NHỮNG NIỀM VUI CHÂN THẬT
Xuân Mậu Thìn - 1988
Mỗi năm đến ngày Tết Nguyên Đán, tất cả Phật tử gần xa đều tựu hội về đây trước là lễ Phật nhân ngày vía đức Di-lặc, sau là mừng tuổi chúc thọ chư Tăng.
Theo tinh thần đạo Phật, không phải mỗi khi Tết đến, chúng ta chúc mừng nhau sống lâu trăm tuổi. Chúc như vậy không có kết quả gì, chỉ là lời rỗng suông thôi. Vì vậy chúng tôi sẽ nhắc nhở quí Phật tử đường lối tu hành, đồng thời cũng là chúc mừng nhau trên đường tu mỗi ngày một thăng tiến, không để dừng lại một chỗ mãi. Vì lẽ đó hôm nay chúng tôi sẽ nói về cái vui của đời và cái vui của đạo trong mùa Xuân.
Đầu xuân ai ai cũng thấy vui tươi, ấm áp, hi vọng, nên tất cả cùng chúc mừng, cùng vui vẻ với nhau. Vì vậy chúc xuân hay vui xuân đã có từ xưa đến giờ. Hôm nay chúng ta phải tìm cho tường tận thế nào là vui xuân, cái vui thật sự của cuộc đời và cái vui thật sự trong đạo. Hai cái vui đó gần nhau không? Nó có lợi ích thiết thực như thế nào?
Trước hết chúng tôi nói cái vui của đời. Ngoài đời lúc nào người ta vui mừng? Đó là lúc được cái gì hơn thiên hạ, được cái gì thắng hơn người. Thí dụ quí vị đi vào các cuộc chơi như đá banh hay đánh cờ v.v… khi mình cười là lúc thua hay lúc thắng? Lúc thắng thì vỗ tay hoan nghênh cùng vui, cùng cười. Người thắng thì cười, còn người thua cuộc tự nhiên buồn khổ. Như vậy cái vui của cuộc đời là vui khi mình thắng, mà người thua phải buồn. Cái vui ấy là vui trọn vẹn của những người trong cuộc, hay có người vui có người buồn? Vui của đời là vui trong thắng cuộc, mình thắng thì người khác phải thua. Kẻ thắng thì vui, người thua phải khổ. Rõ ràng chúng ta vui trong cái đau khổ của người khác, chớ không phải cái vui trọn vẹn. Người thế gian nghĩ làm sao cho mình được vui, nghĩa là chơi thế nào cho hơn người, một lần thua là một lần buồn. Những người khác đến chơi với chúng ta, cũng muốn hơn để được vui. Đó là vui trong giành giật hơn thua, ai được hơn thì vui, ai bị thua thì khổ. Như vậy mới thấy rõ cái vui của thế tục là vui trong đau khổ.
Ngược lại, cái vui của người tu khác hơn cái vui của người thế tục. Người thế tục vui khi thắng được người, người tu vui khi thắng được mình. Thí dụ người Phật tử khi bị ai nói những lời kích bác làm tự ái nổi lên, vừa khi cơn sân bừng bừng nổi dậy, lúc đó liền tỉnh biết sân là xấu, không xứng đáng với người Phật tử, vừa biết như vậy liền bỏ nó đi. Do buông bỏ, qua được cơn nóng giận, mình cảm thấy bình tĩnh trở lại, lúc đó có vui không? Vui vì mình đã thắng được mình, đã chiến thắng chớ không phải đầu hàng. Một lần thắng được mình là một lần vui. Cái vui đó có làm ai khổ không? Rõ ràng mình vui mà người kích bác, họ thấy mình không trả lời, không phản đối, họ cũng không buồn. Vui thắng mình mới là vui trọn vẹn, vui thắng người là vui của đau khổ, chớ không phải cái vui thật. Người đời cứ đuổi theo cái vui đó để người khác phải khổ. Người biết tu chỉ vui khi thắng mình. Một lòng tham dấy lên thắng được nó là vui, một cơn giận nổi lên thắng được nó là vui, những cám dỗ thắng được nó là vui. Vui đó có lợi cho nội tâm mình, mà không hại ai. Như vậy vui của đạo mới là vui thật sự, vui mà không gây khổ cho ai. Đó là bước thứ nhất.
Đến bước thứ hai, người đời vui khi nào họ được cái mình ưa thích. Thí dụ đi đường thấy ai làm rớt một món đồ quí giá, họ lượm được, dĩ nhiên lúc đó rất vui. Người được may mắn vui, nhưng người mất vật quí có vui không? Cái được mà mình vui đó đổi lại bao nhiêu nước mắt của kẻ bị mất. Hơn nữa, trong cuộc sống hằng ngày, gặp thời gặp thế, chúng ta mua đâu được đó, bán đâu đắt đó, cái gì cũng hơn người, lúc ấy mình vui quá, nhưng người khác thì sao? Thí dụ ngày hôm qua mình mua món đồ giá một ngàn đồng, hôm nay bỗng dưng lên giá một ngàn rưỡi, mình vui vì được lời, nhưng người bán cho mình hôm qua, có buồn không? Tất nhiên là buồn, vì họ lỗ, họ thiệt thòi. Như vậy cái vui của mình là cái buồn của kẻ khác.
Phật tử nếu biết vui thì phải vui làm sao? Không phải vui trong cái được, mà vui trong cái lìa. Nghe thế thì buồn quá, lìa mà vui cái gì? Nhưng không ngờ lìa mới là vui. Người đời được là vui, trái lại người tu lìa là vui. Tại sao? Thí dụ khi trước bị bệnh ghiền thuốc hành mình cay đắng, tốn tiền tốn bạc, bây giờ bỏ được bệnh ghiền thuốc, mình có vui không? Lìa được bệnh ghiền đó là vui. Vui đó có ai khổ không? Niềm vui đó làm cả nhà vui lây, phải không? Đó mới là cái vui thật. Hồi xưa mình say rượu mê man, nay quán này mai quán nọ, bao nhiêu tiền cũng không đủ. Bây giờ bỏ rượu tức lìa được rượu, gia đình vui không? Mình thắng được rượu, lìa được ghiền rượu, bản thân mình vui mà gia đình cũng vui. Do lìa mà vui đó là người tu, do được mà vui đó là người đời. Khi biết tu, lìa những bệnh ghiền rượu, ghiền thuốc, ghiền á phiện… đó là vui.
Xa hơn nữa, lìa được ngũ dục ở thế gian là nguồn vui chân chánh của người học đạo. Người tu thiền khi được định Sơ thiền gọi là Ly sanh hỉ lạc. Ly tức là lìa, lìa cái gì? Lìa mê đắm ngũ dục: sắc, thanh, hương, vị, xúc. Năm điều này lìa được, không dính không nhiễm gọi là ly. Lìa được ngũ dục rồi thì lòng khoan khoái nhẹ nhàng gọi là được định Sơ thiền Ly sanh hỉ lạc. Thí dụ khi trước mình có tật thích đi xem hát, gánh hát nào lại gióng trống lên là mình nôn nao phải đi xem hát cho kỳ được. Bây giờ biết tu, khi nghe gánh hát gióng trống, mình nhất định không đi xem hát. Cho đến khi gánh hát dọn đi mình cũng không bén mảng tới rạp hát, lìa được cái mê xem hát, là mình thắng mình, nên cảm thấy vui. Cái vui đó không tốn tiền tốn bạc mà mình được sự an ổn. Vui đó do xa lìa ngũ dục, không bị nhiễm trước, gọi đó là Ly sanh hỉ lạc, được định Sơ thiền.
Kế nữa người đời thích vui trong cảnh nhộn nhịp, chỗ đông đảo ồn ào, như rạp hát, sân đá bóng, phòng trà v.v… nhưng cái vui ồn náo nhộn nhịp đó có lâu bền hay không? Như nơi rạp hát, khi người hề khéo giễu làm cho mình cười ồ lên, cười đến nôn ruột đi nữa, nhưng một lát ra về cũng hết cười. Ta chỉ cười khi trước mắt mình thấy, lỗ tai mình nghe những chuyện họ khéo gợi, lúc ấy vui. Ra khỏi nơi đó rồi, không được vui nữa, nhất là đi xem hát tới mười một mười hai giờ đêm mới về, vừa đi dọc đường vừa buồn ngủ, có vui không? Hết vui rồi. Nếu người tiền bạc eo hẹp, khi xem hát về, túi tiền trống rỗng, nhớ lại ngày mai không đủ tiền mua gạo, lúc đó còn vui không? Cho nên cái vui ở chỗ ồn náo, chỉ là vui nhất thời, tạm bợ, không có lâu bền.
Ngược lại, người học đạo, người biết tu không thích cái vui ồn ào mà lại thích vui trong yên lặng, ngồi những nơi yên tĩnh, một mình nhìn trời, nhìn mây, ngắm hoa ngắm kiểng, lòng phơi phới nhẹ nhàng. Đó là niềm vui của người trong đạo. Người tu thiền lấy thiền định làm niềm vui của mình, cho nên gọi Nhị thiền là Định sanh hỉ lạc. Do tâm được yên định sanh ra vui mừng, cái vui mừng đó có tốn hao gì không? Do tâm định, vui mừng phát ra, không có tốn hao gì cả. Vui trong yên định là vui sáng suốt, tỉnh táo, khỏe khoắn, an nhàn, không phải cái vui ồn ào, nhọc nhằn mỏi mệt. Vui ở chỗ nhộn nhịp làm cho mình mất sức khỏe, tiêu hao nghị lực, vừa tốn của vừa tốn công, vừa làm cho mình phải suy mòn sức lực. Vui của người tu nơi yên lặng, trong lúc thiền định, cái vui đó nhẹ nhàng thanh thoát, tâm hồn sáng tỉnh đó mới là cái vui chân thật.
Kế nữa, người đời vui trong mê lầm, không phải vui trong tỉnh giác. Mê lầm là sao? Thí dụ họ cho đánh bạc là vui. Cái vui đó có phải là vui thật không? Khi đánh ăn thì vui, nếu thua thì khổ. Đến sòng bạc họ nói là đi mua vui, cái vui đó là vui trong mê lầm. Rồi đến uống rượu họ cho là vui. Thí dụ năm bảy người rủ nhau tới quán rượu, chén thù chén tạc, người nào người nấy say túy lúy, như thế vui không? Người đời cho ăn nhậu là vui nhưng khi say túy lúy rồi nôn mửa, có vui không? Ngồi quán uống rượu làm cho sức khỏe tiêu mòn, tiền bạc tốn hao, tăng trưởng si mê. Như vậy có phải là vui trong mê lầm không?
Đối với người học đạo, vui của mình là vui giác ngộ. Thí dụ đang ngồi thiền có vấn đề khi trước mình không hiểu, nay bỗng dưng hiểu ra, đó thật là vui, có khi vui quá mình cười to lên… đó là do giác ngộ mà vui. Hoặc khi đang đi, một vấn đề khi trước chưa thông, bỗng dưng tâm sáng ra mình hiểu được, lúc ấy vui không? Rất vui, do giác ngộ mà vui. Cái vui đó có nhọc nhằn tốn hao gì đâu, càng vui trí tuệ càng sáng. Cái vui đó đưa chúng ta đến chỗ an lạc hoàn toàn vì đó là cái vui của giác ngộ giải thoát. Ngày xưa các vị Thiền sư ngồi tu, đến khi bừng ngộ, các ngài rất hoan hỉ, do giác ngộ mà hoan hỉ. Như vậy cái vui của người tu khác với cái vui của người đời. Người đời lấy mê lầm cho là vui, người tu do giác ngộ mà vui.
Thêm nữa, người đời vui trong ràng buộc. Ràng buộc là sao? Là thương yêu, quyến luyến. Thí dụ như bà nội có một đứa cháu nội, nó chạy theo nắm tay bà nũng nịu, bà có vui không? Hoặc đứa cháu ngoại chạy theo nói ríu rít đủ điều, bà có thương không? Càng vui, càng thương, càng phải lo nhiều. Vì thương cháu quá, nên lo cho nó ăn ngon, mặc đẹp… lo hết con tới cháu, lo hoài đến ngày nhắm mắt cũng chưa xong. Vui như vậy là vui trong ràng buộc.
Lại nữa, người nào được nhiều người thương, người đó vui không? Thấy mình được thiên hạ quí trọng, kính nể, lúc đó là vui. Nhưng một người thương là một sợi dây trói buộc, hai người thương là hai sợi dây, mười người thương là mười sợi dây… thương nhiều thì gỡ khó. Vậy mà người ta vui khi được thiên hạ thương, được thiên hạ chú ý, quí mình như ngọc như ngà v.v… Do đó, người đời càng vui thì càng đắm mình trong sự trói buộc, trói buộc trong tình thương gia đình, tình thương những người chung quanh v.v… càng thương nhiều thì càng bị buộc nhiều!
Ngược lại người tu, nhất là người tu Phật, vui là khi giải thoát. Những gì ràng buộc, làm cho mình bị rối rắm, phải cắt bỏ nó đi. Cắt bỏ được một mối là vui mừng một mối. Cắt bỏ đây không có nghĩa là bỏ chồng bỏ con… mà cắt bỏ là bỏ những tình thương không lợi ích, gây thêm tai hại cho mình. Thí dụ người đó với mình không phải thân thuộc, mà họ nói những lời ngọt ngào, những lời thương yêu rồi mình tưởng họ thương thật, tự nhiên mình tự trói mình rồi khổ. Ở thế gian có những lời nói không đúng với tâm niệm, họ nghĩ một đàng mà nói một nẻo để cầu lợi, để nắm giữ những gì họ thích. Mình phải biết rõ những lời nói đó không thật, đừng để bị cột trói. Tình thương chân thật nhất là tình thương cha mẹ với con cái, mà có khi còn phai nhạt, còn gặp những đứa con bất hiếu thay! Huống nữa là những người ngoài chắc gì họ thương mình thật. Nghe họ nói thương, mình vui mừng thích thú, e rằng có ngày sẽ phải khổ. Vì vậy những tình cảm thương yêu quyến luyến vô tình trói cột làm cho mình phải khổ. Người tu lấy sự giải thoát làm vui, không thể bị trói buộc bởi những tình cảm riêng tư và những ngũ dục bên ngoài.
Người đời nghĩ rằng cuộc đời mình phải được an vui hạnh phúc, nhưng từ thuở nhỏ cho đến hiện nay năm mươi, bảy mươi tuổi, quí vị thấy đời mình vui nhiều hay khổ nhiều? Khổ nhiều! Vì sao mình muốn vui mà lại khổ? Vì mình muốn vui mà vui trên cái khổ của người khác, cho nên người khác cũng muốn vui mà vui trên cái khổ của mình. Vì sát phạt lẫn nhau để được vui, nên cái vui đó khó vẹn toàn. Những người từ sòng bạc đi ra đâu phải ai ai cũng đều hớn hở. Trong mười người, độ hai người vui mừng, còn tám người thì âu sầu đau khổ. Như vậy tại sao người ta cứ đến sòng bạc mãi? Tám lần khổ chỉ có hai lần vui. Có khi đủ cả mười lần khổ là khác!
Ở đời nếu chúng ta tìm vui trong sự thắng người, trong cảnh nhộn nhịp v.v… thì cái vui đó chỉ là tạm bợ mong manh, không lâu bền được. Chúng ta phải tìm những niềm vui chân thật ở đạo, vui khi thắng mình, lìa được những tật xấu, vui khi được ở chỗ yên tĩnh, tâm hồn an ổn, vui khi được tỉnh giác, thoát ly những buộc ràng. Nếu sáng suốt chúng ta tìm cái vui chân thật, thì cái vui ấy sẽ lâu dài bền bỉ, còn mê lầm chúng ta đuổi theo những cái vui giả dối thì vui ít mà khổ nhiều. Mong rằng quí vị luôn luôn sáng suốt để được an vui hạnh phúc mãi mãi.
Để kết thúc buổi nói chuyện hôm nay chúng tôi đọc bốn câu kệ sau đây dùng làm kim chỉ nam cho quí vị trong năm mới:
Nguồn vui mãi vô tận,
Khi nhìn ánh nguyệt chân.
Nơi nơi đều cực lạc,
Phút phút hiện chân thân.
Nguồn vui mãi vô tận, là nguồn vui nào?
Khi nhìn ánh nguyệt chân: Khi nhìn thấy mặt trăng thật, là mặt trăng nào? Trong kinh Lăng Nghiêm, đức Phật nói mặt trăng thật và mặt trăng thứ hai, chúng tôi nói thêm nữa là bóng mặt trăng. Mặt trăng chân thật chỉ Tâm thể bất sanh bất diệt của mình, mặt trăng thứ hai chỉ cái chân thể đó hiện nơi sáu căn, còn bóng mặt trăng là chỉ ý thức duyên với pháp trần. Muốn được nguồn vui vô tận là khi nào chúng ta thấy được mặt trăng chân thật. Khi ấy thì thế nào?
Nơi nơi đều cực lạc: Nơi nào cũng cực lạc, không phải chỉ riêng cõi Tây phương.
Phút phút hiện chân thân: Phút nào cũng hiện thân chân thật.
Chúng tôi xin chúc tất cả quí Phật tử sang năm Mậu Thìn được một nguồn vui vô tận, khi nhìn thấy mặt trăng thật, nơi nào cũng là cực lạc, giờ nào cũng là Niết-bàn. Đó là lời chúc lành của chúng tôi gởi đến quí vị.
TÌM LẠI MÌNH, BIẾT ĐƯỢC
MÌNH LÀ TRÊN HẾT
Tất niên Mậu Thìn - 1989
Đề tài chúng tôi nói chuyện hôm nay là Tìm lại mình, biết được mình là trên hết. Đề tài này, mới nghe qua thấy quá đơn giản, nhưng thật là thiết yếu trong cuộc sống của chúng ta.
Chúng ta có thói quen chạy ra tìm kiếm bên ngoài. Vì thế tuy hiểu biết rất nhiều việc, nhưng khi trở lại tìm hiểu bản thân mình thì rất là thiếu sót. Nói như vậy không có nghĩa chúng tôi phủ nhận ngành y khoa nghiên cứu về con người. Ở đây tôi muốn nhấn mạnh chúng ta còn có một giá trị khác ngoài cái thân hiện đang đi đứng nằm ngồi này. Đó là điều mà chúng ta cần tìm hiểu. Xoay lại tìm cho ra cái chân thật của chính mình là điều tối quan trọng. Nếu không thì đời sống chúng ta trở thành lạt lẽo vô vị. Chẳng lẽ chúng ta sống chỉ để ăn mặc ngủ nghỉ... rồi chờ đến ngày chết sao? Nếu chúng ta cứ phóng ra bên ngoài thì sẽ mất mình mà không biết. Vì vậy chúng tôi nhắc tìm lại mình, biết được mình là trên hết.
Chúng ta thường hiểu lầm đạo Phật là huyền bí, cao siêu, nhưng thật ra đạo Phật rất thực tế, vì luôn luôn chủ trương xoay lại tìm con người chân thật của chính mình. Biết được mình chẳng phải là điều rất thực tế hay sao? Các giác quan của chúng ta như mắt, tai, mũi, lưỡi... quen phóng ra bên ngoài để tìm hiểu, phân tích, mà quên nhìn lại nơi mình. Vì lẽ đó trong nhà thiền dạy: phản quan tự kỷ bổn phận sự, nghĩa là xoay lại chính mình mới là bổn phận chánh. Nếu chúng ta biết được tất cả bên ngoài cho đến những vì sao xa xôi trên bầu trời, mà không biết tí gì về chúng ta, đó là một thiệt thòi lớn lao. Người thế gian khi làm điều gì đều muốn được thành công, nhưng sự thành công đó kéo dài lắm cũng chỉ năm ba mươi năm rồi cũng phải buông, không giữ được mãi mãi. Chỉ có cái chân thật của chính mình mới lâu dài vĩnh cửu. Nghĩ mới hôm nào chúng ta đôi ba mươi tuổi mà ngày nay đã già rồi, đời sống con người ngắn ngủi làm sao! Nếu chúng ta nghĩ tất cả của cải thế gian là nguồn hạnh phúc, nguồn an vui tuyệt đối, điều này không hợp với lẽ thật. Chỉ có biết rõ được mình mới là điều quan trọng và thực tế. Ví dụ như người đời rành rẽ việc làng xóm, đất nước, thế giới, nhưng việc trong nhà lại không biết tí nào, người đó có thiếu thực tế không? Việc trong nhà là nơi gốc họ sống mỗi ngày, mỗi tháng, mỗi năm mà không biết, chỉ biết chuyện bên ngoài, quả là thiếu thực tế lắm vậy.
Mọi người thường nói về mình, xưng là tôi, là ta. Nhưng thử hỏi, cái gì là mình, là ta, thì khó trả lời cho thông được. Nếu nói thân này là mình, khi chưa có thân thì chưa có mình sao? Nếu có thân rồi mai kia thân hoại thì mình ở đâu? Nếu nói thân này là mình, thân này do đất nước gió lửa hợp thành, đúng ra là vô tri, chẳng lẽ mình lại vô tri hay sao? Nếu nói thân này có cả phần tinh thần lẫn vật chất, thì phần nào là mình? Tinh thần hay vật chất? Những điều đó rất thiết yếu mà ít người quan tâm đến! Chúng ta cứ mải lo tìm sanh kế, sống ngày này qua ngày khác, cuối cùng từ giã cuộc đời. Rồi ngang đó chúng ta không biết ra sao nữa, đó là điều thật đáng buồn. Vì vậy người tu là biết quay lại tìm cho ra mình là cái gì? Là thân tứ đại này chăng? Là những tình cảm vui buồn thương ghét chăng? Hay là cái gì cao siêu hơn nữa? Chúng ta tu cốt phải làm sao thấy được con người mình, con người chân thật.
Một Thiền sư cư sĩ đời Trần, ngài Tuệ Trung Thượng Sĩ có bài kệ soi lại mình, nhan đề “Chiếu Thân”.
Tiêu đầu lan ngạch bị kim bào,
Ngũ thất niên gian thị xưởng tào.
Túng giả siêu quần kiêm bạt tụy,
Nhất hồi phóng hạ nhất hồi cao.
Dịch:
Soi Thân
Sém đầu dập trán bởi đua chen,
Năm bảy mươi năm kiếp ngựa hèn.
Ví thực bạt siêu ngoài thói tục,
Một lần buông xuống một lần lên.
Trúc Thiên
Sém đầu dập trán bởi đua chen: Trải qua bao nhiêu thời gian chạy theo thế tục làm cho đầu phải sém, trán phải dập, cũng bởi đua chen với đời, rốt cuộc rồi không tới đâu, vất vả nhiều mà kết quả chẳng bao nhiêu, cho nên nói:
Năm bảy mươi năm kiếp ngựa hèn: Như con ngựa yếu, chúng ta trải qua năm bảy mươi năm mệt mỏi cũng không được gì!
Ví thực bạt siêu ngoài thói tục: Nếu thật vượt ra được ngoài thói tục, tức là thói đua chen giành giựt, thì sẽ ra sao?
Một lần buông xuống một lần lên: Vì sao buông xuống lại được lên? Vì buông đi một gánh nặng là chúng ta nhẹ bớt một phần. Nếu buông nhiều chừng nào chúng ta càng nhẹ chừng nấy, cho nên càng buông thì càng lên. Nếu chúng ta giành giựt tranh đua nhau mãi, chỉ là làm khổ cho nhau, chớ có lợi ích gì! Biết nhường nhịn nhau, biết trở lại tìm mình, và vượt ra ngoài thói tục, chúng ta sẽ buông xả những tranh đua giành giựt. Lúc ấy chúng ta sẽ cảm thấy nhẹ nhàng siêu thoát. Là người biết tu, biết học đạo, chúng ta phải xoay trở lại mình, thấy rõ mình, đó là điều hết sức thiết yếu.
Biết được mình có giá trị gì? Ví dụ có người muốn bất cứ điều gì trong cuộc đời đều được toại nguyện, người đó được hạnh phúc chưa? Mới nhìn qua tưởng chừng như được đại hạnh phúc vậy. Nhưng đến khi cái chết gần kề, họ muốn sống cũng không được, thì lúc đó đau khổ ngần nào! Được tất cả sự vật bên ngoài, mà ngay bản thân mình không tự cứu được, cũng không ai cứu được. Như vậy tất cả sự vật bên ngoài đối với người đó còn có giá trị hay không? Lại có người tuy tiền của không bao nhiêu, đời sống rất đạm bạc nhưng họ đã thấy rõ được mình, biết cái gì là thật, cái gì là hư. Đời của họ có một chỗ tựa, một chỗ đứng vững vàng không còn hồi hộp, lo sợ gì nữa. Họ sống an nhàn tự tại, không còn sợ ngày mai khi chết rồi sẽ ra sao? Họ tự thấy mình một cách rõ ràng tỉnh táo, biết mình sẽ không còn phải đau khổ nữa, không còn phải sa vào ba đường ác: địa ngục, ngạ quỉ và súc sanh. Chính mình biết được mình, đó mới là giá trị cao nhất của cuộc đời.
Trong kinh Pháp Hoa có ví dụ: Một ông vua sai binh tướng đi đánh giặc. Khi binh tướng thắng trận trở về, nhà vua thưởng cho vị tướng tài giỏi nhất hòn ngọc ngài cất trong búi tóc, còn các tướng khác chỉ được tặng những vật phẩm thường thôi. Trong câu chuyện này Vua dụ cho đức Phật, vị tướng tài giỏi nhất dụ cho những Bồ-tát đã ngộ được Tri kiến Phật, nên được tặng cho hạt minh châu. Ngộ được Tri kiến Phật tức là thấy được chính mình, đó là giá trị cao nhất. Con người mà mình tìm biết được là con người nào? Chúng tôi gọi đó là con người chân thật. Con người nặng bốn mươi năm mươi ký là con người tạm bợ, chỉ sống mấy mươi năm rồi tan rã. Chỉ có con người chân thật mới không bị hủy hoại, không bị tiêu mất.
Con người chân thật đã từng được nói đến trong kinh Phật, từ kinh Nguyên thủy cho đến kinh Đại thừa và Thiền tông. Trong kinh A-hàm hay các bộ Nykàya, đức Phật thường dạy: Nếu diệt hết tham sân si, dẹp hết các phiền não thì mầm sanh tử dứt, gọi là được giải thoát hay là nhập Niết-bàn. Trong kinh Phật chủ trương vô thường, khổ, không, vô ngã. Nếu vô ngã, khi nói giải thoát, nhập Niết-bàn thì cái gì giải thoát, cái gì nhập Niết-bàn? Đó là một vấn đề mà đa số người học Phật đều thắc mắc. Thật ra thời đức Phật, đức Phật phải đương đầu với giáo lý Bà-la-môn. Giáo lý này chủ trương có thần ngã, người tu chín chắn sau khi chết, thần ngã sẽ nhập vào Đại ngã hay còn gọi là trời Đại Tự Tại hay Phạm thiên. Thần ngã trong đạo Bà-la-môn là cái hiểu biết, cái suy tính của con người cũng giống như linh hồn mà người bình dân thường tin tưởng. Để phá chấp về thần ngã hay linh hồn, đức Phật thuyết lý vô ngã. Nói vô ngã là để phá chấp hữu ngã của đạo Bà-la-môn, vì chấp như thế không đến được cái chân thật. Những suy nghĩ, phân biệt, hiểu biết là hiện tượng của thần ngã, tức là tướng sanh diệt, mà cho rằng không sanh diệt, đó là điều sai lầm. Vì vậy Phật nói cái đó không phải là ngã. Nếu nói giải thoát, nói nhập Niết-bàn là cái ngã giải thoát, cái ngã nhập Niết-bàn, thì người ta sẽ hiểu lầm đó là cái ngã của đạo Bà-la-môn. Vì vậy đức Phật chỉ nói giải thoát, chỉ nói nhập Niết-bàn, mà không nói cái gì giải thoát cái gì nhập Niết-bàn. Đức Phật dạy chúng ta đừng chấp, để chúng ta tu hành giải thoát, giải thoát rồi sẽ biết.
Chúng ta không khỏi thắc mắc nói giải thoát, nói nhập Niết-bàn, là phải có chủ từ. Ví dụ như nói được mở trói, được mời vào nhà sang trọng, thì phải có ai được mở trói, ai được mời vào nhà sang trọng. Ở đây, đức Phật không nêu lên con người chân thật nghĩa là do đạt được con người chân thật mà chúng ta giải thoát, do đạt được con người chân thật mà chúng ta nhập Niết-bàn là để tránh cái lỗi chấp thần ngã như bên đạo Bà-la-môn. Nếu lầm chấp cái được giải thoát, được Niết-bàn là thần ngã thì không giải thoát. Vì vậy các kinh Nguyên thủy không nói ai được giải thoát, ai được Niết-bàn.
Tuy nhiên, đức Phật không phải không nói về vấn đề ấy. Kinh Phật Sở Thuyết, trang 382 Tiểu Bộ Kinh, tạng Pali, Phật dạy: “Này các Tỳ-kheo, có sự không sanh, không hiện hữu, không bị làm, không hữu vi. Này các Tỳ-kheo, nếu không có cái không sanh, không hiện hữu, không bị làm, không hữu vi, thời ở đây không thể trình bày sự xuất ly khỏi sanh, hiện hữu, bị làm, hữu vi. Vì rằng, này các Tỳ-kheo, có cái không sanh, không hiện hữu, không bị làm, không hữu vi nên có sự trình bày sự xuất ly khỏi sanh, hiện hữu, bị làm, hữu vi.” Trong đoạn kinh này đức Phật xác nhận có cái không sanh, không hiện hữu, không bị làm, không hữu vi. Vì có cái đó cho nên mới có xuất ly, tức là có giải thoát. Đức Phật xác nhận rõ ràng có cái không nói tên, nhưng chúng ta ngầm hiểu đó là con người chân thật của chúng ta.
Qua đến kinh điển Đại thừa, con người chân thật được nêu lên rất rõ ràng. Trong kinh Kim Cang, Phật nói kệ:
Nhược dĩ sắc kiến ngã
Dĩ âm thanh cầu ngã
Thị nhân hành tà đạo
Bất năng kiến Như Lai.
Dịch:
Nếu do sắc thấy ta
Do âm thanh cầu ta
Người ấy hành đạo tà
Không thể thấy Như Lai.
Chữ “ta” (ngã) trong bài kệ chỉ cái gì? Nếu “ta” chỉ hình tướng đức Phật khi còn tại thế ở Ấn Độ, thì hình tướng đó ngày nay không còn nữa. Nếu “ta” chỉ cái khi đức Phật nhập Niết-bàn thì cũng không hợp lý. Chữ “ta” chỉ cái ta mà mọi người sẵn có, cái ta đó còn gọi là Pháp thân hay Phật tánh.
Kinh điển Đại thừa nói cái thân hiện có của chúng ta là cái thân tạm bợ giả dối. Ngay trong cái thân tạm bợ giả dối này có cái chân thật bất sanh bất diệt, gọi là Pháp thân hay Phật tánh. Chữ “ngã” là chỉ cho Pháp thân. Pháp thân không phải là sắc tướng, cho nên không do sắc mà thấy. Pháp thân không phải là âm thanh, cho nên không do âm thanh mà cầu. Sắc tướng âm thanh là tướng sanh diệt tạm bợ, nếu dùng sắc tướng âm thanh mà cầu gọi là hành đạo tà, không thể thấy được Pháp thân, cho nên nói không thể thấy Như Lai, Như Lai là chỉ cho Pháp thân. Kinh điển Đại thừa đã nêu lên cho chúng ta thấy mỗi người đều sẵn có Pháp thân.
Ngày xưa khi còn ở Phật học đường, chúng tôi thắc mắc không hiểu vì sao các nhà tạc tượng ở Việt Nam, khi tạc hình đức Phật lại giống người Việt Nam. Chẳng lẽ các vị ấy không biết đức Phật là người Ấn Độ hay sao? Ở Trung Hoa cũng vậy, hình đức Phật giống người Trung Hoa, ở Nhật Bản thì giống người Nhật Bản...Vì sao các nhà điêu khắc lại tạc tượng như vậy? Ngày nay khi học kỹ kinh điển Đại thừa rồi, chúng tôi mới biết tinh thần Đại thừa không chỉ thừa nhận đức Phật với ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp như ở Ấn Độ, mà luôn luôn đề cao Phật pháp thân. Phật pháp thân là Tánh giác mỗi người sẵn có. Dù ở Trung Hoa, Nhật Bản hay Việt Nam, ai cũng có Tánh giác như đức Phật ở Ấn Độ. Nếu khéo tu, khéo chuyển thì tất cả đều giác ngộ thành Phật như Ngài. Các nhà điêu khắc hiểu được lý này, nên tạc hình đức Phật giống như người của nước mình. Đó là để nói lên tinh thần Đại thừa, chỉ thấy Phật là Phật pháp thân. Phật pháp thân thì ở nơi nào cũng có, chớ không riêng ở quốc độ nào. Chỉ có người nhận được cái chân thật nơi mình ngoài âm thanh, ngoài sắc tướng, mới có thể thấy Như Lai, tức là Phật pháp thân.
Trong nhà thiền, con người chân thật còn được gọi là Bản lai diện mục hay Ông chủ. Lục tổ Huệ Năng khi nhận được y bát của Ngũ Tổ rồi, rời Huỳnh Mai ra đi. Có một đoàn người dẫn đầu là Thượng tọa Huệ Minh đuổi theo để đoạt lại y bát… Khi gặp Lục Tổ, Thượng tọa Minh thưa: Tôi đến đây vì cầu pháp, chớ không phải giành y bát. Lục Tổ bảo: Nếu muốn cầu pháp, ông hãy bình tĩnh lắng tâm nghe tôi hỏi. Thượng tọa Minh yên lặng giây lâu, Lục Tổ hỏi: “Không nghĩ thiện, không nghĩ ác, chính khi ấy cái gì là Bản lai diện mục của Thượng tọa Minh?” Ngay đó ngài Huệ Minh ngộ, nhận được Bản lai diện mục, tức là bộ mặt sẵn có của mình từ xưa đến giờ.
Trung Hoa có Thiền sư Sư Ngạn thường ngồi tu trên tảng đá, ngồi một lát, thấy hơi lơ là, tự gọi: “Ông chủ!” Rồi ứng thanh: “Dạ!” Bèn bảo tiếp: “Tỉnh tỉnh, đừng bị người lừa nghe!” Lâu lâu Ngài tự gọi rồi tự đáp. Tu như vậy, về sau Ngài trở nên một Thiền sư nổi danh thời bấy giờ.
Danh từ Ông chủ hay Bản lai diện mục, trong nhà thiền thường hay nhắc đến là để chỉ cái chân thật sẵn có nơi mọi người. Rất tiếc vì chúng ta không nhận thấy, hay vì quên nên không sống được với cái chân thật đó. Bởi thế đức Phật bảo chúng ta mê, mê là quên mình có con người chân thật, rồi đuổi theo, lo lắng cho con người tạm bợ giả dối, đến khi con người tạm bợ sắp tan rã lại hoảng sợ cuống cuồng lên, không biết rồi mình sẽ ra sao? Ngộ là nhận được và hằng sống với cái chân thật ấy, đó là nguồn hạnh phúc vô cùng, nên gọi là Niết-bàn, an lạc, giải thoát.
Muốn biết được Ông chủ hay con người chân thật quả là thiên nan vạn nan. Thiền sư Ngộ Ấn đời Lý ở Việt Nam, khi sắp tịch có bài kệ:
Diệu tánh hư vô bất khả phan,
Hư vô tâm ngộ đắc hà nan.
Ngọc phần sơn thượng sắc thường nhuận,
Liên phát lô trung thấp vị càn.
Dịch:
Diệu tánh rỗng không chẳng thể vin,
Rỗng không tâm ngộ việc dễ tin.
Tươi nhuần sắc ngọc trong núi cháy,
Lò lửa hoa sen nở thật xinh.
Trong lò lửa cháy hực, một đóa sen đang nở tươi thắm, điều đó có tin được hay không? Thật là khó tin. Tuy khó tin mà có thật, mới là lạ chứ! Thân chúng ta từ hình thức vật chất đến tinh thần, nghĩ suy tính toán đều luôn luôn sanh diệt đổi thay. Nhưng trong cái sanh diệt đổi thay đó, có cái chưa bao giờ sanh diệt đổi thay. Đức Phật ví cái đổi thay vô thường như là lửa, lửa đốt cháy làm sự vật phải tiêu mòn. Vì vô thường nên con người luôn luôn thay đổi không bao giờ dừng, từ trẻ đến già, từ già đến chết. Thân tâm đều vô thường. Trong cái vô thường đó, muốn tìm cái không vô thường rất khó, chẳng khác nào trong lò lửa mà có một đóa sen nở tươi thắm, không bao giờ bị khô héo. Điều này tuy khó tin mà có thật. Thấy được điều này thật là hãn hữu. Thấy được rồi, chúng ta không còn lo sợ vì trong cuộc sống vô thường còn có cái miên viễn không bao giờ mất. Thân này, cảnh này dù có mất đi, nhưng cái chân thật nơi chúng ta luôn luôn hiện hữu. Đối với sanh tử, các vị đạt đạo xem như trò chơi, chúng ta vì chưa thấy đạo nên khi thân này sắp tan hoại, lại lo sợ kinh hoàng. Lúc ấy nếu cho được sống thêm năm mười năm nữa, chúng ta vui mừng vô hạn. Còn trong vô thường, mất trong vô thường mà mừng sợ làm gì? Có cái chưa bao giờ vô thường, chưa bao giờ mất, chúng ta lại không thấy. Vì thế cái không vô thường, không tan hoại được ví như viên ngọc quí trên ngọn núi đang cháy, lửa hừng hực mà ngọc vẫn tươi nhuần, cũng như hoa sen trong lò lửa mà vẫn tươi thắm. Hình ảnh trái ngược này, người thế gian không bao giờ tưởng tượng được, nhưng người tu Phật khi công phu viên mãn thì thấy rõ điều đó không nghi ngờ. Vì thế người tu còn gọi là người xuất thế gian, tức là người vượt qua sự tưởng tượng, sự nghĩ bàn của thế gian.
Trong hai câu đầu của bài kệ, ngài Ngộ Ấn dạy chúng ta:
Diệu tánh rỗng không chẳng thể vin,
Rỗng không tâm ngộ việc dễ tin.
Tánh nhiệm mầu rỗng không, không thể vin theo hay nắm bắt được. Muốn ngộ được diệu tánh ấy, tâm mình phải rỗng rang, không còn những ý niệm lăng xăng dao động. Nhưng hiện nay tâm mình lúc nào cũng đầy tràn. Muốn tâm được rỗng rang, chúng ta phải buông hết đi, ném sạch hết đi, thì mới thấy cái chân thật rỗng rang đó.
Tươi nhuần sắc ngọc trong núi cháy,
Lò lửa hoa sen nở thật xinh.
Khi tâm mình được rỗng rang thanh tịnh rồi, chúng ta mới thấy ngay nơi thân vô thường này có cái chân thật không vô thường, giống như trong ngọn núi đang cháy có hòn ngọc tươi nhuần, trong lò lửa hừng hực có một đóa sen xinh tươi đang nở. Điều này rất khó tin nhưng có thật. Nếu chúng ta khéo tu, khéo ứng dụng thì sẽ thấy được, chắc chắn không nghi ngờ. Chính đức Phật đã sống với diệu tánh chân thật ấy nên Ngài ung dung tự tại trước mọi hoàn cảnh. Chư Tổ khi xưa cũng thấy được và sống được với cái chân thật đó, nên xem sanh tử như trò chơi, không có nghĩa lý gì.
Ở Trung Hoa, Thiền sư Tỉnh Niệm khi sắp tịch nói kệ:
Bạch ngân thế giới kim sắc thân,
Tình dữ phi tình cộng nhất chân.
Minh ám tận thời câu bất chiếu,
Nhật luân ngọ hậu kiến toàn thân.
Dịch:
Thế giới bạch ngân thân sắc vàng,
Tình với phi tình một tánh chân.
Tối sáng hết rồi đều chẳng chiếu,
Vầng ô vừa xế thấy toàn thân.
Khi Ngài thấy được con người chân thật rồi thì cái thân vô thường bại hoại này có mất đi, chẳng qua như bọt nước dưới biển, tan ra rồi trở về biển chớ có mất mát gì đâu. Cho nên nói vầng ô vừa xế thấy toàn thân là khi tịch, Ngài thấy được toàn thân chớ không có mất.
Ở Việt Nam, Thiền sư Liễu Quán có nói bài kệ:
Thất thập dư niên thế giới trung,
Không không sắc sắc diệc dung thông.
Kim triêu nguyện mãn hoàn gia lý,
Hà tất bôn man vấn tổ tông.
Dịch:
Hơn bảy mươi năm ở cõi trần,
Không không sắc sắc thảy dung thông.
Hôm nay nguyện mãn về quê cũ,
Nào phải bôn ba hỏi tổ tông.
Đối với Ngài khi thân này tan hoại, đó là lúc trở về quê cũ, không có gì mất mát, không có gì phải âu lo buồn khổ. Thấy đạo tức thấy mình có con người chân thật rồi thì sự sống chết chỉ là trò chơi không quan trọng, vì thế Ngài ra đi thảnh thơi tự tại, không sợ sệt.
Trở lại thực tế, như tôi là một Phàm tăng, sanh trong thời mạt pháp, lại thêm phước mỏng nghiệp dày. Nhưng trên đường tu với tâm cố gắng mãnh liệt, tôi vẫn tin rằng mình có con người chân thật, lòng tin của tôi kiên cố không chút nghi ngờ. Chúng tôi không nói vấn đề tu chứng chi cả, chỉ nói lòng tin vững chắc: Nơi tôi có con người chân thật.
Ngày trước tôi có mặc cảm là mình không đủ phước duyên như quí Hoà thượng đi tu từ thuở nhỏ, năm bảy tuổi, hay mười một mười hai tuổi. Đến năm ngoài hai mươi tuổi tôi mới xuất gia, kể ra là quá muộn rồi, thật là phước mỏng nghiệp dày! Khi vào chùa tôi được biết là mình tu nhằm thời mạt pháp, chắc không sao tiến nổi. Tu là để gieo duyên lành cho đời sau tiếp tục, chớ không có chút hi vọng gì tìm ra đạo lý cao siêu! Các bậc Thầy Tổ của chúng tôi thường nhắc: “Mình sanh nhằm thời mạt pháp, thôi thì dùng lục tự Di-đà, niệm Phật rồi sau Phật rước về nước của Ngài. Qua được bên ấy, dù là hàng hạ sanh, hạ phẩm cũng còn vui hơn ở cõi Ta-bà đau khổ này.” Yên lòng như vậy, tôi không nghĩ gì hơn là cố gắng gieo chút duyên lành với Phật pháp.
Tuy nhiên tôi có thói quen là làm việc gì cũng không dám tự mãn. Dù Thầy Tổ có dạy như vậy, nhưng khi học kinh điển, thấy đức Phật do ngồi thiền mà thành đạo, vì thế tôi mò mẫm cố làm sao thấy được điều Phật đã dạy. Rõ ràng đức Phật do ngồi thiền dưới cội bồ-đề mà được giác ngộ, vì vậy noi gương Ngài, tôi tập ngồi thiền. Nhưng khổ nỗi, ai dạy mình ngồi, đọc sách nào đây? Tôi mới lục trong Tạng kinh, đọc thêm các sách Thiền tông. Sao mà khó hiểu quá! Nhưng tôi có niềm tin vững chắc đối với con đường mà Phật và chư Tổ đã đi. Thế nên tôi quyết chí tu thiền, mặc cho sự việc ra sao. Lấy bản thân mình làm thí nghiệm, sống được cũng tốt, mà chết đi cũng tốt. Sau đó khi bắt đầu thực hành, chúng tôi phải dọ dẫm lần hồi vì không có thầy bạn hướng dẫn. Nhờ hồng ân của Phật Tổ, chúng tôi thấy được một chút đạo lý để giữ vững niềm tin mình có một con người chân thật. Và chúng tôi khẳng định điều đó không còn nghi ngờ gì nữa. Giả sử bây giờ có bao nhiêu lý luận hay thế mấy mà nói rằng không có con người chân thật, tôi vẫn lắc đầu không chấp nhận.
Tôi tự ví mình như Thiền sư Đại Mai Pháp Thường. Ngài Pháp Thường sau khi tham vấn Mã Tổ, về núi Đại Mai ẩn tu. Mã Tổ nghe tin Ngài ở núi mà không biết Ngài ngộ cái gì, nên sai một vị Tăng đến thăm dò. Vị Tăng đến hỏi:
- Ngài gặp Mã Tổ được cái gì mà về ở núi này?
Ngài đáp:
- Tôi chỉ nghe Mã Tổ nói “tức tâm tức Phật”, nên về ở núi này.
Vị Tăng nói:
- Gần đây Mã Tổ lại nói “phi tâm phi Phật”.
Ngài nói:
- Ông già mê hoặc người, mặc ông nói “phi tâm phi Phật”, tôi chỉ biết “tức tâm tức Phật” thôi.
Vị Tăng trở về bạch lại Mã Tổ. Mã Tổ nói với đại chúng: Trái Mai đã chín. Như vậy “chín” là sao? Tức là được lòng tin không thối chuyển. Chính Mã Tổ là thầy của Ngài, đã nói “tức tâm tức Phật” mà bây giờ đổi lại “phi tâm phi Phật” nhưng Ngài vẫn cả quyết mặc ông già mê hoặc người, ta chỉ biết “tức tâm tức Phật”. Chính lòng tin đó khiến Ngài tu hành không thối chuyển.
Tuy chúng tôi tu không bằng ngài Đại Mai, nhưng cũng tin chắc rằng nơi mình có cái không sanh không diệt. Dù có ai nói gì đi nữa tôi vẫn khẳng định niềm tin này. Vì có con người chân thật đó chúng ta mới giải thoát, mới nhập Niết-bàn. Nếu không thì ai giải thoát? Ai nhập Niết-bàn? Cái chân thật nơi mình không phải là điều xa xôi huyền bí mà rất thực tế. Nếu chúng ta chịu khó dụng tâm nghiền ngẫm thì sẽ thấy được điều đó không nghi ngờ. Khi thấy được cái chân thật rồi, dù chúng ta chưa làm chủ thân này, chưa được tự tại trong sanh tử, song chúng ta không phải khổ đau khi mất nó. Riêng tôi, tuy chưa làm chủ được thân, nhưng tin chắc rằng mất thân này tôi không lo sợ. Và những ai có chí tu hành cũng đừng mặc cảm như tôi ngày trước, cho rằng mình sanh thời mạt pháp, phước mỏng nghiệp dày... mà phải thấy rằng chúng ta còn có duyên với đạo, cho nên ngày nay mới phát tâm tu hành, mới được sự nhắc nhở của thầy bạn và đọc được bao nhiêu kinh sách của Phật, chưa phải chúng ta vô phần.
Ngày trước chúng tôi rất bi quan khi nghĩ rằng thời mạt pháp người tu không bao giờ có chứng đắc. Nhưng sau này học sử Phật giáo rồi, chúng tôi mới thấy không hẳn luôn luôn như vậy. Thời chánh pháp, khi đức Phật tại thế, vẫn có nhiều Tỳ-kheo thối Bồ-đề tâm vì không quyết chí tu hành. Còn tuy là thời mạt pháp mà nếu chúng ta quyết tử trên đường tu, thì cũng có thể tiến được. Vì thế chánh pháp hay mạt pháp là cốt ở tâm mình, nếu quyết chí tu hành thì thời mạt pháp coi như là thời chánh pháp, nếu không quyết chí tu hành thì ngay trong thời chánh pháp coi như là mạt pháp. Vậy chúng ta không nên có mặc cảm là mình đang sanh thời mạt pháp rồi thả trôi cuộc đời tu hành. Chúng ta phải nỗ lực tiến tu để có thể chuyển mạt pháp thành chánh pháp. Tinh thần của người tu là, dù sống trong thời buổi nào cũng phải cố gắng vươn lên, tu hành tinh tấn cho đến ngày công hạnh viên mãn. Như vậy, chúng tôi đã dẫn từ các kinh điển Nguyên thủy cho đến Đại thừa và Thiền tông, để quí vị thấy nơi chúng ta đều có sẵn con người chân thật, nếu quyết chí tu hành thì sẽ thấy được điều đó không nghi ngờ.
Kết thúc bài giảng hôm nay chúng tôi dẫn bài kệ “Khuyến Thế Tiến Đạo” của Tuệ Trung Thượng Sĩ, để nhắc nhở tất cả quí vị thức tỉnh và cố gắng lên:
Tứ tự tuần hoàn xuân phục thu,
Xâm xâm dĩ lão thiếu niên đầu,
Vinh hoa khẳng cố nhất trường mộng,
Tuế nguyệt không hoài vạn hộc sầu.
Khổ thú luân hồi như chuyển cốc,
Ái hà xuất một đẳng phù âu,
Phùng trường diệc bất mô lai tỹ,
Vô hạn lương duyên chỉ mạ hưu.
Dịch:
Khuyên đời vào đạo
Thời tiết xoay vần xuân đến thu,
Cái già sồng sộc đã lên đầu,
Giàu sang ngó lại trơ tràng mộng,
Năm tháng mang theo chất hộc sầu.
Nẻo khổ, vành xe lăn lóc khắp,
Sông yêu, bọt nước mất còn đâu,
Trường đời nếu chẳng rờ lên mũi,
Ngàn thuở lương duyên chỉ bóng màu.
Trúc Thiên
Thời tiết xoay vần xuân đến thu,
Cái già sồng sộc đã lên đầu.
Hết xuân, hạ đến thu, đông, rồi lại sang xuân... thời tiết cứ như thế mà tiếp tục, tiếp tục mãi. Khi thời gian xoay vần biến chuyển thì cái già đã đáp lên đầu chúng ta rồi. Thời gian biến chuyển, bản thân chúng ta cũng biến đổi theo. Mỗi một ngày qua là già thêm một chút, sức sống giảm đi một phần. Rồi một tháng qua, một năm qua chúng ta lại càng già hơn, mạng sống lại càng mong manh hơn! Nếu chúng ta mong cho mau hết ngày, hết tháng, hết năm, tức là mong cho mau già, mau chết chớ gì? Như vậy nếu cái già cái chết đến, lẽ ra chúng ta phải vui mừng, mà tại sao khi ấy lại lo sợ hoảng hốt? Thật là mâu thuẫn. Vì sống mâu thuẫn, không thấy được lẽ thật, nên chúng ta đau khổ. Ngày nay không ra gì, chúng ta mong cái gì mới lạ ở ngày mai, không ngờ cái lạ chắc chắn là mái tóc mình sẽ bạc: trẻ rồi già, già rồi chết. Đó là cái lạ mà chúng ta không chịu chấp nhận. Thời gian và bản thân mình nhịp nhàng theo nhau, nếu không mong cái chết đến với chúng ta, thì thôi đừng mong thời gian qua mau làm gì!
Giàu sang ngó lại trơ tràng mộng,
Năm tháng mang theo chất hộc sầu.
Hai câu này mới thấm thía làm sao! Tất cả giàu sang phú quí trên đời này, khi chúng ta sắp tắt thở nằm liệt trên giường, nhớ lại giống như giấc mộng thôi. Cái gì đã qua rồi, không tìm lại được. Như ban đêm mình mộng thấy giàu sang tột đỉnh, sáng ra tỉnh dậy mới biết chỉ là giấc mộng thôi. Cảnh trong mộng làm sao tìm ra được. Thế nên dù giàu sang sung sướng bao nhiêu, khi tuổi già đến, nhớ lại quãng đời trước chẳng khác nào giấc mộng, đâu có gì tồn tại lâu bền! Đã là mộng vì sao lại khổ đau? Mỗi một ngày qua, có khi nào chúng ta thản nhiên vô sự đâu, hết buồn giận người này đến phiền trách người kia, rồi chứa chất trong lòng không biết bao nhiêu là sầu khổ! Như vậy suốt cuộc đời từ trẻ đến già, khổ đau tràn ngập. Thân thì tiêu mòn mà buồn phiền đau khổ tăng lên gấp bội, đó là cái mâu thuẫn đáng thương của chúng ta. Đến khi thân này tan hoại, thì những khổ đau đầy ắp đó sẽ dẫn mình đến chỗ nào đây?
Nẻo khổ, vành xe lăn lóc khắp,
Sông yêu, bọt nước mất còn đâu.
Phiền não quá nhiều sẽ lôi chúng ta đi vào những con đường đau khổ xấu xa, chẳng khác nào vành xe lăn hết nơi này đến chốn kia, mà toàn là đến chỗ khổ đau. Nếu trong lòng đang ngập tràn phiền não, giả sử có người dẫn chúng ta đi ngắm cảnh đẹp cho vui, thử hỏi làm sao vui được! Thế nên lúc đang đau khổ mà mất thân này, chắc chắn chúng ta sẽ bị đưa đến những chỗ khổ đau. Muốn ngày mai được an vui, thì ngang đây phải buông đi tất cả phiền não trong lòng.
Sông yêu, chữ yêu đây tức là ái, nếu còn tâm ái trước thân này và trìu mến cảnh vật chung quanh thì khi mất thân này chúng ta lại tạo thân khác, sanh tử nối tiếp không dừng, giống như bọt nước ngoài biển, cơn sóng đùa qua bọt nước nổi lên rồi bể nát, nổi lên rồi bể nát không biết bao nhiêu lần. Nếu trong lòng chứa nhóm thù hận chúng ta sẽ đi vào con đường đau khổ, nếu còn chứa nhóm lòng yêu mến thân và cảnh, chúng ta sẽ bị dẫn đi trong sanh tử liên tục không dừng.
Trường đời nếu chẳng rờ lên mũi,
Ngàn thuở lương duyên chỉ bóng màu.
Nếu gặp cơ hội mà chúng ta không rờ lên mũi thì duyên lành muôn thuở đó cũng chỉ là chuyện bóng màu, phớt qua rồi mất, uổng đi một đời. Rờ lên mũi là ý nghĩa gì? Trong nhà thiền, khi nói tới lỗ mũi là để chỉ cái sẵn có ở trước mặt mà mình không thấy. Lỗ mũi lại là nơi thở ra hít vào tức là nguồn sống của chúng ta. Như vậy lỗ mũi dụ cho con người chân thật hiện hữu nơi chúng ta, mà chúng ta lại không thấy. Rờ lên mũi nghĩa là nhận được con người chân thật nơi mình. Nhận được, cuộc đời chúng ta mới có giá trị. Bằng không thì duyên lành muôn thuở của chúng ta chẳng qua là ảo ảnh mà thôi.
Trong hai câu kết ngài Tuệ Trung Thượng Sĩ đã nhắc chúng ta, nhất là người đã thế phát xuất gia, có duyên lành với Phật pháp nếu không nhận được con người chân thật nơi mình, thì uổng phí cả một đời tu. Thế nên chúng ta phải nỗ lực cố gắng làm sao để duyên tốt đó được hữu ích và thực tế hơn.
Hôm nay là ngày cuối năm. Đêm ba mươi tháng chạp là đêm chuyển mình từ năm cũ sang năm mới. Trong nhà Phật thường ví đêm này như thời gian sắp tắt thở của chúng ta, chuyển mình từ thân cũ sang thân mới, hay từ thân tiền ấm chuyển sang thân hậu ấm. Từ cũ chuyển sang mới thì cái mới phải tốt đẹp hơn. Nhưng đó là còn trong vòng sanh tử. Nếu thân cũ này bại hoại đi, chúng ta được thảnh thơi giải thoát, đó mới đúng là người chân thật xuất gia, đúng là người cầu đạo giải thoát.
Mong rằng tất cả Tăng Ni và Phật tử được phước duyên lành sống trong nhà đạo, chúng ta phải nhớ đừng hủy hoại duyên lành của mình mà phải luôn luôn cố gắng. Trong năm cũ nếu chúng ta tạo được những gì hay đẹp thì hãy lấy đó làm nền tảng để sang năm mới càng hay đẹp hơn. Nếu trong năm cũ chúng ta đã lỡ gây ra những gì hư dở, thì sang năm mới chúng ta dứt khoát không tiếp tục làm những điều ấy nữa, mà phải chuyển sang làm những việc hay đẹp.
Nhân ngày cuối năm cũng là lúc chuẩn bị đón giao thừa, chúng ta nhắc nhở nhau tiến trên con đường đạo, gọi là tùy theo thế tục để trở về chân. Chúng tôi mong rằng tất cả quí Tăng Ni và Phật tử có mặt nơi đây và ở những nơi khác, không ủ dột âu sầu như năm cũ mà đều cố gắng chuyển mình từ năm cũ sang năm mới với gương mặt rạng rỡ hân hoan, để giữ vững những gì cao quí và hay đẹp của con người chúng ta.
RA KHỎI HẦM LỬA
Tết Kỷ Tỵ - 1989
Hôm nay Tăng Ni, Phật tử về đây để mừng năm mới và tha thiết chúc tụng chúng tôi. Thật ra chúng ta mừng thêm một tuổi hay buồn bớt đi một năm sống? Lần lượt hết năm này sang năm khác, cứ thế mà chúng ta trải qua mấy mươi năm từ thuở bé cho đến ngày nay. Riêng tôi thì tóc bạc da nhăn rồi, còn quí vị có người tóc đã bắt đầu bạc, cũng có người còn trẻ hơn. Trên con đường sanh tử, có người đi hơn nửa đường, có người đi nửa đường, có người mới đi một phần ba, một phần tư đường, đã đi thì nhất định là phải đến, không ai không đến. Thế nên trong nhà Phật lẽ sanh tử là một việc lớn. Vì sợ vô thường nửa chừng, qua được một năm là thấy mình sống thêm một tuổi, sang năm tới chưa biết có tròn được một năm không, nên năm mới mừng tuổi có nghĩa là mừng sống thêm một tuổi. Mừng thêm một tuổi là buồn bớt đi một năm sống, nhưng vì thêm một tuổi là qua được cái yểu và thêm cái thọ, nên tạm gọi đó là mừng.
Riêng chúng tôi, thấy Tăng Ni là những người mình cưu mang từ bao năm nay, chúng tôi muốn những người đó mỗi ngày một hay, mỗi ngày một cao thượng, mỗi ngày thêm sáng suốt, giác ngộ và giải thoát. Thế mà nhiều khi chúng tôi thấy có những người không tiến bao nhiêu, hi vọng được giải thoát nhưng lại trói buộc nhiều, muốn được giác ngộ nhưng ngọn đèn trí tuệ lu từ từ. Đó là những điều làm cho chúng tôi phải lo lắng. Vì vậy mỗi năm, chúng tôi đều nhắc nhở Tăng Ni và Phật tử, phải có cái nhìn xuyên suốt từ buổi ban sơ cho đến hiện nay, để thấy rõ bước tiến của mình mỗi năm mỗi khác, chớ không nên giậm chân một chỗ hoặc thối lui, vì như thế là điều đáng buồn. Đề tài tôi nhắc nhở quí vị hôm nay là Ra khỏi hầm lửa.
Nếu không có chủng duyên lành từ nhiều đời trước, chắc chúng ta khó có thể xuất gia, cạo tóc, ở chùa tu hạnh giải thoát. Từ khi lọt lòng mẹ đến khi khôn lớn, chúng ta có bổn phận đối với cha mẹ quyến thuộc và có trọng trách đối với gia đình, xã hội. Vậy mà chúng ta dứt bỏ được tất cả manh mối trói buộc để một mình an ổn thảnh thơi nơi đạo tràng tu hành thanh tịnh, đó là do đầy đủ phước duyên chớ không phải ai muốn cũng được. Đã có phước duyên lớn như vậy, chúng ta không nên chần chờ, thờ ơ để cho duyên tốt đó bị mai một, như thế là hủy hoại nhân lành đã gieo từ bao đời, đến nay mới được thành tựu. Là người từ trong trăm mối buộc ràng của gia đình, xã hội mà cắt đứt tất cả, ở yên tu hành chúng ta phải nhớ làm tròn bổn phận để khỏi hổ là mở việc này lại cột việc khác. Tránh sự bận rộn phiền toái của gia đình, vào chùa lại cũng phiền toái bận rộn, đó là điều sai lầm, không đúng tinh thần người học đạo.
Kinh Nguyên thủy có kể thầy Sa-di Sanu, đi tu từ thuở năm bảy tuổi cha mẹ gởi vào tinh xá ở với chư Tăng. Một thời gian sau, học hành khá thuyết pháp hay, nhưng không biết vì lý do gì thầy lui sụt tâm Bồ-đề, về xin mẹ hoàn tục. Bà mẹ là người tha thiết với đạo, thấy thầy chán nản việc tu hành nên bà buồn khóc. Thầy Sa-di lấy làm lạ hỏi:
Thưa mẹ người ta khóc,
Khóc vì người đã chết,
Hay có khóc người sống,
Khi sống không được thấy.
Thưa mẹ con đang sống,
Và mẹ đang thấy con,
Vậy vì sao thưa mẹ,
Mẹ lại khóc cho con?
Ý thầy muốn hỏi: Ở thế gian người ta khóc vì đau khổ khi con chết, hoặc vì còn sống mà phải chia tay mỗi người một nơi. Thầy còn sống và còn về gặp mẹ, vậy tại sao mẹ khóc. Bà mẹ đáp:
Người ta khóc cho con,
Là khóc khi con chết,
Hay khóc cho con sống,
Nhưng không được thấy mặt.
Ai đã bỏ dục vọng,
Lại trở lui đời này,
Này con, người ta khóc,
Là khóc cho người ấy,
Vì người ấy được xem,
Còn sống cũng như chết.
Này con, được kéo ra,
Khỏi than hầm lửa rực,
Con còn muốn rơi vào,
Đống than hồng ấy chăng?
Bà mẹ nói lý do quá rõ ràng: Không phải bà khóc vì con chết hay vì sống mà không thấy mặt nhau, mà khóc cho đứa con đã bỏ dục lạc thế gian, nay muốn trở lui lại, giống như kẻ đang sống mà thành chết. Khóc cái chết là khóc cho người bỏ tâm hồn trong trắng, sáng suốt, trở lại thành con người tối tăm u mê, chính đó là niềm đau khổ của bà mẹ. Thứ nữa bà thấy con mình xuất gia, chẳng khác nào người được kéo ra khỏi hầm lửa. Đã ra khỏi hầm lửa, nay lại nài nỉ xin trở vào, biết cái khổ đó, bà thương xót nên khóc. Đó là hai lý do khiến bà buồn khổ. Như thế đối với bậc cha mẹ biết đạo lý, khi thấy con đi tu, đã thâm nhập đạo lý và sống được trong đạo một thời gian thì niềm vinh hạnh của cha mẹ rất lớn, mừng con mình có hạnh xuất trần thoát tục, mừng con được rảnh rang nhàn hạ trong đạo đức, rồi mai kia sẽ làm lợi ích cho nhiều người. Khi con được cha mẹ đặt hi vọng, đặt niềm tin, nay trái lại muốn bỏ đạo lý để trở thành người thế tục, điều đó khiến cha mẹ đau khổ hơn lúc cho con đi tu. Một là nhục nhã vì con mình không tròn chí nguyện cao cả, hai là thương con đã có chí giải thoát xuất trần, đã được thảnh thơi nhàn hạ, nay lại trở thành người tầm thường, lăn trong trần tục, bị muôn mối buộc ràng. Vậy đã là người xuất gia chúng ta phải làm thế nào? Chần chờ để qua ngày tháng hay có niệm thối lui trở về tìm hưởng dục lạc? Hai quan niệm đó đều tội lỗi, đều gây khổ đau cho cha mẹ.
Thiền sư Đạo Ưng nói: “Các ông xuất gia như kẻ tội ra khỏi khám đường, nên ít muốn biết đủ, chớ tham danh lợi ở đời... được ở trong Phật pháp phải mười phần sống chín phần chết...” Lời nói của Ngài đơn giản, nhưng thấm thía biết bao! Người xuất gia không phải chỉ bỏ nhà cha mẹ vào trong chùa là đủ. Xuất gia có ba nghĩa, vượt ra khỏi nhà thế tục, vượt ra khỏi nhà phiền não và vượt ra khỏi nhà luân hồi trong Tam giới. Ngày xuất gia chúng ta thệ nguyện ra khỏi nhà phiền não, nhà trầm luân trong Tam giới, có khác nào ra khỏi khám đường. Đã ra khỏi khám đường mà còn nài nỉ xin trở vào thì có hợp lý không? Dĩ nhiên là không. Một lần ra khỏi vĩnh viễn không trở lại, đó mới là người khôn ngoan sáng suốt. Nếu ra rồi còn muốn trở lại thì thật là rất dại khờ, làm cho những người chung quanh nhìn chúng ta với đôi mắt thương xót. Đã ra khỏi khám đường rồi chúng ta phải làm gì nữa? Ngài nhắc nên ít muốn biết đủ, tức là bớt lòng tham lam, đừng muốn nhiều, đừng gây tạo nhiều, để có thì giờ tu hành. Dừng tâm tham muốn không chạy theo danh lợi, vì nó là sợi dây, là miếng mồi nhử chúng ta trở lại vòng đau khổ của khám đường. Muốn thực hiện bản nguyện ra khỏi vòng trầm luân Tam giới, Ngài dạy chúng ta ở trong Phật pháp, mười phần sống phải chết hết chín phần. Ngày nay chúng ta phải chết chín phần thế tục, chỉ còn một phần nhỏ là phải ăn phải mặc, phải tới lui qua lại, cái còn đó rất đơn giản, rất ít oi, chớ đừng sống trọn vẹn như người thế tục. Chính sự tinh tấn tu hành là gốc để chúng ta thoát ly Tam giới. Muốn được như thế chúng ta phải hạn chế những nhu cầu, những mong muốn. Chúng ta phải bớt đi, càng bớt nhiều thì tinh thần tu hành càng tăng trưởng. Trái lại chúng ta cứ đòi hỏi, cứ chạy theo chúng thì tinh thần tu hành ngày càng giảm sút. Thế nên Ngài dạy mười phần sống phải chết chín phần.
Trong kinh Tứ Thập Nhị Chương, đức Phật cũng đã từng dạy: “Người xuất gia ra khỏi dục lạc của thế gian, chẳng khác nào người khạc đàm dãi nhổ xuống đất.” Khi khạc đàm dãi nhổ xuống đất rồi, chúng ta có muốn ngó lại nó không? Chắc gớm lắm, không muốn ngó lại. Ngó lại còn không muốn, huống nữa lấy tay sờ, lấy lưỡi liếm. Cũng thế, người đã xuất gia, thấy rõ những cái dở, cái xấu, cái hại của thế gian, thì phải dứt khoát vượt ra khỏi trần lao để làm lợi ích cho mọi người, nói cách khác là để dìu dắt mọi người cùng ra khỏi trần lao. Thế nên chúng ta không thể xem thường, phải thấy dục lạc thế gian là mối họa lớn cần phải tránh, cần phải không nhìn đến thì mới có thể vươn lên được. Nếu còn ưa thích, còn mơ ước nó, chúng ta sẽ chìm đắm, đau khổ.
Sư ni Subha nói lại việc tu hành của bà trong một bài kệ dài, tôi dẫn một đoạn:
Dục làm cho điên cuồng,
Loạn ngôn tâm thác loạn,
Làm uế nhiễm chúng sanh,
Sắp rơi bẫy ác ma.
Dục nguy hiểm không cùng,
Nhiều khổ, thuốc độc lớn,
Ngọt ít, tạo đấu tranh,
Héo tàn ngày tươi sáng.
Ta quyết định như vầy:
Không trở lui dục nhân,
Tác thành điều bất hạnh,
Luôn vui hưởng Niết-bàn...
Bà biết rõ dục lạc làm cho chúng sanh điên cuồng, nói những lời không đúng lẽ thật, nên gọi là loạn ngôn. Dục lạc làm cho tâm chúng sanh thác loạn ô uế, nhiễm nhơ rồi dẫn dắt, lôi chúng sanh vào bẫy của ác ma, bị trói buộc trong vòng ma. Dục lạc nguy hiểm không thể nào kể hết, nó tạo nhiều khổ, là thuốc độc, là nhân của đấu tranh. Chúng ta cãi nhau giành giật nhau vì dục lạc. Chính vì tìm kiếm, theo đuổi dục lạc mà thân chúng ta héo tàn, kiếp sống trở nên khô khan, không tươi sáng. Biết như thế chúng ta quyết định không trở lại với dục lạc, vì đó là nhân gây bất hạnh, đau khổ. Mục tiêu chánh yếu của người tu là dứt hết nhân khổ đau, tiến tới an lạc Niết-bàn thanh tịnh. Không phải chỉ riêng bản thân chúng ta hết khổ, được vui, chúng ta sẽ chỉ cho bằng hữu, cho huynh đệ, cho mọi người chung quanh cũng hết khổ, được an vui. Nếu chúng ta càng tu càng phiền não, càng héo hắt khổ đau, làm sao có thể đưa mọi người đến chỗ an vui? Thế nên chủ yếu là chúng ta phải tự mình bỏ hết những mầm khổ đau để được an lạc tự tại, rồi hướng dẫn mọi người cùng an vui. Đó mới thật là người tu chân chánh, mới thật đạt được sở nguyện của người xuất gia.
Sơ tổ Trúc Lâm có bài phú “Cư Trần Lạc Đạo” bằng chữ nôm, đây là một đoạn trong hội thứ mười:
“... Núi hoang rừng quạnh, ấy là nơi dật sĩ tiêu dao.
Chiền vắng am thanh, chính thật cảnh đạo nhân du hí.
Ngựa cao tán cả, Diêm vương nào kể đứa nghênh ngang;
Gác ngọc lầu vàng, ngục tốt thiếu chi người yêu quí.
Chuộng công danh, lồng nhân ngã, thật ấy phàm phu;
Say đạo đức, dời thân tâm, định nên thánh trí.
Mày ngang mũi dọc, tướng lạ xem ắt bẵng nhau;
Mặt Thánh lòng phàm, thực cách nhẫn vàn vàn thiên lý...”
Người tu phải ở chỗ nào? “Núi hoang rừng quạnh, ấy là nơi dật sĩ tiêu dao”, những kẻ ẩn sĩ lúc nào cũng thảnh thơi nơi núi hoang rừng rậm. “Chiền vắng am thanh” tức là chùa ở chỗ vắng vẻ, am ở chỗ yên tĩnh; “chính thật cảnh đạo nhân du hí”, du hí là dạo chơi, bậc đạo nhân dạo chơi chỗ chùa vắng am thanh. “Ngựa cao tán cả, Diêm vương nào kể đứa nghêng ngang”, dù được ngồi ngựa cao, che tán lớn việc đó trên thế gian thấy như nghênh ngang đắc thế lắm, nhưng vua Diêm vương có sợ không? Tới ngày cũng lôi mình xuống dưới, chớ không ai tránh được. “Gác ngọc lầu vàng, ngục tốt thiếu chi người yêu quí”, người ở gác ngọc, lầu vàng là bạn yêu quí của ngục tốt, của ngưu đầu mã diện. Tại sao? Vì chính đó là gốc của ái nhiễm, người ái nhiễm là bạn để cho ngục tốt hay ngưu đầu mã diện lôi xuống dưới chơi với nó. Như vậy hai trường hợp: trường hợp được ngựa cao tán cả cũng không thoát khỏi tay Diêm vương, trường hợp được gác ngọc lầu vàng thì làm bạn với ngưu đầu mã diện. “Chuộng công danh, lồng nhân ngã, thật ấy phàm phu”, nếu tu mà còn quí mến công danh, còn ưa thích nhân ngã, quả thật chúng ta là kẻ phàm phu. Trái lại “say đạo đức, dời thân tâm, định nên thánh trí”, ở trong đạo, người nào tu hành say mê thích thú, thân tâm luôn đổi thay, ngày xưa một trăm phần phiền não, tu một năm còn chín chục phần, tu hai năm còn tám chục phần, tu mười năm thì hoàn toàn trong sạch, người đó mới thật là người tốt. Chính việc dời đổi thân tâm là điều quyết định để trở nên con người thánh trí. Như vậy phàm phu là vì chuộng công danh, lồng nhân ngã, thánh trí là vì biết mến đạo đức, biết sửa đổi thân tâm. Chúng ta muốn làm phàm hay Thánh đều tùy theo tâm niệm của mình. “Mày ngang mũi dọc, tướng lạ xem ắt bẵng nhau”, bất cứ ai dù đẹp dù xấu dù trắng dù đen... chân mày cũng ngang mũi cũng dọc xuống. Thấy dường như lạ nhưng đều bẵng nhau nghĩa là giống nhau hết. “Mặt Thánh lòng phàm thật cách nhẫn vàn vàn thiên lý”. Bài này dùng chữ mặt, chỗ khác viết lòng phàm, lòng Thánh. Tuy về thân, dáng vẻ đồng nhau nhưng về tâm, tâm phàm, tâm Thánh cách nhau muôn trùng. Câu nói gọn hơn là “như nhau dọc mũi ngang mày, lòng phàm lòng Thánh cách nhau ngàn trùng”. Như vậy ai cũng mày ngang mũi dọc giống hệt nhau, nhưng tâm hồn của người nhiễm ô trần tục và tâm hồn người được thanh thoát, tiêu dao trong cảnh thanh tịnh thì cách biệt nhau muôn trùng. Vậy tất cả chúng ta, ai là người có chí tu hành, phải cố gắng đạt cho kỳ được sự cao cả, sự thanh thản đó, đừng để trở thành kẻ phàm phu tục tử đáng chê, đáng trách.
Tôi nhắc lại một lần nữa, tất cả chúng ta đã có phước duyên lành nhiều đời nên ngày nay mới được vào đạo, xuất gia, tu hạnh giải thoát. Đó là phước đức lớn, vinh dự lớn của mình, đã được thì nên giữ và cố gắng làm tăng trưởng thêm. Có nhiều người cũng muốn xuất gia, được thong thả tu hành như chúng ta, nhưng duyên của họ chưa đến. Vậy chúng ta phải cố gắng mỗi ngày mỗi tiến, đừng đứng nguyên một chỗ, cũng đừng lui sụt.
Tôi dẫn thêm bài kệ “Sơn Phòng Mạn Hứng” của Sơ tổ Trúc Lâm, quí vị nghe rồi ứng dụng đúng như tinh thần này:
Thị phi niệm trục triêu hoa lạc,
Danh lợi tâm tùy dạ vũ hàn.
Hoa tận vũ tình sơn tịch tịch,
Nhất thanh đề điểu hựu xuân tàn.
Dịch:
Phải trái rụng theo hoa buổi sớm.
Lợi danh lạnh với trận mưa đêm,
Hoa tàn, mưa tạnh, non im lắng,
Xuân cỗi còn dư một tiếng chim.
Đỗ Văn Hỷ
Phải trái rụng theo hoa buổi sớm, buổi sáng nhìn xuống gốc mai, chúng ta thấy mai rã cánh rất nhiều. Chúng ta tu thế nào mà bao nhiêu điều thị phi rụng như những cánh hoa lả tả rơi buổi sớm, chớ không dính chặt, dính cứng trong tâm mình.
Lợi danh lạnh với trận mưa đêm, mùa thu có những trận mưa đêm tầm tã, gió lạnh. Tâm danh lợi của mình cũng phải lạnh như vậy, lạnh không còn một chút hơi ấm nào.
Hoa tàn, mưa tạnh, non im lắng, hoa tàn, mưa tạnh thì còn cái gì? Còn một ngọn núi im lắng xanh rì. Cũng thế, tâm thị phi đã rụng hết, tâm danh lợi đã lạnh hết, lúc đó vẫn còn Tâm thể thanh tịnh bất sanh bất diệt. Và còn điều gì nữa?
Xuân cỗi còn dư một tiếng chim, tuy mùa xuân tàn rồi mà còn một tiếng chim hót. Thật đẹp làm sao! Tu hành phải như vậy, phải làm sao mà thị phi rụng hết như hoa buổi sớm, danh lợi lạnh ngắt như mưa đêm. Được như vậy sớm muộn gì cũng giải thoát. Mong rằng tất cả Tăng Ni cũng như Phật tử có được tâm niệm như ngài Điều Ngự Giác Hoàng đã nhắc trong bài kệ “Sơn Phòng Mạn Hứng”.
Hôm nay là ngày đầu năm Kỷ Tỵ, tôi có đôi lời nhắc nhở chung cho Tăng Ni và Phật tử. Mong rằng tất cả hãy ghi nhớ ý của chư Tổ, các bậc tu hành trước, lấy đó làm kinh nghiệm mà cố gắng học rồi làm theo gương người xưa, để xứng đáng là người xuất gia làm tròn sở nguyện của mình, hầu trên đền đáp bốn ân, dưới cứu giúp ba cõi. Đó cũng là sở nguyện của chúng tôi.