CHƯƠNG BỐN
NHỮNG BẰNG CHỨNG VỀ LUÂN-HỒI
I - MỘT CHUYỆN LUÂN-HỒI Ở ẤN ĐỘ.
Cách đây vài chục năm, tờ báo Mai có chụp hình và đăng một câu chuyện như sau:
Tại Ấn Độ, ở thành Delhi (Đen- ly) có một cô gái 8 tuổi tên Phanti Devi (Phăn-ti Đờ-vi). Cô nhiều lần khóc lóc với cha mẹ đòi về thành Mita thăm chồng là một giáo viên. Thành Delhi cách thành Mita trên 200km. Cha mẹ cô gái lấy làm lạ, mời một phóng viên nhà báo đến để nhờ anh điều tra giùm.
Phóng viên nhà báo đến hỏi, thì được cô trả lời rằng: Cô là vợ một giáo viên, ăn ở với nhau sanh được một đứa con. Khi dứa con lên 11 tuổi thì cô lâm bệnh từ trần. Người phóng viên hỏi xem cô ta có gì làm bằng chứng không? Cô trả lời là cô có để lại vàng bạc và đồ đạc chôn ở chỗ nọ, chỗ kia…và cô còn nhớ rõ có một cái quạt do người chị em bạn tặng, trên quạt có ghi lại mấy dòng chữ, rồi cô độc mấy dòng chữ ấy cho phóng viên chép vào sổ tay.
Phóng viên đến thành Mita, tìm hỏi tên họ ông giáo viên, thì thật quả không sai. Phóng viên hỏi ông giáo:
- Ông có người vợ đã chết độˆ8,9 năm nay phải không?
- Ông giáo trả lời:
_ Vâng, có! Vợ tôi chết nay đã chín năm. Chẳng biết ông hỏi có việc chi?
Phóng viên trình bày những lời cô bé đã nói.
Ông giáo nghe đều cho là đúng cả.
Phóng viên lại lấy quyển sổ tay đưa mấy dòng chữ cho ông giáo đọc và hỏi:
_ Khi vợ ông mất, có để lại một cây quạt, trên ấy có ghi mấy dòng chữ như thế này có phải không?
Ông giáo trả lời:
_ Trúng y như vậy cả.
Qua ngày sau, phóng viên lại mời cha mẹ và cô Phanti Devi cùng đi xe tới thành Mita. Từ khi sanh ra đến tám tuổi, cô chưa từng đi xa, thế mà đường đi trong thành Mita cô đều thuộc cả, cô chỉ đường này là đường gì, đi về đâu, đường kia tên gì, đi về đâu, và còn nói trúng cả tên những nhà quen ở hai bên đường nữa. Gần đến nhà ông Giáo, cô bảo xe đi chậm lại và dừng ngay trước nhà ông Giáo.
Vào đến nhà, gặp một ông già độ 80 tuổi, đầu tóc bạc phơ, cô vừa mừng vừa khóc oà mà nói rằng:
_ Đây là cha chồng của tôi.
Cô chỉ ông Giáo mà nói:
_ Kia là chồng tôi.
Rồi cô chạy lại ôm đứa con 11 tuổi khóc và nói:
_ Đây là con tôi!
Mọi người trong thấy, ai cũng điều cảm động.
Việc này làm sôi nổi cả dư luận Ấn độ và các nhà báo trên thế giới, điều bàn tán xôn xao...Các nhà bác học ra sức tìm tòi , nghiên cứu, nhưng không một ai giải thích được. Chúng ta đã rõ biết lý luân-hồi, thì việc này cũng chẳng lấy làm lạ.
II- MỘT CHUYỆN LUÂN-HỒI TẠI MỸ
Vào khoảng năm 1956, ở Mỹ có một thiếu phụ 33 tuổi, tên “Xi-mông” (Ruth Simmons) vì quá tin tưởng vào kiếp Luân-hồi, nên đã nhờ nhà thôi miên “Mo-rây Bét-tanh” (Morey Bernstein) giúp cô được thấy lại kiếp trước của cô. Nhà thôi miên kia, sau khi đưa cô vào giấc ngủ, liền bảo:
- Thử nhớ lại hồi 10 tuổi cô đã làm gì!
Cô Xi-mông, trong cơn mê nói lại thuở thiếu niên của cô, những lúc cô đi học và tả tỉ mỉ những lúc cô nô đùa với bạn. Nhà thôi miên lại bảo:
- Bây giờ thử nhớ lại lúc cô mới 1 tuổi, cô thấy gì!
Cô trả lời bằng những tiếng bập bẹ, y như đứa trẻ chưa biết nói. Nhà thôi miên lại dồn hết tinh thần vào cặp mắt, nhìn thẳng vào cô Xi-mông và nói:
- Thử nhớ lại tiền kiếp của cô!
Sau một lúc im lặng, cô Xi-mông mới nói, nhưng giọng nói của cô đã đổi khác, giọng Ái-nhỉ-lan (ở Anh quốc), chứ không phải giọng người Mỹ.
Cô kể rằng: "kiếp trước cô đầu thai vào gia đình họ Mướt-phi" (murphy) ở làng “Cót” (cork) bên Ái-nhỉ-lan vào năm 1789. cô tả nơi chôn nhau cắt rốn của cô và cho biết nhiều chi tiết khác về làng này. Cô nói thêm rằng chồng cô tên “Mắc-các-ty” (Brian Mac Carthy), giáo sư trường luật đã từng cộng sự với tờ báo"Ben-Phát-Niu" (Belfast New). Rồi sau cùng cô nói đến ngày cô chết, mả cô hiện ở đâu và cô phải làm ma hơn một thế kỷ. Sau đó, cô đầu thai vào gia đình họ “Xi-mông” (Simmons) ở Mỹ, hồi năm 1923.
Nhà thôi miên đã thâu lại tất cả lời nói của cô Xi-mông về tiền kiếp của cô và sau đó viết một quyển sách nhan đề là: "Đi tìm gốc tích cô Mướt- phi (Murphy)". Sách này in ra 170 ngàn cuốn và chỉ trong 3 tháng đã bán sạch. Sau đó nhà thôi miên lại lấy lời thuật chuyện của cô “Xi-mông” thâu vào 30 ngàn (30.000) dĩa nhựa và chỉ trong hai ngày đã bán sạch.
Chuyện này báo chí quốc tế đều có đăng tin, riêng ở Pháp có tờ: “Ba-Lê-Mách” (Paris Math) thuật lại rất rõ, ở Việt Nam cũng có nhiều tờ nói đến như tờ Tin Điển, tờ Liên-Hoa v…v…
III- MỘT CHUYỆN LUÂN-HỒI Ở PHÁP
Một bác sĩ pháp, ông "Mô-rít Đờ-la-ri" (Maurice Dalarry) vốn là người hoài nghi về thuyết Luân-hồi, nhưng sau một thời gian khảo cứu rất công phu, đã viết trong tạp chí “Thần Linh Học” xuất bản hồi năm 1948 về sự Luân-hồi như sau:
Ban đầu ông không tin có kiếp Luân-hồi, nhưng sau một thời gian thí nghiệm bằng cầu cơ, ông phải công nhận kiếp Luân hồi có thật. Đây ông Mô-rít Đơ-la-ri kể:
- Một hôm tôi và vợ tôi đang cầu cơ thì bỗng chiếc xe lay động lần lượt chỉ vào 5 chữ F.E.L.I.X rồi ngừng lại, tức là kẻ khuất mặt tên Phê-lít (Félix) đã nhập vào cơ. Chúng tôi liền hỏi:
- Ông Phê-Lít muốn gì?
Trả lời:
- Tôi cho ông bà hay tôi sẽ trở lại trong họ hàng ông bà trong một ngày gần đây.
Hỏi:
- Tại sao vậy? Tại sao trở lại trong họ hàng chúng tôi ?
Trả lời:
- Phải! Trong gia đình ông bà.
Hỏi:
- Họ hàng chúng tôi đông đảo qúa đi ở rải rác mỗi người một nơi. Vậy ông có thể cho biết chắc chắn ông sẽ xuất hiện ở xứ nào không?
Trả lời:
- Tại xứ P. (Bác sĩ Mô-rít vì một lẽ riêng, không muốn nói rõ xứ này ), và trong gia đình ông Y. ( ông Y đây là bà con với bà vợ Bác sỹ Mô-rít, nhưng Bác sĩ cũng giấu tên, vì sợ động chạm đến đời tư không hay của gia đình khác).
Hỏi:
- Chắc chắn ông sẽ vào gia đình ông Y…. bà con chúng tôi?
Trả lời:
- Phải! Hiện gia đình ông Y có hai đứa con gái.
Hỏi:
- Ông có biết tên chúng không?
Trả lời:
- Có ! (rồi kẻ vô hình nói đúng tên hai đứa con gái của người bà con bà “Mô-rít”, nói đúng cả ngày sinh tháng đẻ của chúng nữa).
Hỏi:
- Ông có thể cho biết chắc chắn ngày nào ông sẽ ra chào đời trong gia đình ông Y không?
Trả lời:
- Ngày 24 tháng 9 năm 1924 vào buổi mai.
Hỏi:
- Nhưng làm thế nào để biết chính ông đã đầu thai làm con trong gia đình ông Y?
Trả lời:
- Cô J. (tức tên vợ của Bác sĩ “Mô-rit” mà ông cũng giấu tên luôn) sẽ được biết khi nhìn thấy tai bên mặt của tôi, vì chính tôi là “Phê-lit” (Félix), đứa tớ trung thành của ông bà thân sinh của cô J đây.
Cuộc đối thoại giữa Bác sĩ Mô-rit và kẻ khuất mặt tên Félix được Bác sĩ biên chép kỹ càng từng câu một để sau này xem có đúng không.
Bấy giờ vào khoảng tháng 5 d.l vợ chồng Bác sĩ “Mô-rit” không mảy may hay biết người chị họ (của bà Bác sĩ) có thai.
Cho dến ngày 24 tháng 9 năm 1947 nghĩa là cách đó bốn tháng, vợ chồng Bác sĩ tiếp được điện tín từ xứ P. đánh về cho hay người chị họ vừa hạ sanh một trai hồi 8 giờ sáng ngày nói trên.
Thế là rất đúng với lời của kẻ khuất mặt “Phê-lít”. Nhưng Bác sĩ không muốn cho vợ chồng người chị họ biết rằng chính ông bà đã biết trước việc này.
Ba tháng sau, vợ chồng Bác sĩ “Mô-rít” được chị họ mời qua xứ P, dự một buổi lễ trong gia đình, luôn dịp để vợ chồng người chị họ đem đứa con trai mới sinh ba tháng ra giới thiệu với họ hàng.
Vợ chồng Bác sĩ Mô-rit vừa đến nơi thì vợ chồng người chị họ liền đưa ông bà vào phòng để xem mặt đứa bé. Khi bà Bác sĩ đến gần chiếc nôi thì thằng bé nhìn bà mỉm cười, mà nước mắt cứ tuôn ra, rồi nó đưa tay về phía bà Bác sĩ đòi ẵm. Vợ chồng người chị họ rất đỗi ngạc nhiên, vì thường khi không bao giờ con mình chịu người lạ, thế mà lần này, mới gặp bà Bác sĩ nó lại đòi ẵm
Vợ chồng Bác sĩ Mô-rít thì không lạ gì với thằng bé, nhưng không dám nói sự thật ra cho vợ chồng người chị họ biết về kiếp Luân-hồi của tên lão bộc Phê-lit, sợ rằng gia đình người chị họ cho mình quá tin dị đoan chăng.
Khi nhìn thấy miếng vải băng ngang đầu đứa bé, vợ chồng Bác sĩ đã đoán biết một phần nào đúng như lời lão bộc Phê-lít đã nói trong lúc cầu cơ, nên bác sĩ giả vờ hỏi:
- Tại sao lại băng đầu nó? Chắc lại sanh ghẻ chứ gì ?
Người chị họ trả lời:
- Không vì lúc sinh nó ra, nó có tật nơi tai, vành tai chỉ dính vào da đầu có chút xíu, nên tôi có nhờ Bác sĩ chữa. Bác sĩ bảo sức thuốc băng lại trong một thời gian thì liền lại.
IV- MỘT CHUYỆN LUÂN-HỒI THỨ HAI Ở PHÁP
Một đứa bé gái mới ba tháng tên “Tê-re” (Thérèse) bỗng nhiên một hôm thốt lên tiếng “A-ru-pa” (Aroupa) cha mẹ đứa bé không để ý, tưởng rằng con mình bập bẹ bậy bạ vậy thôi , nhưng về sau có người cho biết "A-ru-pa" (Aroupa) có nghĩa là “trời” theo tiếng ẤN-ĐỘ.
Đến lúc lên hai, em bé Tê-re trong lúc chơi mua bán, có thốt ra tiếng “rupi” (Roupie). Tiếng này trong gia đình không hề nghe ai nói tới. Thế mà Tê-re biết được, mới lạ.
Mười tháng sau nữa, trong khi mẹ Tê-re nói chuyện với một chị em bạn, cô Tê-re thường xen vào câu chuyện với những tiếng “Bapou” . Bà bạn vốn là tín đồ đạo Phật , rất lấy làm lạ, hỏi mẹ Tê-re tại sao nó biết tên riêng của ông “Căm- địa” (Gandhi) ; vì tên “Bapou” chỉ có gia quyến thánh Căm –địa cùng tín đồ ông gọi ông mà thôi, người ngoài ít ai biết được .
Mẹ cô gái Tê-re nghe nói càng thêm kinh ngạc. Bà bắt đầu tin có Luân-hồi và từ đó, bà mua sách về thần học khảo cứu, và bà có mua một bức hình của ông thánh “Dô-ga-măng-đa” (Yogàmanda).
Khi nhìn thấy bức ảnh cô bé la lớn:
- Con biết ông này ! Lúc thánh Căm-địa còn sống ông thường đến nói chuyện với thánh Căm-địa, có mặt con trong những lúc ấy.
Sau khi dò hỏi những tín đồ của thánh Căm-địa, mẹ cô bé Tê-re thấy lời nói của con mình là đúng sự thực. Lên năm tuổi cô bé bắt đầu ăn chay và không thích ăn bánh mì mà chỉ ăn cơm.Thỉnh thoảng cô lại kể một vài đoạn đời của thánh Căm-địa.
V- MỘT CHUYỆN LUÂN-HỒI Ở ĐẢO “MÔ –RÍT”(MAURICE)
Chuyện sau đây do giáo sư “Bít–xao-đoa-da” (Bissoundya) ở hải cảng “Lu-I” (Port-Louis) tại đảo Mô-rít kể lại trong "tạp chí đầu thai Luân-hồi".
Tại làng “Cát-ten” (Castel) có một gia đình nọ sinh một đứa bé trai lên ba tuổi, đặt tên là “Sa-ta-na-đờ -va” (Chatanadèva). Bỗng một hôm nó bảo nó không phải ở làng ấy . Cha mẹ và người lối xóm đều cười , vì cho nó nói bậy. Nó lại nhất định nói nó không phải tên “Sa-ta-na-đờ-va”(Chatanadèva) mà là tên “Ri-ram dăng-cô” (Sreeram-Jankoo). Lúc đó, người ta lấy làm kinh ngạc vì tên Ri-ram dăng-cô không phải lạ. Anh này bị chết đuối cách đây ba năm, trong lúc đi thuyền đến cù lao "Pờ-la-tờ" (Plate).
Người ta hỏi nó tại sao nó biết nó tên Ri-răm dăng cô thì nó thuật lại rằng:
- Tôi đang chèo thuyền đi ra cù lao “Pờ-la-tờ” thì bị sóng đánh chìm và chết đuối giữa biển.
Lời thuật chuyện của thằng bé làm mọi người kinh dị, vì thật đúng như thế. Rồi nó lại kể thêm những chi tiết về cảnh sống của Dăng-cô, nhất nhất đều đúng sự thật cả.
Câu chuyện này được đồn đãi ra. Mẹ của anh chài lưới Dăng-cô ở làng bên nghe được, liền tìm tới nhà thằng bé. Thằng bé đang chơi, thấy bà lão bước vào, nó mừng rỡ reo lên và nhảy xổ đến ôm bà, la lớn:
- Mẹ ! Mẹ !
VI- MỘT CÂU CHUYỆN THAY ĐỔI HỒN XÁC Ở VIỆT NAM
Ở Cà Mau , cách đây vào khoảng 30 năm, có một câu chuyện lạ lùng đã làm dư luận bàn tán xôn xao.
Ông Cả Hiêu, ở làng Tân Việt, xứ Đầm Dơi (Cà mau) có một cô con gái mới 19 tuổi , lâm bệnh rồi chết. Cách đó độ 100 km, ông Hương Thừa ở làng Vĩnh Mĩ (Bạc liêu) cũng có cô con gái đau rồi chết, nhưng lại sống lại. Khi sống lại , cô này nhìn không biết cha mẹ và nói những gì đâu đâu không ai hiểu gì cả, cha mẹ cô tưởng rằng cô đau nên lãng trí nói bậy. Nhưng khi cô lành mạnh hẳn, cô lại khóc lóc, một hai đòi về nhà ông Cả Hiêu và chỉ luôn nơi ở, làng, tổng rỏ ràng nữa.
Cha mẹ cô cho người đến tìm ông Cả Hiêu và thuật câu chuyện cho vợ chồng ông này nghe.Vợ chồng ông Cả và con cái trong nhà, nghe xong đều đi đến xem thật hư như thế nào.
Khi mọi người đến nơi, cô gái chạy ngay đến ôm ông Cả, bà Cả khóc kể…. Rồi cô thuật những việc đã xảy ra trong nhà ông Cả không sai một mảy. Vợ chồng ông Cả, tuy thấy xác cô này không phải con mình, nhưng về tinh thần lại chính là con mình, nên đều thương yêu và công nhận là con. Về sau, cô hưởng được hai phần gia tài của cả hai bên cha mẹ.
Những câu chuyện tương tợ như những bằng chứng đã kể ở đoạn trước nhiều không kể xiết.
Ngoài ra còn bao nhiêu vị thần đồng, những cậu bé có thiên tài xuất chúng ở rải rác trong thế giới và trong lịch sử mà chúng ta thường nghe nói đến như: Ông Pascal, một Triết gia và một nhà Toán-học Pháp, mới 7 tuổi mà đã thông phương pháp kỷ-hà-học, ông Mạc Đỉnh Chi 12 tuổi dậu Trạng nguyên, nhạc sĩ Mozart mới 7 tuổi đã biết đặt những bản nhạc hoà âm, ông "Kít–chang–Hen-nét–kan" (Christ Heinecken) vài giờ sau khi ra đời đã nói chuyện được, khi lên 1 tuổi đả học thuộc lòng vài đoạn kinh Thánh-giáo trong cuốn thánh kinh, lên hai tuổi đã trả lời tất cả những câu hỏi về địa dư, lên ba tuổi đã nói được tiếng Pháp, tiếng La-tin; lên bốn tuổi đã có thể theo học các lớp triết học. Ông "Xi-tuy-a Minh" (Stuart Mill) lên ba đã học chữ Hy-lạp; Ông "Vinh-lamram-xi-đi" (William James Sidis) lên hai đã học và viết tiếng mẹ đẻ (Hoa-Kỳ), lên tám đã nói được tiếng Pháp, tiếng Nga, tiếng Anh, tiếng Đức và một ít tiếng La-Tin, Hy-Lạp. Cậu bé "Xin-va-nô-ri-gôn" (Silvanorigoll) ở Ý, mới ba tuổi đã làm Nhạc sư và điều khiển một giàn nhạc, chưa biết đọc và viết, nhưng lại chép bản nhạc rất tài tình, đánh dương cầm và phong cầm không thua gì những Nhạc sĩ hữu danh.
Những bằng chứng rỏ ràng trên không ai có thể chối cãi được. Nhưng cũng không ai có thể giải đáp được lý do vì đâu có hiện tượng lạ lùng như thế, nếu không tin có nhân-quả luân-hồi. Các nhà khoa học cố gắng giải thích là tại những hạch tuyến trong người các thiên tài ấy phát triển một cách nhanh chóng khác thường. Nhưng tại sao hạch tuyến chỉ phát triển trong một số người ấy mà thôi? Có người giải thích là do di truyền. Nhưng lời giải thích nào cũng không làm cho người ta thoả mãn, vì ông cha những thần đồng ấy cũng không có gì xuất sắc hơn những người khác. Vã lại, con cháu các vị thần đồng ấy về sau cũng không thừa hưởng được gì của ông cha cả.
Chỉ còn một lối giải thích duy nhất có thể đứng vững được là: nghiệp nhân của nhiều đời kiếp trước đã phát triển thành quả trong đời hiện tại.