tự tánh thấy nghe biết ấy, cho nên tất cả chẳng phải khác. Lúc này chẳng cần phân biệt, nhưng thấy biết mỗi thứ rành rẽ rõ ràng chứ không lẫn lộn vào nhau, cho nên cũng chẳng phải một. Không phải một, không phải khác; luôn thấy biết rõ ràng, linh hoạt, sống động như là đến mức chủ động nhưng không động, mặc tình biết khắp như thế mới đạt đến ý nghĩa cuối cùng của TỈNH RỒI LÀM, là GIÁC SÁNG TRỞ LẠI.

 

Câu hỏi 15:

 

Thưa Thầy, tức là không cố bắt mình phải biết những thứ chung quanh?

 

Đáp:

 

Đúng vậy! Điều chính yếu là mình đang sáng biết thì tánh mình tự biết, chứ không phải buộc mình phải biết về tất cả mọi thứ chung quanh.

 

Câu hỏi 16:

 

Thưa Thầy, thói quen mê mờ là tập khí của con ở ngoài đời. Khi mới thực hành Thiền mà áp dụng thẳng công phu ngay lập tức phải “tỉnh sáng”, không chỗ trụ thì có khó quá không thầy. Con có cần phải bắt đầu luyện tập từ những bước của người sơ cơ hay không?

 

Đáp:

 

Sơ cơ, ban đầu là căn cứ vào đâu để tính? Chúng sanh mê mờ, thấy bằng mắt thịt cho nên thường căn cứ vào đời này để nói. Nhưng thực tế có nhiều người mới tu, là sơ cơ của đời này, nhưng lại mau ngộ. Đó là do nhiều đời vị này đã tu rồi. Cho nên phải căn cứ vào nhiều đời để thấy. Nhưng phàm phu như chúng ta làm sao để biết mình đã tu nhiều đời hay mới tu đây? Đã đủ duyên tu hành rốt ráo như thế này, tức là đã có túc duyên tu tập nhiều đời rồi. Nếu mới phát tâm thì không thể được như thế. Do đó, không nên nhìn một đời để phán xét mà nên tự tin mạnh dạn công phu. Khi thời tiết nhân duyên chín muồi, chúng ta sẽ có kết quả bất ngờ. Cho nên vào đạo chỉ có hai con đường. Một là ngay đây nhận thẳng, dùng thẳng, không qua thứ bậc. Nếu chưa như thế thì ứng dụng công phu tu tập từ từ rồi cũng tiến bộ. Sự thật rõ ràng như thế, không nên vì lý do gì khác để tự ty, tự xem thường mình rồi lui sụt.

 

Tất nhiên, nếu không phải là người có túc duyên tu hành nhiều đời, hoặc chưa có kinh nghiệm, chưa thuần thục mà dụng công thẳng đến chỗ rốt ráo thì hơi khó khăn hơn. Khéo tự kiểm nghiệm trong công phu để biết sức mình. Nếu như lúc nào đó có thể dùng được bằng cách rốt ráo này thì ứng dụng liền. Còn lúc nào chưa thuần thì nên ứng dụng những pháp phương tiện đối trị khác để tập cho tâm thuần thục dần. Cách dụng công này không nằm trong đối trị, chỉ khéo trở về tâm thì tự tâm sáng biết. Trong giai đoạn đầu mới công phu, chưa thuần thì có thể tạm dùng các pháp đối trị thích hợp. Khi nào tương đối thuần thì ứng dụng pháp không còn tạo tác (vô tác). Thậm chí cả khi tương đối thuần rồi, nếu lúc này thấy tâm không mạnh thì dùng pháp đối trị, lúc khác tâm được mạnh mẽ thì dùng thẳng pháp vô tác kia. Khéo linh hoạt để ứng dụng làm sao để công phu cho thật tốt.

 

Nhưng phải nên biết đối trị chỉ là phương thức nhất thời, tạm thời; vì còn trong tạo tác. Không thể dùng nhân tạo tác sanh diệt để tu hành đạt đến quả vị rốt ráo không sanh không diệt được. Trở về chỗ vô tác, dụng công mà không có chỗ dụng, tu mà không có dấu vết tu hành, mới khế hợp với bản thể không sanh diệt, mới đạt đến rốt ráo. Biết như vậy, vững tin xác quyết như vậy để cố gắng vươn lên. Nếu không, đôi lúc thấy cách dụng công này khó quá rồi thích cách đối trị hoài thì suốt đời bám rễ vào đó mãi. Tất nhiên không sai, nhưng tiến thì không được tiến bộ nhiều, không thể đạt đến rốt ráo trọn vẹn. Mà rõ ràng là khi gặp chuyện buồn trong cuộc sống, hoặc là khi cuối đời gần nhắm mắt, mới thấy những cách đối trị không đủ lực giúp mình vượt qua tất cả một cách rốt ráo. Nếu ai đã dụng thẳng đến chỗ vô tác này rồi thì sẽ thấy công năng hóa giải của nó thật diệu kỳ! Những thứ làm cho người khác buồn đau thất bại thì với mình chỉ là một ý vị, lý thú, sống động!

 

Câu hỏi 17:

 

Thưa Thầy, thời khóa của Thiền viện ngồi thiền hai thời tối và khuya. Thời gian còn lại chủ yếu là lao tác và những sinh hoạt thường ngày. Có những lúc con bị phóng tâm quá, con phải dùng pháp “thân đâu tâm đấy”, như thế có phải là bị trói, bị nương tựa vào một pháp quá không ạ? Ví dụ như khi con nhặt rau, con cũng phải để ý vào việc mình đang nhặt rau, còn khi con để cho nó “tỉnh sáng” bình thường, không gì hết, thì tâm lại phóng ra, bay nhảy khắp mọi nơi.

 

Đáp:

 

Tùy theo trình độ của mình. Nếu như thấy còn yếu quá thì “thân đâu tâm đấy” cũng là một cách tốt. Nhưng phải biết rằng đó chỉ là cách đối trị nhất thời. Bởi khi còn làm công việc đó, còn buộc vào việc đó thì tạm yên, nhưng khi không làm việc đó nữa thì không lẽ chấp nhận bị loạn động hay sao? Hơn nữa, nếu chỉ buộc một chỗ thì không làm được gì nhiều. Nếu đạo chỉ giỏi hiện tiền trên công việc ít mà không giỏi ở nơi nhiều thì biết đạo này chưa đủ lớn như bản chất vô ngần của nó. Và khi buộc niệm, nhiếp tâm vào công việc thì tạm yên; khi không buộc thì loạn động. Chỉ có, chỉ hiện tiền ở chỗ này mà không có ở trạng thái khác; như thế thì đạo này chưa trùm khắp tất cả chỗ, chưa được tự tại, chưa linh hoạt, chưa đủ lớn để giải thoát sinh tử. Mới biết, công phu tu tập như trên chỉ là phương pháp đối trị tạm thời. Khi mới công phu, chưa thuần thục thì tạm ứng dụng. Khi nào thuần rồi thì chỉ có sáng biết và làm. Tất nhiên không phải ban đầu ứng dụng là được trong lặng liền. Nhưng nếu có đủ niềm tin và quyết chí ứng dụng, khi có sự nếm trải trong nội tâm thanh tịnh tuyệt đối đó, khi công phu tương đối có lực rồi, thì niệm có nhiều, những thứ lăng xăng trong đời có nhiều mình cũng chẳng quan trọng, cứ bình thường. Lúc đó chúng ta không biết về niệm, không biết theo niệm, cũng không cần bỏ niệm, và cũng không theo niệm, mình chỉ là một tánh sáng biết, thì mọi thứ nhiều và ít giống nhau, có và không cũng vậy... Dám gan đối diện và dụng công như vậy thì mới có lúc vọng niệm mới thua và từ giã mình được. Còn nếu cứ hễ thấy nó là liền ngại rồi phải chạy trốn, muốn nó không xuất hiện. Cũng giống như nó vừa lấp ló thì chúng ta liền tìm nơi ẩn núp. Khi hơi yên yên thì mình đi ra. Rồi khi vọng niệm xuất hiện lại và chúng ta tiếp tục tìm nơi ẩn trốn. Cứ như thế suốt đời bị vọng niệm nhát mãi, không thể tiến hơn được. Cho nên, khi nào thấy công phu tương đối thuần thục, đủ mạnh, phải dám một lần gan dạ sống thẳng đến "tánh tự sáng biết" kia thì mới tiến được. Vì sao? Bởi chỉ cần lực sáng biết đủ lớn thì có hay không có đều như nhau. Công phu như thế sẽ đắc lực.

 

Câu hỏi 18:

 

Như vậy là chỉ cần thoải mái, thanh thản, quay về bản tâm lặng sáng thôi, không cần đuổi theo hay cố biết một cái gì đó ở bên ngoài, đúng không thưa Thầy?

 

Đáp:

 

Đúng vậy. Có niệm không niệm giống nhau, đừng theo là được. Cho nên Lục Tổ nói: “Không sợ niệm khởi, chỉ sợ giác chậm”. Mình có đang giác sáng không, hay là đang theo nó, biết về nó? Theo nó là mê; biết về nó là mất mình, vẫn còn phan duyên (vin theo niệm); mà tự giác sáng là chúng ta đang công phu, đang tỉnh sáng. Thế thôi. Vọng niệm không quan trọng. Nếu công phu mạnh, dám gan dạ, tức là niệm ít niệm nhiều gì cũng không quan trọng, khi đó chỉ là giác sáng thôi. Có bao nhiêu là chuyện của nó, chúng ta cũng chẳng cần khởi niệm mặc kệ luôn, quý vị sẽ thấy công phu đắc lực.

 

Câu hỏi 19:

 

Như kiểu mình cứ đứng quan sát nó đến đi, đi đến có đúng không ạ?

 

Đáp:

 

Đứng quan sát là đang biết về, biết theo vọng niệm, là phan duyên; chẳng khác nào đã theo nó rồi. Quan sát vọng niệm đến đi, đi đến là có đón tiếp nó rồi, lúc này như là đang đếm vọng tưởng thôi, không phải công phu đắc lực. Lúc còn bận rộn đối duyên xúc cảnh, sinh hoạt, làm các công việc... thì tâm còn thô, công phu chưa nhiều cho nên chưa phát hiện ra sự hạn chế và tác hại. Cho đến khi vào môi trường hạ thủ công phu miên mật, vọng niệm sẽ cùng lúc ùa về rất nhiều. Lúc này hành giả sẽ bất lực và hoảng loạn, tự sợ. Mới biết quan sát đến đi như kiểu chú tâm kiểm đếm vọng tưởng; công phu theo kiểu biết về vọng, biết theo đuôi vọng, đợi khởi rồi biết theo đuôi nó mà không phải tự sáng biết, công phu ấy không đủ lực để hàng phục vọng tâm trong khi mình vẫn đang trong điều kiện sức khỏe và công phu tốt nhất.

 

Câu hỏi 20:

 

Con thấy cách này rất khó, chỉ cần mình động tâm chút thôi là đã rơi vào tạo tác rồi.

 

Đáp:

 

Thế nên mới nói, nếu còn yếu thì có thể ứng dụng tu tập theo các phương pháp sơ cơ. Khi tương đối mạnh thì phải dám một lần gan dạ dụng công như thế mới có lúc đắc lực được. Nếu không thì mỗi lần khởi niệm, chúng ta cứ muốn nó hết cho rồi, hoặc là sợ nó, phải cột tâm lại… thì vọng niệm vẫn có giá trị với mình; vì thế không thể tiêu dung nó được. Hơn nữa, làm như thế là đã có tạo tác, có máy động, là cái căn thức mê muội đã có ra rồi. Căn thức hãy còn thì làm sao thoát khỏi sanh tử? Cho nên phải dám gan dạ một lần dụng thẳng đến tâm kia thì lần sau tất cả mọi thứ sẽ là bình thường. Nói là khó là bởi tình thức vin vào tướng, nương tựa một cái gì đó quen rồi. Cho đến khi công phu cũng muốn có một pháp để nương tựa vào thì thấy dễ hơn là vô tác, không nương tựa. Dễ đó là do chìu theo thói quen nương tựa của tình thức thôi. Nhận ra yếu huyệt này, chúng ta khéo buông sạch mọi thứ, không lập thêm bất cứ gì thì ngay đó tâm mình mặc tình thấy biết không ngăn ngại, liền khế hợp bản tâm.

 

Như ở trên vừa nói, khi còn ở ngoài vọng niệm còn ít thì còn có thể tu tập theo cách đối trị như vậy được. Nhưng khi nhập thất một mình, có những thời điểm vọng niệm cùng lúc ùa về rất nhiều. Với cách chạy trốn, dẹp trừ, đối trị như trên, chúng ta sẽ bất lực trước một dòng thác cuộn trào của vọng niệm. Lúc này mới thấy cách dụng công biết theo niệm, bỏ niệm trước đó là sai lầm, không thể nào điều phục tiêu dung vọng niệm được. Ngược lại, ngay khi vọng niệm đang cuồn cuộn đó, chúng ta chỉ cần sáng biết, không thèm biết về nó, biết theo nó; có niệm và hết niệm cũng không thèm để ý đến; chỉ không mê mờ tức là đang sáng biết, thế thôi! Chúng ta sẽ cảm nhận điều rất bất ngờ là tất cả các vọng tưởng như thác đó bất chợt mất sạch; tâm tự trong lặng, như sáng hẳn ra. Một lần dám như thế thì mới thắng được vọng tưởng. Ngược lại, cứ dụng công theo kiểu trốn tìm, thấy giặc vọng tưởng thì liền núp, giặc hết thì đi ra... Lòng vòng núp hoài như thế thì không thể nào hàng phục được vọng tưởng.

 

Câu hỏi 21:

 

Khi trong đời sống thường nhật gặp chuyện phiền não, có kỹ thuật nào để giải quyết điều đó không thưa Thầy?

 

Đáp:

 

1. CÁI VÔ SANH MỚI TIÊU DUNG ĐƯỢC CÁI SANH DIỆT

 

Có lần có người hỏi điều này, quý Thầy nói đừng thèm để ý tới, cứ tỉnh táo, lặng lẽ thì mọi chuyện sẽ ổn. Vị Phật tử này hỏi thêm: Khi đồng nghiệp nói những điều gây sốc, con đang bực tức. Nếu khi đó con không để ý tới, con quán nó là giả, không nghe. Nhưng mặt khác thì con vẫn thấy họ đang nói móc họng con, mà mình lại nói là mình không nghe thì con thấy như là mình đang dối mình. Vậy phải làm sao thưa Thầy?

 

Bởi vì quý vị đang ở giai đoạn quán chiếu để thấy sự sân giận là giả. Nhưng vì sức tu còn yếu, chưa đủ lực, cho nên chưa thể thực sự thấy nó là giả mà mới chỉ cố gắng cho nó là giả mà thôi. Do đó, trong mình tồn tại hai trạng thái. Một mặt quán sự sân giận là giả, người chọc tức cũng huyễn hóa. Nhưng mặt khác thì thấy có người ta làm mình bực tức thiệt, cơn sân giận đang đùng đùng. Vì vậy mà chưa vượt qua được. Đây là do hạn lượng, do sức chịu còn nhỏ hẹp của cá nhân khiến mình cảm thấy như vậy chứ không phải là chân lý. Muốn kiểm chứng chân lý thì thử hỏi lại một ngàn năm sau ai mất, ai còn, ai giận ai? Và nếu được nghe kể lại câu chuyện của trăm năm trước, người trong cuộc thì cảm thấy có những vui buồn, cảm xúc quan trọng. Nhưng với mấy cháu bé mới sinh ra thì nghe đây như một câu chuyện cổ tích, truyền thuyết vậy thôi. Từ nhỏ đến lớn, chúng ta đã có biết bao lần tức tưởi, uất hận chừng như không thể vượt qua được. Nhưng bây giờ có còn sự việc nào quan trọng hay có giá trị gì đâu? Sự thật mọi thứ chỉ là truyền thuyết hư huyễn như thế. Đó là chân lý, là sự thật. Người mê thì phải có thời gian gánh chịu đau khổ cực cùng rồi sau đó mới nhận biết. Bậc trí tu hành thì luôn thấy rõ chân lý này ngay đây và bây giờ.

 

Khi sân thấy nó là huyễn hóa, đó là một chân lý đã được thẩm định và khẳng định. Chỉ cần tỉnh tâm lại để mọi việc không đi quá xa; đó là biết nhận ra và hướng đến chân lý, sự thật; chứ không phải quan niệm như kiểu tự kỷ ám thị rồi cho rằng tự mình lừa dối mình. Nghĩ như vậy là do mình không thắng nỗi phiền não sân si, rồi trong tâm niệm mình tự nó tạo ra hai quan điểm vậy thôi. Qua rồi nó sẽ hết chứ không còn mãi, do đó không phải có thật. Tuy nhiên, trong tức thời, sự sân giận chưa chịu hạ hỏa liền mà vẫn sục sôi, ứa nước mắt; đó là do sức định của mình chưa đủ cho nên không thể tức thời tiêu hóa liền vậy thôi.

 

Tóm lại, mọi thứ có hình tướng kể cả sân hận, bản chất đều là huyễn hóa, không thật; đó là một sự thật, là chân lý, không phải do quan niệm. Lòng sân giận đang lẫy lừng chưa thể hết liền là do tùy thuộc vào tập khí của mỗi người nặng hay nhẹ, định lực mạnh hay yếu; chứ không phải bản chất của cái sân là có thật. Như vậy, không phải có một quan niệm sân giận là giả để mâu thuẫn với một cơn sân giận đang tồn tại. Mà bản chất của sự sân giận vốn huyễn hóa là một chân lý, tin hay không thì sự thật xưa nay vẫn vậy. Và cơn sân giận vẫn còn là do lực tu của cá nhân mình chưa đủ mạnh mà thôi.

 

Nếu dùng pháp quán chiếu để chiến thắng lòng sân của mình, không làm tổn thương người khác, đó là cần nếu thấy có hiệu quả. Theo kinh nghiệm mang tính cá nhân nho nhỏ thì quý Thầy thấy rằng, ban đầu chưa có định lực thì phải quán chiếu để phá trừ phiền não, trở về tâm thanh tịnh chính mình. Điều này cần. Nhưng nếu khi công phu khá thuần thục rồi thì nên dụng thẳng chỗ vô sanh, tâm mình lắng lại, không sanh khởi trên mọi hoàn cảnh là tốt. Bởi khi khởi quán là tâm chưa rời khỏi sanh diệt. Mà nghịch cảnh thuộc về sanh diệt, khởi quán cũng thuộc về tâm sanh diệt, cả hai đồng một tính chất sanh diệt thì khó thành công. Có thành công chăng cũng chỉ là tạm thời, chỉ đối với những sự sân giận vừa mức chịu đựng của bản thân chứ chưa thực sự thoát hẳn ra khỏi trần lao phiền não. Vì thế, pháp quán chỉ ứng dụng để đối trị cho buổi đầu chưa có định lực. Khi có năng lực rồi thì nên tiến thêm bước nữa là dụng thẳng đến chỗ vô sanh. Chỉ có “thể vô sanh” mới hàng phục được cái sanh diệt. Thiền sư Nham Đầu Toàn Khoát dẫn lời cổ đức: “Chẳng phải trần chẳng xâm phạm ta. Nhưng khi ta vô tâm thì nó cháy”.

 

Con người thường mong muốn mình ở vào hai trạng thái. Một là an bình, không bị khổ não gì cả. Hai là nếu nhỡ có gì không tốt thì mong làm sao cho nó qua nhanh. Cả hai đều là tâm động, sanh diệt. Vì chưa rời loạn động sanh diệt cho nên khi nào cũng cảm thấy có cái gì đó chưa ổn, khiến cho mình thiếu bản lĩnh, tự tin. Đây là cội nguồn làm cho con người cảm thấy dễ bị tổn thương, đau khổ. Khi phát tâm tu hành cũng dùng hai tâm trạng trên để công phu cho nên luôn thầm thầm cảm thấy bất ổn, chưa được an. Nếu kịp nhận ra, lìa hai tâm thái này, lìa sanh diệt, dụng thẳng đến chỗ vô sanh; mọi thứ có và không cũng chỉ có thế, mới mong có ngày an ổn thực sự.

 

Cụ thể ngay trên mọi thứ phiền não sai biệt đang diễn tiến, chúng ta không cần sanh tâm phân biệt trên nó, cũng không có tâm xua đuổi muốn nó qua nhanh, cũng không phải theo nó để than phiền, không chạy trốn cũng chẳng phải chường mặt. Nó có sanh khởi kiểu gì thì mình cũng chỉ cứ bình thường, chỉ cứ trong lặng trên nó. Khi nghe chửi mắng, chúng ta đừng vội sanh tâm trên những lời kia mà cứ nhẹ nhàng, lặng lẽ, trong sáng để nghe. Cho dù trong lòng nó có giận đến đâu, chúng ta cũng chỉ cứ bình thường, lặng lẽ, nghe một cách rõ ràng, không thèm để ý quan tâm đến cái giận. Tập quen lâu ngày, cái LẶNG LẼ kia đủ lớn, chúng ta sẽ tự thấy rõ kinh nghiệm này. Khi nghe tiếng chửi mắng, nhưng tiếng ấy lại tự nhiên trở nên trong vắt. Như vậy là cái vô sanh kia nó đã đốt cháy cảnh duyên, hóa giải sạch mọi não phiền rồi. Điểm chính yếu ở đây là khi đối với mọi hoàn cảnh, chúng ta đừng thèm sanh khởi tâm gì cả mà phải cương quyết tìm lấy sự lặng trong ngay đó cho bằng được. Không thèm để ý đến sai hay đúng, hơn và thua, phải hay trái gì cả, những thứ đó không xài. Mới đầu có thể chưa cảm nhận được hiệu quả nhiều. Nhưng phải tin chắc rằng, “Chỉ có cái vô sanh mới chiến thắng vĩnh viễn cái sanh diệt” để chúng ta mạnh dạn thực hành. Nhiều người giỏi tu khi nhìn lá, nhìn cảnh để lìa mà chưa có kinh nghiệm để đối diện với nỗi sân giận, oan ức cùng tột hay muộn phiền chết lịm trong tim. Đó là do chưa có kinh nghiệm công phu. Chiếc lá, cảnh vật là cái bị thấy. Sân giận, oan ức, muộn phiền cũng là những thứ bị chúng ta thấy. Nhìn về hiện vật và hiện tượng, tình huống, tình cảnh thì có khác. Nhưng tất cả đều là một pháp, đều là một thứ bên ngoài đang đối diện trước mình. Nhìn chiếc lá thấy huyễn hóa, tâm lắng lặng sáng trong như thế nào thì nhìn mọi tình cảnh cũng như thế ấy. Đó là biết dụng công. Hoàn cảnh nào xảy đến cũng đều ứng dụng như vậy. Lâu ngày thuần thục, sẽ phát hiện trên mọi thứ phiền não kia, vẫn còn đây một cái lặng trong, mát lành, sáng dịu, chưa từng bị phiền não làm nhiễm ô bao giờ. Lúc đó ở bất kỳ hoàn cảnh nào chúng ta cũng đang sống bằng tâm vô sanh đó, mới thấy hết giá trị đặc biệt của sự tu hành.

 

Ban đầu có thể chưa quen cho nên khó ứng dụng được trọn vẹn. Nhưng khi nào thấy có khả năng thì phải dùng thẳng đến chỗ đó. Nếu chưa được thì cứ dùng các phép quán. Nhưng nên nhớ đó chỉ là pháp đối trị tạm thời chứ chưa phải rốt ráo. Khi còn bụng đói, chưa thể tìm ra cơm thì có thể tạm dùng gì đó cho đỡ dạ. Nhưng đã có cơm ngon rồi thì nên ăn cơm. Đừng để Thiền sư Huyền Giác quở: “Đói gặp cơm vua chẳng chịu ăn”.

 

2. TÂM KHÔNG THÌ CẢNH TỊCH, TẤT CẢ ĐỀU NHƯ NHƯ

 

Chúng ta vẫn nghe Sư Ông và quý Thầy nói, các pháp là giả, thân này là giả, tâm sanh diệt là giả, phiền não là giả, nghiệp chướng là giả... Nói giả để làm gì? Để không bị mê lầm rồi theo nó, phải chịu khổ. Ngay khi không theo thì liền trả lại tâm thể đang trong lặng, sáng biết. Mọi thứ đang vận hành, chuyển động, nhưng chúng ta không còn là động, không bị cảnh vật xoay chuyển nữa.

 

Cụ thể khi nhìn lên nắm tay này, nó là giả hay thật? Đợi khi co nắm ngón lại mới có, xòe ra thì nắm tay không còn. Hơn nữa, khi đang có đó, phải nhờ thịt, gân, xương... ràng rịt lại mới tạm có nắm tay, chứ tìm một cái gì là nó thì không có. Mới biết, nắm tay này là giả, tạm có, không thật.

 

Khi đã biết nắm tay là đồ giả rồi thì quý vị có còn theo nó nữa không? Nếu thấy là thật thì mới theo nó, còn thấy là giả thì không ai theo đồ giả làm gì. Có rất nhiều người thuộc lòng bài học huyễn hóa này; người huyễn, cảnh huyễn, thân huyễn, tâm huyễn..., nhưng tại sao khi gặp việc thì chưa lìa huyễn được mà vẫn còn bị chi phối?

 

- Khi nhìn nắm tay này biết là huyễn, quý vị đang dùng tâm gì để biết nó là huyễn hóa? Dùng tâm nghĩ suy vọng động hay tâm thể lặng trong?

 

- Phần đông thường dùng tâm hiểu biết, nghĩ suy để hiểu về huyễn hóa.

 

- Mà tâm nghĩ suy là sanh diệt hay vô sanh?

 

- Là tâm sanh diệt.

 

- Tâm sanh diệt là chân thật hay là huyễn hóa?

 

- Là huyễn hóa.

 

- Dùng tâm huyễn hóa để hiểu về một cái huyễn hóa thì đã lìa được huyễn hóa chưa?

 

- Là chưa. Còn nằm trong huyễn hóa.

 

- Vì còn nằm nguyên trong huyễn hóa, chưa thoát ra khỏi huyễn hóa, cho nên tuy biết các pháp là huyễn hóa mà chúng ta vẫn bị cái huyễn hóa chi phối là phải rồi. Thấy biết chưa rời huyễn hóa sanh diệt thì làm sao không bị cái huyễn hóa chi phối được. Đây là do chưa nhận ra tường tận, chưa khéo léo trong lúc dụng tâm.

 

Thêm một điểm nữa, khi biết nắm tay này là giả, quý vị đang biết về nắm tay, biết trên nắm tay; hay không lấy bỏ, không sanh tâm can thiệp trên nắm tay mà tự mình đang sáng biết? Nếu biết theo nắm tay thì rõ ràng là đang dùng tâm sanh diệt huyễn hóa để biết, tình thức chưa hết. Đó là lý do chúng ta biết mọi thứ là huyễn hóa, nhưng vẫn còn bị nó chi phối hoài là vậy.

 

Bây giờ khi biết nắm tay là giả rồi, quý vị không thèm biết theo, biết về nắm tay nữa. Thử lóng lặng tâm lại, đừng thèm chú ý gì hết, cũng không phải phớt lờ qua, và không khởi tâm để mặc kệ; chỉ là tự nhiên, bình thường, quý vị có nhìn thấy nắm tay này không? Không cần khởi hiểu mà vẫn thấy biết sáng ngời, không cần động niệm. Ngay đây, tâm không cảnh tịch, thấy biết vượt năng sở, là đã khéo sống thẳng đến tánh thể vô sanh. Nắm tay này là đại diện cho tất cả cảnh duyên bên ngoài. Nếu khéo dùng cái thấy biết lặng lẽ vô sanh này để sống trên mọi hoàn cảnh thì mọi thứ tự nó là trong lặng, không có cái gì chi phối nữa, là giải thoát rồi.

 

Vẫn bằng vào cái thấy biết sáng ngời không động đó, quý vị nhìn lên nắm tay này, nó có hay là không có?

 

Nói có nói không là rơi vào hai đầu, không phải là chỗ thấy này. Bởi lúc này chúng ta không biết theo nó mà đang lặng biết. Không phân tích, không dính mắc đến nó cho nên nó không phải có trong tâm mình, vì vậy không phải là có. Tuy vậy, nhưng chúng ta vẫn đang thấy rõ nắm tay này cho nên không phải là không. Lúc này, nắm tay không phải là có, cũng không phải là không. Nói có cũng không phải, không cũng không phải, mà nó là một sự hiện hữu rỗng lặng trong tự tánh chánh định của mình. Có cũng không lập, không cũng không lập, tình thức nương gá vào đâu để sanh khởi? Ngay đó rỗng suốt, sáng ngời.

 

Vậy thì lúc này, nắm tay này nó ở trong mình hay ngoài mình?

 

Nói ngoài nói trong là rơi lại vào trong sanh diệt nữa. Bởi vì mình đang thấy nó cho nên nó không thể là ngoài. Nhưng lại không kẹt đến nó cho nên nó cũng không phải ở trong tâm. Không ngoài, không trong, nó là một sự hiện hữu rỗng lặng trong tự tánh chánh định của mình. Tâm không thì cảnh tịch, nắm tay này là không tịch (vắng bặt). Còn nói nắm tay là có, là không, là trong hay nói là ngoài đều chưa rời nắm tay, còn nhằm trên nắm tay để nói, là đã theo cảnh mà bỏ quên mất chính mình. Đây là yếu huyệt của sự mê mờ, vọng động, đưa đến tất cả các khổ đau trong sanh tử.

 

Như vậy, khi nhìn nắm tay này, không thèm biết về, biết theo hay phân biệt, dính mắc trên nó nữa; mà chỉ là trả lại tự tánh toàn thể sáng biết trong lặng ngay đây, thì nắm tay này không phải có, cũng chẳng phải là không; không trong, không ngoài; lúc này, cái thấy vượt cả năng và sở, căn và cảnh, có và không... vượt trên tất cả những đối đãi hai bên. Ngay đây, nắm tay là nắm tay, cây gậy là cây gậy, hoa hồng là hoa hồng, tất cả đều là sự hiện hữu như như. Lâu nay nghe nói phải lìa đối đãi hai bên, nhưng chưa biết phải lìa như thế nào. Bây giờ đã rõ, thấy biết như vậy thì đối đãi tự lìa. Nếu có làm bất cứ gì, đều rơi vào đối đãi, không thể thoát ra được.

 

Ví dụ: Khi bị làm nhục, chúng ta liền vội quán cách này cách nọ để vượt qua. Tất nhiên là nó sẽ qua. Nhưng đó vẫn là đang nằm trong sanh diệt, đối với những nỗi nhục nhỏ thì có thể vượt qua được. Với những sự cố lớn hơn thì khó qua nổi. Một cách khác, ngay khi đang bị làm nhục đó, chúng ta chỉ cần lặng tâm lại, trong veo. Nhục lớn hay nhỏ gì cũng quy về thành một nhóm là đồ sanh diệt, vì thế sẽ bị cái lặng sáng trong veo kia thiêu sạch, và tất cả đều trong lặng theo. Dụng tâm như thế mới gọi là LIỄU; và rõ ràng là nỗi nhục đã hóa thành không; tức là đã thực sự đúng như nghĩa Thiền sư Huyền Giác nói: “Liễu tức nghiệp chướng xưa nay không” là vậy.

 

Câu hỏi 22:

 

Chúng con hiểu, nhưng thấy khó làm. Ngay cả khi quán nó vẫn còn ngầm ở đâu đó đến một lúc nào đó lại trồi lên?

 

Đáp:

 

Việc tập khí đó (phiền não tiếp tục trồi lên) là rất bình thường. Bởi vì những thứ này chúng ta đã nuôi dưỡng nhiều đời rồi cho nên nó rất mạnh. Còn việc tu hành thì mới đây thôi, vì thế chưa thể đủ lực để hàng phục có kết quả ngay được. Cần phải có thời gian. Theo thời gian, chúng ta nên nuôi lớn định lực, chứ đừng nuôi lớn tham sân si nữa thì sẽ có ngày chiến thắng được phiền não. Ví dụ đứng trước một hoàn cảnh xảy đến, nếu chìu theo tham sân si là quý vị đã châm mồi bồi dưỡng nó nữa rồi. Nếu cứ tiếp tục bồi dưỡng như thế thì nó sẽ lớn mạnh và giết chết chúng ta thôi. Nếu không theo tham sân si, đó là đang khống chế, cô lập nó, không cho nó ăn nữa. Mặt khác, phải bình tâm, lặng lẽ, tỉnh giác, đó là đang nuôi lớn sức giác. Bằng cách này, tham sân si sẽ yếu đi và SỨC GIÁC được nuôi lớn dần. Khi sức giác càng lớn mạnh thì sức tự chủ càng cao, mới hàng phục được tập khí phiền não. Nên biết rằng, anh chàng tham sân si đó mình đã nuôi nhiều đời kỹ quá rồi nên nó đã quá lớn mạnh. Trong khi sức giác mới nuôi được mấy năm nay. Lực lượng không tương xứng, bị chênh lệch quá nhiều mà mang ra kéo co thì làm sao đủ sức thắng nổi phiền não mà muốn cho nhanh! Vì vậy, do còn sơ cơ cho nên thực hành thấy khó là chuyện thường. Chỉ cần lưu ý, kể từ nay, đừng bồi dưỡng cho những thứ trần lao phiền não nữa thì sẽ có ngày chúng ta thành tựu thôi.

 

Điểm kế nữa là, khi chúng ta thấy phiền não không mất mà cứ trồi lên hoài là vì mình thấy có nó thật, thấy có mình thật và muốn cái phiền não đó qua cho mau. Nếu thấy rõ tánh phiền não không thật thì nó có hay không có gì cũng không quan tâm, chỉ là tìm lấy sự lặng trong sáng biết ngay đó thì nó tự tiêu tan; đâu cần quan tâm là còn hay hết? Khi còn quan tâm nó còn hay hết là chúng ta ngầm thấy nó là thật rồi cho nên khó hết. Nên nhìn mọi thứ đơn giản lại, quy tất cả nghịch duyên, thuận duyên, dù mạnh hay yếu gì thì tất cả cũng làĐỒ SANH DIỆT. Đã là thuộc loại nhóm sanh diệt thì có ngày nó cũng sẽ rã tan thôi. Chủ yếu là đừng ôm về bảo vệ và nuôi lớn là được.

 

Như ban đêm trong nhà đóng cửa, không đèn, không điện, không nến, tối đen. Có người cho rằng có một bóng tối thật và cầm chổi rượt đuổi hay quét cho bóng tối đi ra khỏi nhà, có được không? Không thể. Làm gì để hết tối? Chỉ cần bật đèn lên. Bóng đêm thấy thì có mà nắm thì không, cho thấy nó không thật có. Chỉ khi không có đèn thì bóng tối tạm có vậy thôi. Khi mở đèn lên thì nó đi đâu mình cũng không tìm thấy nữa. Vì nó có thật đâu mà đi tìm cho có. Mới biết, bóng tối là giả, không thật. Biết là giả thì không còn sợ bóng tối nữa. Dù nó đang có đó cũng không quan trọng, bởi có thật đâu? Đơn giản, không thèm quan tâm, chỉ cần mở công tắc lên thì tối tăm xóa sạch. Phiền não tham sân si... cũng tương tự như bóng tối vậy. Và trí tuệ chân thật như ánh đèn kia. Nếu chấp nhận phiền não, chẳng khác nào chấp nhận sống trong đen tối vô minh. Muốn phá đêm dài vô minh thì phải biết tìm công tắc mở đèn lên, chứ không phải cầm chổi để rượt đuổi xua tan bóng tối. Vì vậy tu hành không phải chăm chăm dẹp đuổi tham sân si phiền não vô minh. Nếu cứ đuổi theo cách đó thì cũng giống như lấy chổi đi đuổi bóng tối trong đêm, làm sao đuổi được. Điểm chính yếu ở đây là phải thấy rõ tham sân si phiền não không thật. Chỉ cần xác quyết một cách khẳng khái và thấy rõ tất cả đều là những thứ huyễn hóa không thật, thì nó sẽ giảm trọng lượng và cường độ chi phối liền. Kế đến là không chấp nhận cho nó là đúng, là phải, nhưng cũng không thèm can thiệp trên nó. Chỉ là ngay khi nó đang có mà vẫn chỉ cứ sống bằng tâm thể sáng trong lặng lẽ (dù nó vẫn còn). Đó là công tắc đèn. Theo thời gian công phu thuần thục, “sức sống sáng ngời lặng trong không động” kia đủ lớn, thì phiền não tham sân tự là trong lặng. Lúc này không còn chỗ cho nó dung thân, tự nó ngưng bặt. Cần có cái nhìn cho thấu đáo để khéo léo vận dụng trong công phu thì việc tu hành sẽ nhẹ nhàng và có năng lực.

 

 Câu hỏi 23:

 

Như lúc nãy Thầy đưa nắm tay lên, con cũng nhìn, nhưng thấy nó một cách tổng quát, thấy cái tay thầy nắm xòe, nhưng thấy một cách tổng quát. Con không trụ vào tay Thầy, mà cũng không trụ vào tổng quát luôn. Con thấy bình thường như vậy. Cho nên khi Thầy có hỏi, con có thấy rõ biết như vậy, nhưng cũng không cần phải trả lời. Thầy có thể chỉ dạy thêm cho con chỗ này?

 

Đáp:

 

Trong nhà Thiền, khi các Ngài nhận ra chỗ này thì hoặc cười to lên, hoặc khóc, hoặc hét, hoặc thoi, đấm, hoặc mỉm cười không nói gì, hoặc nói một câu hoạt ngữ... Không có gì theo khuôn mẫu cố định trước. Chẳng phải qua suy nghĩ sắp đặt hoặc tư duy gì cả. Từ tâm thể hiện tiền như đang thấy rõ mọi vật trước mắt, tất cả hành động, nói cười... đều là sự sống động, linh hoạt, tùy thời, tùy cơ, tùy hoạt cảnh..., nhưng lại như là tự nhiên từ trong đó lưu xuất ra. Nếu mình không phải ở trong đó thì làm gì cũng không đúng. Quý Thầy muốn giới hạn ngang việc hướng dẫn công phu chứ không nói nhiều về tâm chứng. Nếu chưa ngộ thì hẳn là còn bên ngoài. Có nghe muôn vàn diệu lý siêu huyền thì cũng như là nghe về một câu chuyện huyền thoại cổ tích mà thôi. Khéo ứng dụng để hạ thủ công phu tu tập thì tất cả đều sẵn đủ nơi chính mỗi vị.

 

Câu hỏi 24:

 

Thầy nói trong cái vô sanh, con nghe cũng nghe trong cái vô sanh. Cho nên nếu con chạy theo câu hỏi của Thầy mà lại suy nghĩ ra một câu trả lời thì tự nhiên con lại mất cái khoảng không của con đang trùm khắp cái cử động của bàn tay Thầy.

 

Đáp:

 

Đến chỗ này phải tinh tế mới được. Do quý vị mới kinh nghiệm lần đầu cho nên còn phải gìn giữ để tiếp tục công phu. Khi đã thuần thục thì sức giác mạnh hơn, sẽ không còn thấy có một sự trong lặng bên trong để âm thầm gìn giữ nữa. Bởi còn giữ, còn trụ là còn thầm thầm thấy có cái để trụ, để giữ gìn thì bị ngăn trệ, bị giới hạn, chưa được tự do tự tại. Cụ thể là hiện nay khi muốn trả lời thì quý vị phải suy nghĩ, đó chưa phải là hoạt dụng, mới chỉ là một chút kinh nghiệm của buổi đầu cảm nhận thôi. Đến lúc đủ lực sống thuần tịnh và sáng mạnh thì không thèm giữ nữa. Trong không thấy có tâm để dừng trụ; ngoài hay suốt qua, không dừng lại trên bất kỳ chỗ nào, ngay đó mọi thứ tự hiển bày; bình thường nhưng bàng bạc, sáng rỡ. Lúc này mới có phần tự do tự tại. Tự tâm linh thông, biết suốt; không động nhưng rất chủ động và linh hoạt, hỏi đáp đều rất tự nhiên, chạm đến liền nhảy, không phải sanh khởi cũng không cần phải nghĩ suy gì cả. Hằng ngày sống ngay đó là đang công phu tu tập.

 

Câu hỏi 25:

 

Ví dụ: Con có một điều phiền não, đau lòng. Con chỉ cố gắng quán sát nó xảy ra như thế nào (chịu đựng). Ví dụ trán đổ mồ hôi, đau lòng bên trong như thế nào... Một lúc thì nó hết... Nhưng một lúc sau hoặc ngày hôm sau nó lại quay lại. Vậy nên dụng công như thế nào?

 

Đáp:

 

1. DỤNG THẲNG ĐẾN CHỖ VÔ SANH

 

Không cố gắng gạt bỏ, không cố xua đuổi nó đi. Quý vị thử cố gắng níu giữ lại đi xem thử có giữ được không? Có thể giữ được một vài ngày hay nhiều lắm là được một vài năm. Thử đem chuyện này để nghĩ đến mười năm sau, chúng ta sẽ thấy nó rất vô duyên, nhạt nhẽo, không có giá trị gì cả. Nhưng tại sao lúc đó lại khờ dại đi quan trọng đến thế, để nó làm cho mình phải vật vã quá vậy? Thử nhớ lại lúc còn nhỏ cách đây 10 năm, chúng ta cũng có nhiều niềm vui nỗi buồn, tại thời điểm ấy thấy nó cũng trầm trọng ghê gớm lắm. Nhưng bây giờ thì đâu còn có nghĩa lý gì, chỉ là một trò buồn cười của thời trẻ con ngây dại thôi. Tương tự, đem chuyện hôm nay đưa nó về 10 năm sau để nhìn thì sẽ thấy mọi chuyện cũng tầm thường, vô duyên như thế. Mới hay ra, tất cả đều là đồ bỏ, không đáng quan tâm. Muốn níu giữ còn không được, huống chi vứt bỏ thì làm sao còn? Mọi thứ ở thế gian bản chất của nó đều thuộc về biến hoại vô thường sanh diệt, nhưng chúng sanh chỉ nhìn thấy chúng trong một khoảng ngắn tạm có, rồi lầm tưởng là bền chắc lâu dài cho nên mới bị các đảo điên. Sở dĩ đang bị cái gọi là “nỗi đau lòng” chi phối là do quý vị đang dùng con mắt thịt để nhìn thấy câu chuyện của nhất thời đang xảy ra, mà không nhìn rõ bản chất biến hoại theo thời gian của nó. Từ đó, tâm tưởng tự cho ra một cái thấy nỗi buồn này thật có. Theo đó, vì có đau lòng thật cho nên muốn bỏ nó cho mau, muốn làm sao để nó qua càng nhanh càng tốt. Vì thấy là thật và muốn bỏ nó; đó là lý do nó càng có giá trị với mình, chi phối mình đau khổ tột độ.

 

Biết rõ nguyên nhân rồi, bây giờ không cần giữ lấy, không cần buông bỏ, không khởi tâm mặc kệ, không thèm muốn tất cả trôi qua nhanh nữa... Không gì cả, cứ bình thường. Nó có hay không cũng chỉ là bình thường, đừng thèm để ý đến. Đau hay không đau, kệ nó. Nó có làm cho mình bị đau nhói đến đâu đi nữa thì cứ để tự nhiên bình thường, không theo, không xua đuổi, không muốn an, không đúng sai, không chạy trốn, không tất cả để tâm có khởi cũng không còn có chỗ để tiếp tục. Cốt yếu là, vẫn đang còn đau nhói, chết lịm, tái tê... không dẹp qua, không cần hết; hãy ở ngay trên nỗi đau buồn đó mà tìm lại cho bằng được cái “lặng trong vô sanh” thì tất cả sẽ bị thiêu rụi, cháy tan tành. Bằng cách này, mọi thứ sẽ qua mau một cách nhẹ nhàng. Rất khỏe.

 

Trong Tuyệt Quán Luận của Tổ Bồ-đề Đạt-ma, có đoạn Duyên Môn hỏi:

 

- Nếu có người mới học đạo, chợt gặp nhân duyên người khác đến làm hại, làm sao đối trị cho hợp đạo?

 

Đáp:

 

- Toàn thể chẳng cần đối trị, tại sao? Cái có thể tránh thì hãy tránh đi, cái không thể tránh cứ để mặc nó. Cái có thể nhẫn thì hãy nhẫn, cái không thể nhẫn thì khóc.

 

Quá hay! Toàn thể chẳng cần đối trị. Vì sao? Vì còn dùng đối trị là dùng cái này để đối trị cái kia, như thế là chưa lìa đối đãi sanh diệt thì làm sao vượt qua được nghịch duyên phiền não? Cho nên, tất cả không cần đối trị. Nói cách khác, nghịch duyên muộn phiền đang có, không cần hết, trên nó, chúng ta không sanh thêm tâm gì cả sẽ tốt. Cứ bình thường. Cho nên Tổ nói tiếp:

 

“Cái có thể tránh thì hãy tránh đi, cái không thể tránh cứ để mặc nó”. Tất nhiên, cái gì tránh qua được thì chúng ta đã tránh rồi. Cái nào không tránh được thì để mặc nó. “Để mặc nó” là bình thường, tâm không thèm sanh khởi trên nó, không thèm quan tâm sanh khởi có không còn mất, chứ không phải có niệm nghĩ để mặc kệ nó. Đây là Tổ chỉ dạy dùng cái vô sanh để thiêu rụi cái sanh diệt.

 

Tổ nói tiếp: “Cái có thể nhẫn thì hãy nhẫn, cái không thể nhẫn thì khóc”. Tại sao? Tất cả chỉ để tự nhiên, bình thường, không sanh tâm động niệm là tốt. Trong cái tự nhiên kia, nếu sự việc nào trong khả năng của mình thì hãy kiên trì, nhẫn nhục. Tất cả rồi cũng sẽ vượt qua một cách nhẹ nhàng, an ổn, nên nói: “Cái có thể nhẫn thì hãy nhẫn”. Nếu công phu còn giới hạn, gặp phải điều quá sức chịu đựng thì cũng cứ trong tâm thái tự nhiên, bình thường kia, nếu có khóc thì vẫn tự nhiên cho nước mắt ứa chảy một cách bình thường thôi, không sanh khởi gì cả. Như ăn ớt bị quá cay, không làm thêm gì cả, chỉ há miệng cho nước bọt chảy ra tự nhiên, bình thường không suy nghĩ thêm gì, sẽ không còn cay nữa. Khóc trong trường hợp này cũng vậy. Nếu chưa tin, đoạn dưới đây Tổ dạy tiếp.

 

Hỏi: Nếu khóc thì đâu có khác gì với người có ngã kiến?

 

Đáp: Như chày dộng vào chuông, tiếng nó tự nhiên phát ra, đâu hẳn là có ngã. Nếu ông cố gượng đến chết để kềm tâm, nghiến răng chịu đựng, đây chính là còn cái NGÃrất to.

 

Chỉ là không tâm, không giữ lấy cũng không xua bỏ đi, chỉ là bình thường thì mọi tình huống hiện tượng cũng đang bình thường, trong lặng. Nếu vẫn cố dùng tâm ngã kiến, sanh diệt để suy lường thì không thể hiểu đến được chỗ này. Như cái chày dộng vào chuông, tự nó phát ra tiếng. Sự bình thường và nước mắt trào ra một cách tự nhiên mà vẫn không sanh khởi thêm gì cũng thế. Và chỉ có thế thôi, có sanh khởi gì thêm đâu mà gắng bàn nói? Trong trường hợp này, nếu muốn bàn nói tìm hiểu nhiều hơn nữa thì đã rơi vào tâm sanh diệt hạn lượng nhỏ nhoi rồi, không thể hiểu đến chỗ này được. Cố gắng để kềm lại cũng là đang cố làm một điều gì đó. Mà cố làm là rơi vào sanh diệt, không hợp với đại đạo chân thật vô sanh cho nên chưa thoát được tự ngã. Do đó Tổ nói, đây chính là còn cái NGÃ rất to.

 

Hỏi: Sự buồn khóc của người, trong đó có tình động, đâu đồng tiếng chuông vang?

 

Đáp: Nói đồng và chẳng đồng, chỉ là ông đa sự, vọng tưởng nghĩ lường mà khởi lời hỏi ấy. Nếu không tâm phân biệt thì thể đạo tự nhiên.

 

Khóc có tình động là do người ấy có sanh tâm; thấy có nỗi buồn đồng và không đồng với tiếng chuông và vật vô tri vô giác. Ban đầu là chủ động sanh tâm, phân biệt, so sánh; khiến cho sau đó tâm tự sanh khởi rối bời, mất phương hướng, không còn tự chủ nữa. Tổ bảo mình cứ bình thường, vô tâm đi! Nó có hay không có cũng đừng sanh khởi nữa thì sẽ cảm nhận được thể đạo vốn tự như như, mọi thứ vốn rất ổn và bình thường ngay nơi chúng ta. Nếu cứ suy tư lý luận đồng và chẳng đồng mãi thì chỉ là đa sự, càng rơi vào trong sanh diệt, càng lún sâu trong khổ đau thì làm sao cảm nhận được thể đạo chân thật giản dị, gần gũi, bình thường mà phi thường này!

 

Hỏi: Tôi nghe thánh nhân thì bịnh chẳng làm tổn thương, khổ chẳng làm cong khuất, sắc chẳng thọ, tâm chẳng động, đây nghĩa là sao?

 

Đây là chỗ rốt ráo đặc biệt. Một con rùa không chịu lên bờ mà cứ cố tình lặn hụp trong nước mãi, rồi bảo làm sao tôi biết được sự khô ráo thì thử hỏi, đến bao giờ mới cảm nhận được sự khô ráo trên bờ kia? Nếu chúng ta không chịu tin đến chỗ không sanh khởi, không dám mạnh dạn tin chắc rằng, chỉ có cái vô sanh mới tiêu dung được tất cả mọi thứ sanh diệt, thì làm sao mạnh mẽ để dụng thẳng đến chỗ này? Đã không chịu dụng tâm đến chỗ không sanh khởi kia mà ngược lại còn dùng tâm suy lường sanh diệt để tu tập thì làm sao hiểu đến được chỗ vô sanh của thánh nhơn mà còn đem tâm đi gạn hỏi mãi. Dụng tâm như thế thì biết bao giờ mới thực sự hết khổ, an vui? Điều trên trước và ít nhất một người tu cần phải có được đó là “phải được an” trong cuộc sống. Không an thì tất cả coi như đã mất, không còn có gì có giá trị nữa cả. Có khi tu hành đã lâu mà cứ bất an và than khổ hoài là lỗi tại chỗ này. Đây là điểm chúng ta thường hay bị kẹt, cho nên câu hỏi trên là đại diện cho tất cả những người đang còn vất vã như chúng ta.

 

Tổ đáp: Nếu rõ tất cả pháp là vô ngã, thì tiếng và chẳng tiếng, động và chẳng động đều hợp đạo lý, không ngăn ngại.

 

Chỉ cần thấu rõ các pháp rỗng tuếch, không thật. Khi đối các pháp, chúng ta lặng sáng nhìn thấu suốt qua các tướng, không dừng trụ trên một tướng nào cả, thì ngay trên tất cả mọi thứ tiếng và chẳng tiếng, động cùng chẳng động đó, đều là một thể bàng bạc sáng ngời không một vết mê. Trong không thấy có pháp để trụ giữ, ngoài suốt thông qua các tướng, tất cả chỉ là một tâm thể giác biết thênh thang trùm khắp không động. Tổ nói, tất cả đều hợp đạo lý không ngăn ngại. Còn nếu sanh tâm động niệm suy lường tìm hiểu thì có niệm và bị ngăn ngại, đạo vắng bóng liền. Cho nên trong Kinh Kim Cang, đức Phật nói: “Nhược kiến chư tướng phi tướng, tức kiến Như Lai”, là vậy.

 

Trở lại trong trường hợp đau lòng của quý Phật tử vừa hỏi đây thì quý vị cứ KHÓC, nhưng đừng thèm sanh tâm khổ vui, còn mất, qua hay không vượt qua. Cứ ngồi bất động như là một cái thây chết và hãy cứ tỉnh rụi, bình thường. Không kềm (đè nén), đừng muốn nó qua nhanh, nên thả lỏng thân tâm, buông thư mọi tư tưởng, không theo tất cả là được. ĐỪNG MUỐN BỎ. ĐỪNG LẤY VÀO. ĐỪNG PHÂN TÍCH. Không thèm khởi thêm mà có khóc thì cứ để nước mắt tự tuôn chảy một cách bình thường, tự nhiên, không cố cưỡng ép gì cả. Một lát sau, tỉnh dậy, mình vẫn là mình của muôn thuở, đất trời vẫn thế, mọi chuyện đang có cũng bình thường, sẽ cảm thấy không có gì đáng khóc nữa; và mình tự cười với mình. Thế thôi. Nếu đến mức ứa nước mắt thì hãy để cho nó tự nhiên khóc kiểu đó đi rồi sẽ thấy.

 

Nhớ là đừng phân tích đúng sai, cũng không mong được an lạc, đừng thấy có khổ đau... chẳng can thiệp gì đến nó cả. Cũng không thèm chia sẻ với ai. Bởi chia sẻ là mong người khác cảm thông, như thế sẽ khiến cho chúng ta bị yếu đuối và đã dùng tâm vọng động sanh diệt nữa rồi, sẽ không chiến thắng được nỗi lòng đang có. Nói chung là KHÔNG LUÔN tất cả mọi thứ, không còn có chỗ cho tâm sanh khởi, chỉ là thẳng đến chỗ vô sanh kia thì mới trị dứt hẳn được bệnh trầm kha của sanh diệt này. Đây là một sự thật mà quý Thầy đã may mắn có được vài lần kinh qua, và thấy: “Sở dĩ hôm nay mình cảm thấy may mắn là bởi trước kia mình không được may mắn như mọi người”. Đã từng bất hạnh cho nên hôm nay mới có nhiều điều may mắn vô giá không thể có được trong những thuận duyên.

 

2. TRANH THỦ HỌC LẤY KINH NGHIỆM

 

Đặc biệt ở điểm kinh nghiệm thứ hai là không thèm (không có tâm) muốn nghịch cảnh qua nhanh. Vì khi muốn nó qua là đã biến nó trở thành đối thủ nghịch lại với mình và cảm thấy nặng nề. Không những thế, đặc biệt hơn là chúng ta còn phải bình tĩnh, tranh thủ trải nghiệm để học lấy kinh nghiệm. Vì sẽ không có cơ hội lần thứ hai cho mình học nữa. Nếu như giả lập để học lấy kinh nghiệm thì đó chỉ là một trận chiến giả định. Do đó, kinh nghiệm ấy không phản ánh đúng như một sự kiện thật mà chính mình đang đối diện, cho nên sẽ chỉ là kinh nghiệm và nội lực hư ảo mà thôi. Còn đây là cảnh thật, người thật, việc thật, sự kiện (trận chiến) đang xảy ra thật, tâm thái mình đang diễn tiến một cách trung thực nhất, vì thế kinh nghiệm được phản ánh chính xác, là kinh nghiệm thực, không phải do giả định mà có. Khi đang trong tình cảnh buồn đau như là một thách thức đối trước thảm bại, chúng ta lại tranh thủ trải nghiệm để học lấy kinh nghiệm. Như thế là đã biến thách thức thành cơ hội, những thương đau bỗng trở nên nhẹ nhỏm, lý thú. Giống như ăn ớt tuy cay mà rất ngon, thám hiểm tuy hiểm nguy, nhưng lại thú vị. Và như thế, chúng ta đã khéo biến nghịch duyên thành sự lý thú và hấp dẫn của riêng mình.

 

Cứ làm kinh động mãi thì chúng ta chỉ thấy con rùa như một đống nhựa cứng ngắt. Như thế sẽ bị nhầm, không có cơ hội thấy hết sự thật. Nhưng nếu để yên, bình lặng thì mới thấy hết chân, đuôi, đầu, mắt, miệng và cả đến dáng dấp bò đi của một chú rùa là như thế nào nữa. Trong cuộc sống, một đôi khi cũng bị người khác hiểu lầm, chưa thông cảm, vu oan... cũng là chuyện thường. Chúng ta không thèm minh oan hay phân bua gì cả. Cứ để yên, bình thường coi như không có chuyện gì xảy ra để xem coi sự đời diễn tiến đến đâu. Thử đem chuyện này đặt vào một ngàn năm sau coi ai mất, ai còn, điều gì sai, cái gì là đúng? Mình đã thật sự khế hợp với chân lý thì muôn đời vẫn là đúng. Dù cho có chết đi ở nơi này rồi sanh lại ở chốn kia và cho đến mãi ngàn sau, chân lý vẫn là chân lý. Đâu cần ai biết! Ở nơi này, nơi khác, hay có đến bất cứ nơi đâu, và dù có chết đi nữa thì sự thật muôn đời vẫn luôn là một sự thật, không mất. Đặc biệt là, khi không thèm sanh tâm khởi ý muốn nghịch duyên qua nhanh hay không qua, khi chúng ta càng bất động, thanh tịnh chừng nào thì định lực, trí tuệ, phước đức của mình càng lớn, mọi việc được sắp lại trật tự một cách nhanh chóng mà hữu hiệu đến không ngờ. Thử dụng công rồi sẽ thấy.

 

Định lực, phước đức và trí tuệ càng lớn thì tập nghiệp, báo chướng tự tiêu dung. Đó là cách triệt tiêu tận gốc rễ mọi thứ ân oán. Ngược lại, nếu cứ can thiệp triệt tiêu trực tiếp trên tướng của nó thì chỉ là trên nghiệp chướng lại tạo thêm nghiệp, chỉ càng chồng chất lớn thêm báo chướng mà thôi. Không sanh tâm khởi ý, không làm gì hết thì ngay đó là đã thực làm, là thực hành đến chỗ vô sanh, làm đúng chỗ rốt ráo mà Phật Tổ muốn chỉ, là tu hành đúng đắn, chân thật. Cho nên nói “vô tác thị hành” là vậy. Ngược lại, vừa khởi tâm muốn làm gì đó thì đã có công, có dụng, có hạnh, có tu… Tất cả đã có tạo tác, rơi vào sanh diệt, không tiêu dung được nghịch duyên phiền não một cách triệt để. Người đã sống được trọn vẹn bằng chỗ vô sanh thì tự biết, không còn bàn nói. Chúng ta là những người còn là phàm phu, đang trên đường còn tu tập thì nên dụng công như vậy là tốt.

 

Khi thấy rõ TẬP KHÍ PHIỀN NÃO là một đống sanh diệt, không thật thì nó trở thành tầm thường. Nó cũng chỉ là một thứ đang đối diện như bao chiếc lá chúng ta vẫn đang đối diện hằng ngày đó thôi, không có gì ghê gớm phải đặt ra cả. Mất mình, nhìn theo bên ngoài thì chiếc lá và phiền não có khác. Nhớ lại mình thì tất cả cùng chung một tính chất là thứ đang đối diện, ngoài mình, cùng thuộc vô thường biến hoại, có gì bền chắc? Chỉ là đừng gặm nhấm, cố giữ thì chỉ với thời gian nó cũng đã tan rã, rục thối, không còn. Huống nữa là dụng tâm đến chỗ “không còn sanh khởi” thì mọi thứ nương vào đâu để tồn tại? Chỉ trừ khi nào muốn níu kéo, ấp ủ thì còn chủng tử nghiệp thức, mới còn giữ lại trong mình. Còn không thèm lấy, không thèm bỏ, không tất cả những đối đãi hai bên thì không còn có chỗ cho nó vin vào để tiếp tục. Như thế là nhân duyên với nhau không còn và nó sẽ vĩnh viễn từ giã ra đi. Rất đơn giản. Giống như đối trước một vật thể rắn đang bay đến, nếu muốn hứng đỡ để đôi co thì bị tốn sức, vất vả, hiểm nguy. Nếu không thèm để ý, chỉ phớt qua; vẫn tỉnh sáng thấy hết mọi chuyện mà coi như không thấy gì cả, rồi nghiêng người lách nhẹ, vật thể trôi qua một cách nhẹ nhàng mà không đụng đến mảy lông. Niềm đau nỗi buồn cũng tương tự. Chỉ thực hành đúng pháp, điều còn lại là cần có thời gian. Có thể ban đầu còn thấy đau thương, nhưng thời gian sau sẽ thấy “Không còn gì đáng nói”.

 

Gá thân mộng
Dạo cảnh mộng
Mộng tan rồi
Cười vỡ mộng

Ghi lời mộng
Nhắn khách mộng
Biết được mộng
Tỉnh cơn mộng

HT Thích Thanh Từ
a

Bài đọc nhiều nhất

Thống kê truy cập

1109858
Hôm nay
Hôm qua
Tuần này
Tuần trước
Tháng này
Tháng trước
Tất cả
3081
2716
14045
1072396
112956
92670
1109858