TINH THẦN GIẢI THOÁT
TRONG GIÁO LÝ PHẬT-ĐÀ
Xuân Mậu Thìn - 1988
Hôm nay là ngày Tết Nguyên Đán năm Mậu Thìn, tất cả Tăng Ni và Phật tử về đây mừng tuổi chúng tôi. Chúng tôi nghĩ mồng một Tết không gì hơn là nhắc lại mục đích tối thượng của người tu Phật. “Ôn cố tri tân” là nhắc lại việc cũ để cùng nhớ, biết những điều mới để chúng ta thực hiện cho kỳ được. Đề tài chúng tôi nói hôm nay là Giải thoát.
Trong kinh đức Phật đã dạy: “Tất cả nước biển chỉ có một vị là vị mặn, tất cả giáo pháp của ta chỉ có một vị là vị giải thoát.” Như vậy mục tiêu tối thượng của người tu Phật là lấy sự giải thoát làm cứu kính. Nếu không nắm vững ý nghĩa giải thoát thì trên đường tu chúng ta khó đạt được mục đích của mình. Giải thoát là giải thoát những gì?
Nói đến giải thoát, chúng ta phải thấy nghĩa trái của nó. Trái với giải thoát là gì? Là triền phược tức trói buộc. Vì thấy bị trói buộc nên chúng ta cầu giải thoát. Trong vòng vây của phiền não, không làm sao tự thoát ra được nên chúng ta phải nương giáo pháp đức Thế Tôn chỉ dạy để thoát khỏi trần lao phiền não. Giải thoát có nghĩa là cởi mở, là mở trói, là tự do. Khi ở trong hoàn cảnh bị trói buộc, chúng ta khao khát được cởi mở. Ở trong hoàn cảnh bị gò bó hết sức chật hẹp, chúng ta muốn được tự do, được thoát ra ngoài. Vì vậy nói đến giải thoát là khi đang bị bủa vây ép ngặt, chớ không phải đang tự do tự tại. Bủa vây ép ngặt tức nhiên là khổ đau. Nói rõ hơn ý nghĩa giải thoát là giải thoát nỗi khổ đau của kiếp người.
Đi sâu vào vấn đề giải thoát, tại sao chúng ta cầu giải thoát? Và giải thoát như thế nào? Chúng ta phải nhìn thật kỹ, thấy thật rõ những điều đang trói buộc, đang làm mình đau khổ để từ đó cầu giải thoát. Mỗi khi lễ Phật nguyện hương, chúng ta đều nguyện đức Thế Tôn gia bị cho chúng con giải thoát hết khổ đau, dẹp sạch hết phiền não. Như vậy dẹp phiền não, dứt khổ đau là nhờ sự gia bị của đức Phật. Nhưng sự thật đức Phật có làm cho chúng ta giải thoát được không? Đó là một vấn đề. Hơn nữa, có nhiều người nghĩ rằng nói tới giải thoát là nói một việc gì xa xôi cao cả lắm, mình không bao giờ với tới được. Nói tới giải thoát là nói chuyện của những bậc Thánh chớ không phải của kẻ phàm. Cho nên khi nói tu với mục đích giải thoát, chúng ta xem như chuyện không bao giờ có, không bao giờ đến được, rồi tự khi mình và lui sụt, đó là bệnh.
Thuở xưa ở Trung Hoa có Thượng tọa Minh và Thượng tọa Thâm cùng đi qua sông Hoài. Khi ngồi đò sang sông, hai vị thấy nhiều người đánh cá đang kéo lưới. Lúc lưới kéo gần đến bờ, có một con cá từ trong lưới nhảy vọt ra ngoài. Thượng tọa Minh vỗ tay khen: “Hay thay! Giống như người xuất gia.” Thượng tọa Thâm bèn nói: “Đâu có hay gì, phải ở ngoài lưới mới hay chứ!” Thượng tọa Minh bảo: “Thế là huynh Thâm chưa hiểu.” Đi được một đoạn đường xa, Thượng tọa Thâm mới bừng hiểu mình đã sai.
Qua câu chuyện trên, chúng ta thấy thế nào? Thượng tọa Thâm nói cũng có lý, đợi ở trong lưới mới nhảy ra chi bằng ở ngoài lưới chẳng thích hơn sao. Nhưng tại sao Thượng tọa Minh lại nói huynh Thâm chưa hiểu? Như chúng tôi đã định nghĩa, đang bị trói buộc ép ngặt, thoát được sự trói buộc ép ngặt gọi đó là giải thoát. Nếu không bị trói buộc, không bị ép ngặt còn nói giải thoát làm gì? Như con cá đang bị lưới bủa vây, không có lối thoát nó mới nhảy vọt lên để ra khỏi vòng lưới, đó là nó giải thoát được mành lưới. Nếu ở ngoài lưới rồi, nó đâu cần nhảy chi nữa. Cũng vậy, nếu chúng ta là Thánh rồi, không có phiền não, không có khổ đau, nói tu để giải thoát có đúng không? Hẳn là không vậy. Sở dĩ nói tu, nói cầu giải thoát là vì chúng ta bị phiền não, bị trói buộc nhiều bởi những tâm niệm xấu xa đen tối mà chính mình chưa chinh phục được. Vì thế chúng ta phải cố gắng nỗ lực bứt cho đứt hết mọi sợi dây phiền não, để nhảy tung ra một chân trời mới, đó gọi là giải thoát. Tóm lại, đang bị bao vây, đang bị đau khổ, chúng ta mới nói đến giải thoát. Đó là ý nghĩa câu chuyện của hai vị Thượng tọa khi xưa.
Sau này, Thiền sư Khuê ở Cổ Sơn bình câu chuyện đó bằng bốn câu tụng:
Võng trung đào xuất tiện nghi đằng,
Hà cá thiên nhiên tuấn nạp tăng.
Hà tợ đương sơ vị nhập võng,
Ngộ lai phương thủy thị tri âm.
Dịch:
Nhảy ra khỏi lưới lại bay xa,
Nào phải thiên nhiên bậc tác gia.
Đâu giống buổi đầu chưa vào lưới,
Tỉnh ra mới biết thật người nhà.
Nhảy ra khỏi lưới lại bay xa: Diễn tả hình ảnh con cá khi vượt ra khỏi lưới, nó bơi lội tung tăng, không dám lẩn quẩn ở đó nữa.
Nào phải thiên nhiên bậc tác gia: Bậc tác gia là người tu đạt đạo. Người đạt đạo không tự có sẵn, mà do công phu huân tu khó nhọc để chinh phục nội tâm của mình. Có vị Phật, vị Bồ-tát, vị A-la-hán nào bỗng dưng thành Phật, thành Bồ-tát, thành A-la-hán chăng? Chắc hẳn là không! Thành A-la-hán, thành Bồ-tát hay thành Phật gốc từ công phu tu hành, vượt khỏi phiền não, chinh phục được nội tâm của mình. Sau đó mới gọi là bậc tác gia, mới thành A-la-hán, mới chứng quả Bồ-đề, không phải bỗng dưng mà được. Nếu chúng ta quan niệm không cần tu, tự nhiên được kết quả, điều đó không bao giờ có.
Ý của Thượng tọa Thâm nói phải ở ngoài lưới, không đợi vô lưới mới nhảy ra cho phí công, nên câu sau nói: Đâu giống buổi đầu chưa vào lưới: Buổi đầu không vào lưới mới sung sướng, mới an ổn. Quan niệm như vậy là không đúng.
Tỉnh ra mới biết thật người nhà: Khi thức tỉnh rồi mới biết Sư huynh của mình nói hợp lý. Chúng ta đang ở trong vòng vây của phiền não, cám dỗ của sáu trần, khi thoát ra được mới gọi là giải thoát. Đó chính là sức mạnh của người tu. Nếu không như vậy thì không nói xuất gia làm gì.
Việc giải thoát có những trình tự cao thấp sai khác, không phải thuần như nhau. Các kinh theo tinh thần Nguyên thủy và các kinh theo tinh thần Phát triển nói về giải thoát khác nhau. Theo tinh thần Nguyên thủy, kinh A-hàm có câu chuyện ngài Phú-lâu-na đến hỏi Phật: “Bạch Thế Tôn, xin Thế Tôn dạy cho pháp yếu để con đến chỗ vắng vẻ tu hành.” Đức Phật liền dạy: “Nếu mắt thấy sắc không đuổi theo, không chấp chặt, đó là gần với Niết-bàn. Ngược lại nếu mắt thấy sắc mà đuổi theo, chấp chặt đó là xa với Niết-bàn. Lỗ tai nghe tiếng, lỗ mũi ngửi mùi, thân xúc chạm, ý duyên với pháp trần nếu không đuổi theo, không chấp chặt là gần với Niết-bàn, còn đuổi theo, chấp chặt đó là xa Niết-bàn.” Khi nhận được pháp yếu rồi, ngài Phú-lâu-na đi đến chỗ vắng vẻ tu hành. Chỉ trong vòng ba tháng, Ngài đắc quả A-la-hán. Như vậy pháp yếu đức Phật dạy tu để giải thoát đâu có khác với chúng ta, sáu căn tiếp xúc với sáu trần mà không đuổi theo, không dính mắc hay chấp chặt đó là giải thoát. Nếu đuổi theo, nếu chấp chặt đó là trầm luân. Trầm luân hay giải thoát rất đơn giản, không đợi tới kiếp nào khác, mà ngay nơi hiện tại mắt thấy sắc, tai nghe tiếng, mũi ngửi mùi, lưỡi nếm vị, thân xúc chạm, ý duyên với pháp trần, chúng ta không đuổi theo, không dính mắc, ngay đó chúng ta đã giải thoát rồi. Giải thoát không phải là chuyện xa vời, không với tới được, mà chính là thực tế, cụ thể. Ngay nơi chúng ta ai cũng có khả năng giải thoát. Có người nào nghĩ rằng việc đó mình không thể làm nổi không? Ai cũng có thể làm được. Vì vậy nói đến tu giải thoát mới nghe tưởng như xa vời, cao siêu tuyệt đỉnh, nhưng sự thật hết sức gần gũi, hết sức thực tế. Ngược lại sự trầm luân cũng không xa lạ. Nếu mắt đuổi theo sắc rồi bám chặt vào sắc, tai đuổi theo tiếng rồi bám chặt vào tiếng v.v… đó chúng ta là trầm luân.
Trong kinh A-hàm, đức Phật kể một câu chuyện cho chư Tỳ-kheo nghe: Có một bầy khỉ, khỉ chúa dạy những khỉ nhỏ: Các ngươi đi ăn phải theo lệnh của ta chỉ dẫn, đừng tẽ đoàn đi lang thang sẽ bị nguy hiểm. Khỉ chúa khôn ngoan biết chỗ nào có bẫy rập, có thợ săn, nó tránh né không cho đoàn khỉ tới những chỗ ấy. Nhưng trong đoàn có một con khỉ hơi ngạo mạn lại tham ăn, nó nghĩ nếu đi theo đoàn mình ăn uống không được đầy đủ, chi bằng tách riêng kiếm thức ăn một mình, tha hồ ăn uống no nê. Nó tách đoàn đi đến một chỗ kia, chẳng may gặp người thợ săn dùng cây nhựa để bẫy khỉ. Cây nhựa rất dẻo và chắc, bên cạnh cây nhựa có để miếng mồi nhử khỉ. Khỉ con dại khờ thấy mồi mừng quá, nhảy tới chụp. Vừa đưa tay mặt chụp mồi liền bị nhựa dính, tay trái chụp vào để gỡ bị dính luôn. Thế là hai tay đều bị dính nhựa. Nó đưa chân mặt vô để quào dính chân mặt, đưa chân trái quào dính chân trái. Như vậy là hai tay hai chân đều bị dính. Nó cúi đầu xuống cạp gỡ cũng bị dính luôn. Chỉ còn cái đuôi ngoắt ngoắt, nó cố gắng vùng vẫy để quật cái bẫy ra cũng bị dính luôn. Như vậy hai tay, hai chân, đầu và đuôi đều bị dính nhựa không thoát thân được. Lúc ấy người thợ săn đến lượm khỉ bỏ vô giỏ đem về.
Qua câu chuyện trên, đức Phật muốn dạy chúng ta điều gì? Vì quyền lợi vì thích thụ hưởng, con khỉ tách đoàn ra đi, nên bị thợ săn đánh bẫy. Khi sáu bộ phận bị dính bẫy rồi, người ta bắt đem về dễ dàng không còn ai cứu được. Cũng vậy, người xuất gia ở trong đoàn thể Tăng hay Ni, có vị thầy chỉ dạy hướng dẫn, nhưng họ thích thụ hưởng riêng, thích làm theo ý mình, dù thiếu kinh nghiệm mà vẫn đi ra ngoài. Khi ra ngoài, mắt thấy sắc liền nhiễm sắc, tai nghe tiếng liền nhiễm tiếng, cho đến sáu căn bị cột dính với sáu trần. Lúc đó Ma vương dẫn đi một cách dễ dàng, như chú thợ săn lượm con khỉ bỏ vào giỏ một cách dễ dàng, không khó khăn chút nào.
Khi sáu căn dính với sáu trần, chúng ta lọt vào bàn tay của ai? Của Ma vương. Lọt vào bàn tay của Ma vương rồi, khó hi vọng được giải thoát. Vì vậy người tu muốn được giải thoát phải gan dạ như lời đức Phật dạy: Sáu căn tiếp xúc với sáu trần đừng đuổi theo, đuổi theo là tham cầu; đừng dính mắc, dính mắc là nhiễm trước. Không tham cầu, không nhiễm trước, tức nhiên chúng ta được giải thoát, sự giải thoát đến với chúng ta hết sức dễ dàng. Nếu chúng ta đuổi theo sáu trần là tham cầu, dính mắc nó là nhiễm trước, khi ấy có vùng vẫy mấy cũng khó thoát khỏi bàn tay của Ma vương.
Người tu muốn được giải thoát không phải là chuyện xa xôi, mà chính là chuyện thực tế trong cuộc sống hằng ngày. Nếu một người sáu căn tiếp xúc với sáu trần không dính không mắc, không đuổi theo, người ấy có hào quang chưa? Đâu có, chỉ là không dính mắc sáu trần thôi. Người ấy có biết chuyện quá khứ, vị lai chưa? Đâu biết quá khứ, vị lai gì. Nhưng người ấy có giải thoát thật chưa? - Có. Như vậy không phải có hào quang, không phải biết quá khứ vị lai mới giải thoát, mà chính sáu căn không bị sáu trần lôi cuốn, cột trói, đó là giải thoát. Sáu trần cột trói mình hay mình cột vào nó? Sự thật là mình cột vào sáu trần, nghĩa là thấy nó ta đuổi theo rồi bám chặt vào nó, đó là dính mắc vào sáu trần, rồi than van cầu xin Phật Trời cứu giúp. Ai trói buộc mà mình kêu cứu, thắp hương cầu giải thoát? Phật bảo buông mà chúng ta nắm chặt quá, kẹt tay trong đó, rồi than Phật Trời không cứu! Muốn cứu chúng ta, đức Phật dạy: “Ngươi chịu khó buông đi.”
Chúng ta thật giống như đứa bé thò tay vào hũ kẹo. Khi tay không nó thò vào hũ được, nhưng vì thích kẹo quá nên nắm đầy cứng, rút tay ra không được rồi kêu khóc. Mẹ thương con, bảo: “Con buông đi, tay không rút ra dễ dàng, chớ có khó gì.” Như vậy thuật giải thoát là gì? Chỉ một cái buông, nếu tay cứ nắm đầy kẹo, làm sao mẹ cứu con được!
Đức Phật bảo chúng ta đừng dính với sáu trần, các Thiền sư cũng dạy buông đi, hiện nay chúng tôi cũng nhắc quí vị đừng chạy theo sáu trần. Câu nói hết sức đơn giản mà tràn đầy tinh thần giải thoát. Nếu khéo một chút, gan dạ một chút, đừng tiếc, như đứa bé không tiếc kẹo, thì lấy tay ra dễ dàng, không phải than khóc.
Trên đường tu, chính vì cầu giải thoát, chúng ta đừng tham luyến, đừng đắm trước sáu trần. Không tham luyến, không đắm trước sáu trần là nhân của giải thoát, chớ không tìm điều gì khác lạ. Không phải có thần thông, không phải biết quá khứ vị lai, không phải có hào quang sáng chói mà giải thoát được. Các quỉ thần cũng có hào quang, biết quá khứ vị lai, nhưng vẫn không giải thoát. Lý giải thoát của đạo Phật vừa cụ thể vừa thực tế mà cũng rất dễ dàng. Chỉ cần đừng làm đứa bé tham kẹo thôi, nếu tham kẹo thì khó, không tham kẹo thì dễ. Tất cả quí vị xuất gia và tại gia có ai nghĩ mình ngu khờ như đứa bé ham kẹo đó không? Tất nhiên không ai ngu khờ như vậy, chỉ cần buông thì lấy tay ra dễ dàng. Đức Phật đã dạy: “Các ngươi buông đi, đừng dính với sáu trần, đó là giải thoát.” Nếu chúng ta không chịu buông, mà cầu xin Phật giúp con được giải thoát, thì giống như đứa bé tham ăn kẹo vậy. Buông đi thì hết đau khổ. Đây là giải thoát theo tinh thần Nguyên thủy.
Kế đến, chúng tôi nói sự giải thoát trong nhà thiền. Ngày xưa, có một Thiền khách đến hỏi Thiền sư Huệ Hải: “Thế nào là giải thoát?” Ngài Huệ Hải trả lời: “Căn trần không dính nhau là giải thoát.” Câu trả lời hết sức đơn giản! Sáu căn không dính mắc sáu trần, đó là giải thoát. Câu trả lời vừa đơn giản vừa thực tế, nhưng mới nghe qua chúng ta thấy khó hiểu. Vì sao? Vì chúng ta tưởng tượng giải thoát rất xa vời, phải có thần thông biến hóa, đi đến các cõi trời v.v…, không ngờ sáu căn không dính với sáu trần là giải thoát. Sự thật quá đơn giản này làm người đọc sách thiền cho là khó hiểu.
Câu chuyện thứ hai trong nhà thiền là: Tổ Đạo Tín khi còn Sa-di đến hỏi đạo với Tổ Tăng Xán: “Bạch Hòa thượng, làm sao được giải thoát?” Tổ Tăng Xán liền hỏi: “Ai trói buộc ngươi?” Ngài Đạo Tín đáp: “Không ai trói buộc cả.” Tổ Tăng Xán bảo: “Cầu giải thoát làm gì?” Ngài Đạo Tín liền nhận được lý giải thoát. Ngài quan niệm như chúng ta hiện giờ, nghĩ mình đang bị trói buộc, đang bị bủa vây rất khổ sở, nên mới cầu giải thoát. Nhưng chúng ta phải nhìn thẳng xem cái gì trói buộc, cái gì bủa vây mình? Nếu nhìn thẳng không thấy cái gì trói buộc, cái gì bủa vây cả, ngay đó chúng ta được giải thoát rồi. Câu chuyện đối đáp giữa Tổ Tăng Xán và Tổ Đạo Tín nói lên ý nghĩa đó: “Không ai trói buộc thì cầu giải thoát làm gì?” Chúng ta nghĩ rằng những phiền não, những tâm niệm đen tối xấu xa đang trói buộc chúng ta nên cầu giải thoát. Nhưng Tổ bảo chúng ta nhìn thẳng xem những phiền não, những tâm niệm ấy có thật sự trói buộc mình hay không? Khi nhìn thẳng lại chúng nó liền biến mất, còn gì nữa mà cầu giải thoát!
Cũng chính với tinh thần này Tổ Bồ-đề-đạt-ma đã dạy Tổ Huệ Khả pháp an tâm. Tổ Huệ Khả than: “Tâm con bất an, xin Hòa thượng dạy con pháp an tâm.” Tổ Bồ-đề-đạt-ma bảo: “Đem tâm ra ta an cho.” Tâm bất an của Tổ Huệ Khả là tâm gì? Tâm phiền não, tâm trói buộc, tâm xấu xa. Các tâm đó đang làm cho Ngài bất an nên Ngài cầu được an tâm, cũng như Tổ Đạo Tín cầu được giải thoát. Khi ấy Tổ Bồ-đề-đạt-ma chỉ cần bảo “đem tâm ra ta an cho”, ngài Huệ Khả nhìn sững lại xem tâm ra làm sao mà đem. Nhìn sững lại thì nó mất tiêu, nó tan hoang không còn, Ngài liền trả lời: “Con tìm tâm không được.” Tổ Bồ-đề-đạt-ma bảo: “Ta đã an tâm cho ngươi rồi.” Như vậy pháp an tâm của Tổ Đạt-ma và “cầu giải thoát làm gì” của Tổ Tăng Xán có khác nhau không? Thật là không hai, hình thức có khác, nhưng tinh thần không khác. Tổ Tăng Xán chỉ cho Tổ Đạo Tín con đường giải thoát bằng cách nhìn lại xem cái gì trói buộc mình. Nhìn lại không thấy có gì trói buộc, ngay đó đã giải thoát rồi.
Chúng tôi hiện nay sống cách xa Tổ hơn ngàn năm, chúng tôi dạy quí vị tu phải làm gì? Quí vị nghĩ rằng các phiền não làm cho mình khổ đau, buồn phiền, bực bội. Chúng tôi bảo quí vị hãy buông các thứ phiền não ấy đi. Nhìn lại nó, thấy biết mặt thật của nó rồi, buông đi đừng theo thì hết phiền não, hết khổ đau, đó là tu vậy. Việc này đâu có khác với lời dạy người xưa bao nhiêu. Tinh thần giải thoát nằm ngay chỗ nhìn thẳng, thấy mặt thật của những phiền não. Thấy được mặt thật của chúng rồi, tự chúng tan hoang. Nói biết vọng, nói buông đi là một lối nói thôi. Sự thật nhìn lại thấy nó thì nó đã mất hết rồi, còn gì nữa mà phải biết, còn gì nữa mà phải buông. Đây là trọng tâm chỉ dạy của Thiền tông. Trọng tâm này, chính Tổ Bồ-đề-đạt-ma đã dạy Tổ Huệ Khả, Tổ Tăng Xán đã dạy Tổ Đạo Tín. Đó là chủ đích chúng tôi muốn chỉ cho quí vị.
Các Tổ dạy chúng ta tu giải thoát đúng với tinh thần đức Phật đã nói: “Tất cả nước biển chỉ có một vị, vị mặn; tất cả giáo pháp của ta chỉ có một vị, vị giải thoát.” Như đoạn trên đã nói sáu căn tiếp xúc với sáu trần, không dính không mắc là giải thoát. Đoạn này Tổ dạy nhìn các tâm niệm đang chạy theo sáu trần, biết chúng không thật, đó là giải thoát. Đoạn trước nói về các căn bên ngoài không cho dính với trần cảnh, đoạn này nói về các tâm niệm bên trong. Ngay từ cội gốc, các tâm niệm vừa dấy khởi chạy theo cảnh, chúng ta biết sự thật về chúng nó thì chúng tan hoang ngay từ trứng nước. Chúng ta dẹp các tâm niệm ngay lúc còn trong bào thai, không đợi nó dính với cảnh mới tháo gỡ. Như vậy sự giải thoát này là ngay bên trong, sâu hơn và tế nhị hơn. Giải thoát theo tinh thần Nguyên thủy là sáu căn không dính mắc với sáu trần. Giải thoát theo tinh thần nhà thiền là dẹp các tâm niệm ngay khi còn trong trứng nước. Các niệm vừa dấy khởi đã bị tiêu diệt ngay, không có niệm đuổi theo trần cảnh. Mắt thấy sắc không dính với sắc, tai nghe tiếng không dính với tiếng, mũi ngửi mùi không dính với mùi… Các niệm đã diệt rồi, lo gì chúng ra nơi mắt, nơi tai, nơi mũi mà dính với sáu trần được. Đó là chủ yếu của Tổ sư Thiền.
Để hiểu rõ hơn tinh thần giải thoát trong nhà thiền, chúng tôi xin dẫn bài kệ “Sơn Phòng Mạn Hứng” của một Thiền sư đời Trần ở Việt Nam, ngài Điều Ngự Giác Hoàng, tức vua Trần Nhân Tông:
Thùy phược cánh tương cầu giải thoát,
Bất phàm hà tất mịch thần tiên.
Viên nhàn, mã quyện nhân ưng lão,
Y cựu vân trang nhất tháp thiền.
Dịch:
Ai trói lại mong cầu giải thoát,
Chẳng phàm nào phải kiếm thần tiên.
Vượn nhàn, ngựa nhọc, người cũng lão,
Như cũ am mây một giường thiền.
Ngài Trần Nhân Tông nói rất rõ: Chúng ta cầu giải thoát vì thấy bị trói buộc, nhưng ai trói buộc ta? Chẳng qua là những tâm niệm tham mê đắm trước trói buộc chúng ta. Những tâm niệm ấy vừa dấy lên, chúng ta thấy nó rồi, tức thì nó tan hoang, còn ai trói buộc mình mà cầu giải thoát? Biết các tâm niệm là tạm bợ, hư dối, chúng ta không chạy theo nó, đó là giải thoát.
Hơn nữa, nói trói buộc là trói buộc thân năm uẩn này, còn một cái không bao giờ bị trói buộc, đó là cái gì? Đó là cái không tên. Cái đó không phải phàm, không phải Thánh. Không phải phàm, cầu thành tiên làm gì? Không phải phàm, cần cầu Thánh hay không? Sở dĩ chúng ta muốn được thành Thánh vì thấy mình là phàm. Cái đó không phải phàm, tức nhiên không cầu thành Thánh, cũng không cầu thành thần tiên chi nữa.
Vượn nhàn, ngựa nhọc, người cũng lão: Vượn chỉ cho các niệm dấy khởi của chúng ta lăng xăng như khỉ vượn. Ngựa chỉ cho ý rong ruổi bên ngoài. Tâm viên ý mã đã yên rồi, không còn lăng xăng nữa, khi ấy chúng ta cũng già rồi không còn ham muốn, không còn đuổi theo cái gì nữa. Lúc ấy ra sao?
Như cũ am mây một giường thiền: Lúc ấy chỉ còn một giường thiền ở trong am mây mà thôi. Giường thiền đó giống như giường của ông Duy-ma-cật nằm bệnh. Trên đường tu lúc nào tâm viên ý mã chịu dừng chịu lặng, lúc đó chúng ta sẽ hiện tiền giải thoát viên mãn. Sự giải thoát viên mãn đó được tượng trưng bằng chiếc giường thiền, giường của ông Duy-ma-cật nằm bệnh v.v… Đối với sự tu hành, cốt làm sao tâm viên ý mã nằm yên ngủ, lúc đó cái chân thật hiện tiền, không phải tìm kiếm ở đâu xa xôi.
Ngũ Tổ giảng kinh Kim Cang đến đoạn ngài Tu-bồ-đề hỏi Phật: Người cầu Vô thượng Bồ-đề làm sao an trụ được tâm của mình. Phật trả lời: “Bất ưng trụ sắc sanh tâm, bất ưng trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp sanh tâm, ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm.” Nghĩa là người phát tâm cầu Vô thượng Bồ-đề không nên trụ nơi sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Không có chỗ trụ, đó là trụ. Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm, tức là không nên có chỗ trụ mà sanh tâm Vô thượng Bồ-đề. Nghe tới câu đó, Lục Tổ đại ngộ thốt lên:
Đâu ngờ tánh mình xưa nay vốn thanh tịnh,
Đâu ngờ tánh mình xưa nay vốn tự đầy đủ,
Đâu ngờ tánh mình hay sanh muôn pháp v.v…
Các chữ đâu ngờ, nói lên chỗ ngộ của Lục Tổ, Ngài ngộ cái gì? Ngài ngộ sáu căn không dính với sáu trần là giải thoát, phải không? Chưa phải. Nếu ngộ sáu căn không dính với sáu trần, Ngài là Nhị thừa, không phải là Tổ trong Thiền tông. Câu hỏi: “Người phát tâm Vô thượng Bồ-đề, muốn an trụ tâm ấy, phải làm sao?” Đáp: “Không dính với sáu trần là an trụ tâm Vô thượng Bồ-đề.” Ngay câu đáp này Lục Tổ thấy rõ tâm không chạy theo sáu trần là Vô thượng Bồ-đề hiện tiền. Vô thượng Bồ-đề đó đã sẵn thanh tịnh, đã sẵn đầy đủ và diệu dụng vô cùng.
Ở đoạn trên nói sáu căn không dính với sáu trần đó là giải thoát, chúng ta không biết cái gì giải thoát. Ở đây, khi nghe câu đáp, Lục Tổ thấy được mặt thật của sự giải thoát. Vì thấy được mặt thật đó nên Ngài mới thốt lên những câu “đâu ngờ”. Khi nghe như thế, Ngũ Tổ biết đệ tử đã ngộ, nên ngay đó truyền y bát.
Chúng ta thấy đối với Thiền tông không phải chỉ gỡ hết những dính mắc bên ngoài, gọi là giải thoát mà phải thấy được mặt thật của sự giải thoát, điều này các bộ kinh Nhị thừa chưa đề cập tới. Giải thoát là cởi mở, cởi mở là động từ chớ không phải chủ từ. Cởi mở cái gì? Ở đoạn trước, theo tinh thần Nguyên thủy, chúng ta nghĩ được giải thoát mà không biết cái gì được giải thoát. Với tinh thần nhà Thiền, Lục Tổ không thấy như vậy, Ngài thấy cái giải thoát đó là tánh Bồ-đề sẵn có của chính chúng ta. Tánh Bồ-đề đó thanh tịnh từ thuở nào, tánh Bồ-đề đó đầy đủ muôn pháp, tánh Bồ-đề đó đầy đủ diệu dụng. Sống được với tánh Bồ-đề đó gọi là giải thoát. Giải thoát là tánh Bồ-đề không bị nhiễm với sáu trần, nó là cái chủ thật của mình. Vì vậy trong nhà thiền gọi nó là Bản lai diện mục, là Chủ nhân ông v.v… Hiểu như vậy quí vị mới thấy trình tự tu tiến của người tu, nếu không chúng ta có thể hiểu lầm. Lục Tổ ngộ được lý giải thoát, không phải chỉ là động từ giải thoát mà Ngài thấy được Ông chủ là người không bị trói buộc, Ông chủ mới là chủ từ. Ông chủ đó mới thật là mình, sống được với Ông chủ đó mới thật viên mãn giải thoát.
Ngài Ngưỡng Sơn đến hỏi đạo với ngài Trung Ấp: “Bạch Hòa thượng, thế nào là nghĩa Phật tánh?” Ngài Trung Ấp đáp: “Ta nói thí dụ thì ông hiểu. Như có con khỉ ở trong cái nhà sáu cửa. Bên ngoài có một con khỉ đến mỗi cửa kêu chéo chéo, con khỉ bên trong cũng đáp lại chéo chéo.” Nghe tới đó ngài Ngưỡng Sơn hỏi: “Bạch Hòa thượng, nếu con khỉ trong nhà ngủ thì sao?” Hòa thượng Trung Ấp liền từ giường thiền bước xuống, nắm tay ngài Ngưỡng Sơn nói: “Chéo chéo! Ta và ông đã thấy nhau rồi.”
Qua câu chuyện trên, chúng ta hiểu thế nào? Cái nhà sáu cửa là dụ cho sáu căn của chúng ta, con khỉ ở ngoài kêu chéo chéo là dụ cho sáu trần. Khi sáu căn duyên với sáu trần, con khỉ ở trong ứng lên đối đáp, nên gọi là dính mắc. Nếu con khỉ ở trong ngủ, con khỉ ở ngoài kêu chéo chéo cách mấy, nó cũng không ứng đáp. Tuy mỗi cửa đều có kêu, có động, nhưng vì nó ngủ nên không đáp lại, chớ vẫn có mặt trong nhà. Hình ảnh con khỉ ngủ giống như chỗ Lục Tổ thấy. Ngài thấy cái đó nó sẵn có, thanh tịnh từ thuở nào.
Tinh thần Thiền tông chỉ cho chúng ta thấy cái không dính với sáu trần gọi là giải thoát, không phải động từ giải thoát suông, mà có Ông chủ nằm yên không chạy ra. Sống được với Ông chủ đó mới thật sự giải thoát. Chúng ta tu thiền cốt làm sao sống được với Ông chủ đó.
Có một Phật tử nói rằng nước biển nổi sóng ầm ầm mà nó không biết có chứa muối bên trong. Đến khi nước tràn vào bờ, bị ngăn chận lại rồi khô đi, bấy giờ chất muối mới hiện ra. Như vậy muối khi ở biển hòa tan với nước, nó đã có sẵn trong nước. Nước bốc hơi muối cô đọng lại thì nước và muối là hai. Tôi chấm câu chuyện đó dưới điểm trung bình.
Ở đây Lục Tổ nói “không phải hai”, Ông chủ đó đâu ai khác hơn ngoài mình. Nhưng vì mê, ta sống với điên đảo vọng tưởng, bị nó dẫn chạy, nên luân hồi, trói buộc. Nếu tỉnh chúng ta không chạy theo vọng tưởng điên đảo, sống thật với Ông chủ, thì Ông chủ lúc nào chẳng hiện tiền. Bên ngoài có kêu gọi, dù không đáp lại, ông vẫn mở mắt nhìn mà không dính mắc. Trường hợp con khỉ trong nhà cũng vậy, đừng tưởng đợi đối đáp, nó mới có mặt. Chính khi không đối đáp, nó cũng vẫn hiện hữu.
Chúng ta giải thoát bằng cách là phải sống thật với Ông chủ, hay là với Bản lai diện mục của mình, cái đó đã có sẵn trong chúng ta muôn đời mà mình quên đi. Ngày nay được Phật Tổ nhắc chỉ, chúng ta phải ráng nỗ lực sống trở lại. Quên Ông chủ, gọi là mê, sống trở về với Ông chủ gọi là tỉnh là giác. Kẻ mê làm chúng sanh trầm luân trong sáu đường, đau khổ, bị phiền trược. Nếu tỉnh trở về với Ông chủ, không còn bị sáu trần lôi kéo nữa, khi đó hoàn toàn giải thoát. Giải thoát không có nghĩa là chúng ta phải nhờ ai phụ giúp, mà tự biết tỉnh giác, biết trở về với chính mình. Bổn phận chúng ta là phải trở về, chớ không ai làm thế, cũng không ai bắt buộc. Rất đáng thương cho chúng sanh tự có của báu mà không biết, lại thở than, đau khổ muôn đời. Chúng ta được vinh hạnh, được phước đức nhờ Phật Tổ chỉ, tuy chưa thấy tận mặt tận mày, nhưng cũng mang máng biết, mang máng tin, đó cũng là phước đức lớn.
Mỗi một năm qua là một lần đưa chúng ta đến gần chỗ chết, chúng ta có duyên phúc lớn, phước lành nhiều, mong tất cả cố gắng làm tròn bổn phận của mình để khỏi uổng một đời làm người mà không tỉnh giác, không để bị gạt, chạy theo cái giả dối, điên cuồng, quên mất cái chân thật của chính mình. Được như vậy mới xứng đáng là con dòng họ Thích, xứng đáng là kẻ quyết chí đi theo con đường Phật Tổ đã đi.
Hôm nay là ngày đầu năm, chúng tôi mong sang năm mới này, tất cả quí vị có được sức tỉnh giác mạnh hơn, càng ngày càng nhận thấy tường tận cái chân thật của chính mình, sống trở về, đừng bị ngoại cảnh lôi cuốn mà phải phiêu bạt, trầm luân đau khổ.