TIN TÂM
Xuân Bính Dần - 1986
Năm mới, tôi muốn nhắc nhở quí vị tinh tấn tu hành đúng theo tinh thần Thiền tông, nên sẽ nói rõ về việc Tin tâm. Phần nhiều người tu chúng ta tin Phật, tin Pháp, tin Tăng, nhưng ít tin tâm mình. Hôm nay tôi nói thẳng về đường lối tu để chúng ta nhận hiểu, tin được tâm của mình.
Từ xưa đến nay ai cũng hay nói: “Tôi không cần đi chùa, chỉ tu tâm được rồi.” Nhưng tâm là cái gì để tu? Có người bảo rằng: “tâm tôi nghĩ thế này, tâm tôi tính thế kia”, như vậy tâm là cái nghĩ tính hay cái gì khác nữa? Đó là điều chúng ta phải biết rõ. Chữ Tâm của nhà Phật là chỉ cho cái “biết”. Biết nghĩ, biết tính, biết tốt, biết xấu, biết dở, biết hay... tóm lại tất cả những gì thuộc lãnh vực “biết” đều gọi là tâm. Vì thế, nếu chúng ta không phân biệt rành rẽ sẽ chỉ nhận tâm là cái biết phân biệt, mà quên tâm còn là cái biết thầm lặng sáng suốt không phân biệt. Thế nên trong nhà Phật chia tổng quát tâm làm hai loại: tâm vọng và tâm chân.
Tâm vọng là gì? Là những cái biết thuộc về suy nghĩ, phân biệt. Cái biết đó động, sanh diệt nên gọi là vọng. Vọng là dối, không thật, có rồi mất hoặc chợt sanh chợt diệt, không bền lâu nên gọi là vọng. Trái lại, cái biết thường hằng không đổi, mãi mãi bất sanh bất diệt, không động, không có tướng trạng, cái biết đó gọi là tâm chân. Như vậy tâm chân thật là chỉ cái biết không bao giờ đổi thay, không bao giờ sanh diệt. Nhưng tất cả chúng ta ai cũng chỉ nhận được cái biết thuộc về suy tính, phân biệt, ít ai nhận được cái biết thầm lặng hằng còn và không sanh diệt. Bởi không hiểu điều đó nên ta chỉ nhận cái hư dối cho là tâm thật, còn Tâm chân thật lại quên đi. Thế nên trong kinh Tứ Thập Nhị Chương, đức Phật dạy các thầy Tỳ-kheo: “Tỳ-kheo các ông chớ nên tin tâm của các ông, khi nào chứng A-la-hán thì mới nên tin.” Đức Phật nói “các ông chớ nên tin tâm của các ông”, đó là tâm nào? Là tâm hư dối. Tâm hư dối thì tin không được vì nó đổi thay, sanh diệt. Tin cái đổi thay sanh diệt thì thế nào chúng ta cũng bị biến đổi, bị sanh diệt. Đợi “khi chứng A-la-hán rồi mới tin tâm các ông”, chứng A-la-hán thì tâm đó là tâm gì? Sau khi chứng A-la-hán, cái biết không còn sanh diệt nữa, khi ấy mới đáng tin.
Đức Phật muốn chúng ta đừng lầm lẫn hai cái tâm: tâm phân biệt hư dối và tâm lặng lẽ chân thật. Nếu cho cái hư dối là thật thì tự chúng ta bị lầm mê, đi mãi trong sanh tử. Chủ yếu là phải biết mình có Tâm chân thật. Muốn biết Tâm chân thật thì phải làm sao? Những vị tu khi ngộ đạo tự nhiên thấy, tự nhiên nhận ra. Nếu chưa ngộ đạo thì khó nhận, khó biết. Nay tôi chỉ y theo lời dạy của Phật của Tổ để chỉ ra, khả dĩ chúng ta có thể nhận được phần nào.
Trong kinh Lăng Nghiêm đức Phật nói: Có một cái gọi là “Nhất tinh minh sanh lục hòa hợp”. Chữ “tinh” là ròng rặc, “minh” là sáng suốt, “tinh minh” là ròng rặc sáng suốt hay sáng suốt một cách thuần túy. Từ một cái sáng suốt thuần túy đó sanh ra sáu cái hòa hợp. Sáu cái hòa hợp là gì? Là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý. Tại sao gọi là sáu hòa hợp? Vì muốn thấy phải có con mắt, có cảnh bên ngoài và thức theo đó phân biệt. Cái biết của con mắt thuộc về hòa hợp, đủ duyên hòa hợp mới có. Ý suy nghĩ cũng có cảnh bên ngoài, có danh, có tướng mới nương đó suy nghĩ, như thế cũng duyên theo cảnh, nên gọi là lục hòa hợp. Tuy nhiên khi duyên theo cảnh đó lại có cái ngầm không theo mà chúng ta không thấy. Nên chư Phật, chư Tổ luôn luôn bảo chúng ta phải khéo, đừng lầm chạy theo cảnh mà phải thấy cái thật ngầm ở trong. Chư Thiền sư hay nói, phải như con ngỗng chúa khi uống sữa, chỉ uống sữa mà chừa nước lại. Sữa hòa lẫn với nước, chỉ uống sữa, bỏ nước lại, việc đó rất khó. Cũng vậy, nơi sáu căn trong chỗ hòa hợp, chúng ta phải làm sao nhận ra được cái thuần túy tinh anh mà đừng theo cái hư dối phân biệt, đó là sự khôn ngoan khéo léo của mình. Vì vậy người tu phải khéo nhận nơi mình có một tinh minh sáng suốt phát ra sáu căn gọi là sáu hòa hợp. Mắt nhìn cảnh, tai nghe tiếng nhưng đừng lệ thuộc vào cái sanh diệt bên ngoài hay cái sanh diệt của vọng tâm mà nhớ sống được với Chân tâm, đó là điều khôn ngoan nhất, như ngỗng chúa uống sữa bỏ nước lại vậy.
Ý nghĩa trên trong kinh Lăng Nghiêm, các Thiền sư diễn tả lại bằng một hình thức lạ lùng. Mới nghe chúng ta không hiểu nhưng khi thâm nhập, hiểu được thì thấy rất hay. Như Thiền sư Dược Sơn hỏi Vân Nham:
- Ông biết làm sư tử múa phải không?
- Dạ phải!
- Ông múa được mấy xuất?
- Múa được sáu xuất.
- Ta cũng múa được.
- Hòa thượng múa được mấy xuất?
- Ta múa được một xuất.
Vân Nham nói:
- Một tức sáu, sáu tức một.
Hai thầy trò ngài Dược Sơn nói chuyện sư tử chơi cho vui hay nói chuyện trong kinh Lăng Nghiêm? Ông thầy múa một xuất tức là nhất tinh minh, đệ tử múa sáu xuất tức là lục hòa hợp. Nhưng tại sao dùng hình ảnh con sư tử? Vì sư tử là chúa loài thú, mọi loài nghe tiếng của nó đều kinh hoàng, không loài nào dám chống lại. Cái chân thật dụ như sư tử, còn những vọng tưởng phân biệt dụ cho các loài thú khác. Biết làm sư tử múa là chỉ cho biết được cái thể nhất tinh minh. Hiểu như vậy chúng ta mới thấy từ Phật đến Tổ đều thấy rõ nơi mình có cái chân thật, từ cái chân thật đó theo duyên phát ra sáu cửa. Chúng ta có đủ Tâm chân thật mà không nhận, không biết tưởng mình không có.
Tôn giả Ba-la-đề ở Ấn Độ, khi nghe vua Dị Kiến hỏi về Phật tánh, Ngài đáp: “Nơi thai gọi là thân, ở đời gọi là người, nơi mắt gọi là thấy, nơi tai gọi là nghe, nơi mũi phân biệt các mùi, nơi lưỡi đàm luận, nơi tay nắm bắt, nơi chân chạy nhảy, biến hiện thì khắp sa giới, thu lại chỉ trong hạt bụi, người hiểu cho là Phật tánh, người không hiểu gọi là tinh hồn.” Như vậy nơi tai, mũi, lưỡi đều mang tánh chất Phật trong đó, kinh Pháp hoa gọi là Tri kiến Phật. Tuy mang tánh Phật, nhưng người hiểu mới thấy đó là Phật tánh, còn người không hiểu nói là tinh hồn, tức hồn linh của mình. Tại sao? Hiểu thì như ngỗng chúa biết lọc sữa uống chừa nước lại, còn không hiểu thì như sữa hòa với nước, chúng ta uống luôn cả nước đầy bụng mà không thể lọc sữa nổi. Hiểu và không hiểu khác nhau ở chỗ đó. Chư Tổ đã trình bày thật rõ ràng, không giấu giếm chút nào, nhưng vì chúng ta mê muội nhiều đời nên nghe dường như hiểu mà sống thì sống không được. Đó là tại cái mê lầm muôn đời của chúng ta.
Thiền sư Đại An dạy chúng: “Cả thảy các ngươi, mỗi người có hòn ngọc lớn vô giá, từ cửa mắt phóng quang soi sáng núi sông cây cỏ, từ cửa tai phóng quang nhận lãnh phân biệt tất cả âm thanh lành dữ. Sáu cửa ngày đêm thường phóng quang sáng cũng gọi là phóng quang tam-muội. Các ngươi không biết lại nhận bóng trong thân tứ đại v.v...” Nhà thiền nói tất cả chúng ta đều có hòn ngọc quí, trong kinh Lăng Nghiêm gọi là một tinh minh. Cái tinh minh hay hòn ngọc quí chỉ có một, nhưng tùy duyên phóng ra sáu cửa. Khi phóng ra sáu cửa, ở tai nhận lãnh âm thanh, ở mũi nhận lãnh mùi thơm hôi. Như vậy nó hằng phóng quang ra sáu cửa mà chúng ta không biết, do không biết nên nhận cái bóng trong thân tứ đại, là những vọng tưởng suy nghĩ làm tâm mình. Chúng ta suy nghĩ những gì mình đã nghe tên, thấy tướng, vì có thấy tướng, nghe tên mới suy nghĩ được. Có danh, có tướng là có bóng gieo rắc vào tâm thức, chúng ta duyên theo bóng đó mà khởi suy nghĩ. Duyên bóng thì đâu phải thật, còn cái hằng nghe hằng thấy lúc nào lại không có. Cái thấy cái nghe không bao giờ vắng mặt, còn suy nghĩ thì duyên theo bóng của sự vật bên ngoài mới có. Vì thế Ngài bảo chúng ta không nhận được cái chân thật phóng ra từ sáu cửa, mà chỉ nhận cái bóng trong thân tứ đại tức là tâm vọng tưởng.
Hiện nay tất cả chúng ta sống bằng tinh thần, bằng tâm của mình. Tâm đó là tâm nào? Nếu là tâm duyên theo bóng thì không phải tâm thật. Đã sống với bóng không thật thì nó sẽ dẫn chúng ta đi trong cái không thật, tức đi trong sanh tử luân hồi như mộng như huyễn. Trái lại nếu chúng ta sống được với cái chân thật thì dòng luân hồi mộng huyễn không còn nữa. Đây là gốc của sự tu.
Tổ Huệ Khả đã nhận được pháp tu nơi Tổ Bồ-đề-đạt-ma qua câu chuyện an tâm. Một thời gian sau, Ngài bạch với Tổ: “Con đã dứt hết các duyên.” Tổ bảo: “Chớ rơi vào đoạn diệt.” Ngài thưa: “Không rơi.” Tổ hỏi: “Con làm thế nào?” Ngài thưa: “Rõ ràng thường biết, nói không thể đến.”
Rõ ràng thường biết, trong bài kệ ngài Chân Nguyên dùng chữ “biết thiêng”, chữ Hán gọi là linh tri, tức cái biết rõ ràng, cái biết đó “nói không thể đến”. Tổ bảo: “Đây là chỗ truyền của chư Phật chớ có hoài nghi.” Rõ ràng Phật Tổ đã chỉ cái chân thật ai cũng có, nhưng vì chúng ta không khéo nhận, chỉ chạy theo cái bóng duyên nơi sáu trần, do đó quên mất cái chân thật.
Tổ Huệ Khả nói dứt hết các duyên tức là tâm duyên lự theo cảnh, theo bóng dáng của sáu trần đã sạch. Tổ Bồ-đề-đạt-ma sợ lại rơi vào Không nên bảo “coi chừng rơi vào đoạn diệt”. Nếu đến đó không biết gì nữa thì rơi vào đoạn diệt, nên Huệ Khả thưa: Con không rơi vào đoạn diệt. Hỏi: - Tại sao không rơi vào đoạn diệt? Đáp: - Con rõ ràng thường biết, nói không thể đến. Ngay đó Tổ Đạt-ma liền ấn chứng “đây là chỗ truyền của chư Phật không nên hoài nghi”. Phật tử tập ngồi thiền, phút giây nào tâm lặng, không mê ngủ thì có thấy, có nghe có biết mình đang lặng không? Mắt vẫn thấy, tai vẫn nghe và tâm không có vọng, như vậy không phải rõ ràng thường biết là gì? Đâu phải đợi vọng tâm dấy lên mới biết. Rõ ràng chúng ta có cái thường biết hiển nhiên nơi mình, không đợi có vọng tâm mới biết. Nhưng khổ thay chúng ta cứ đợi vọng tâm dấy lên mới cho là có tâm mình, cho là biết thì đã quên mất cái rõ ràng thường biết thầm lặng bên trong rồi. Nhận ra mình có cái rõ ràng thường biết, là chúng ta tỉnh, chúng ta giác. Tại sao nói tỉnh, nói giác? Vì cái rõ ràng thường biết hằng hữu mà ta quên, lại nhận bóng duyên theo ngoại cảnh làm tâm mình, như vậy không phải mê là gì? Nay biết cái bóng không phải thật và nhận chân được cái thật thì không phải giác là gì? Chỗ mê giác rõ ràng. Chạy theo bóng dáng của sáu trần là mê, nhận biết nó vọng dối để sống với cái rõ ràng thường biết của mình là giác, chớ không có gì xa lạ. Nhận được cái đó, trong nhà thiền gọi là Kiến tánh, tức là thấy được Bản tánh bất sanh bất diệt của mình. Chữ thấy không phải mắt thấy mà là nhận ra rõ ràng. Chúng ta có Tâm chân thật, nay phải tin cho sâu, nhận cho kỹ. Làm sao tin nhận Chân tâm cho sâu cho đúng?
Ngài Thần Tán đã ngộ lý thiền nơi Tổ Bá Trượng xong trở về chùa với thầy. Thầy Ngài tu theo giáo. Một hôm nhân thầy tắm, vì thầy già yếu nên Ngài kỳ lưng cho thầy. Ngài vỗ trên lưng thầy nói: “Điện Phật đẹp mà Phật không Thánh.” Thầy ngó lại, Ngài nói: “Tuy Phật không Thánh vẫn hay phóng quang.” Lại một hôm, Bổn sư ngồi trong cửa sổ xem kinh, có một con ong chui đầu vào khung cửa sổ bằng giấy tìm lối ra. Ngài trông thấy nói:
- Thế giới thênh thang như thế mà chẳng chịu ra, dùi đầu vào giấy cũ biết năm nào ra được?
Ngài liền nói kệ:
Không môn bất khẳng xuất,
Đầu song dã thái si,
Bách niên tán cổ chỉ,
Hà nhật xuất đầu thì?
Dịch:
Cửa không chẳng chịu ra,
Quá ngu chui cửa sổ,
Giấy cũ trăm năm dùi,
Ngày nào thoát ra được?
Thầy Ngài nghe lấy làm lạ hỏi:
- Ngươi đi học đạo mấy năm, nay thấy được cái gì mà nói nghe lạ vậy?
Ngài thưa:
- Con được Tổ Bá Trượng chỉ cho con đường tu hành.
Thầy Ngài biết đệ tử có cái gì lạ, mới bảo:
- Ngày mai hội chúng lại, ngươi lên giảng cho ta xem!
Hôm sau đánh trống, chúng hội lại, thầy Ngài cũng làm thính giả ngồi ở dưới, Thần Tán ngồi trên tòa giảng, câu đầu tiên Ngài dẫn lời Tổ Bá Trượng:
Linh quang độc chiếu,
Quýnh thoát căn trần,
Thể lộ chân thường,
Bất câu văn tự.
Tâm tánh vô nhiễm,
Bản tự viên thành,
Đản ly vọng duyên,
Tức như như Phật.
Dịch:
Linh quang riêng chiếu,
Vượt khỏi căn trần,
Bày hiện chân thường,
Chẳng nệ văn tự.
Tâm tánh không nhiễm,
Vốn tự viên thành,
Chỉ lìa vọng duyên,
Tức như như Phật.
Qua bài kệ đó, thầy Ngài ngộ nói: Ta chưa bao giờ được nghe giáo lý tuyệt vời như thế!
Ở đây, tôi giải thích lại để quí vị thấy rõ. “Linh quang độc chiếu”, là linh quang riêng chiếu. Đây không khác với hòn ngọc báu hay kinh Phật nói một tinh minh.
“Quýnh thoát căn trần”, căn là sáu căn, trần là sáu trần, cái đó vượt hơn sáu căn và sáu trần. Tại sao? Vì sáu căn thuộc về thân, mà thân là tướng sanh diệt; sáu trần thuộc về duyên hợp nên cũng là tướng sanh diệt, còn cái này không sanh diệt nên nói siêu xuất cả căn và trần.
“Thể lộ chân thường” là ngay trong đó hiện bày chân thường.
“Bất câu văn tự” nó không thuộc về chữ nghĩa.
“Tâm tánh vô nhiễm”, tánh của tâm đó không nhiễm, nói tánh của tâm là để chỉ cho Tâm chân thật, còn nói tâm là chỉ tâm phân biệt hư dối. Lục Tổ khi ngộ, Ngài nói kệ: “Bản lai vô nhất vật, hà xứ nhạ trần ai”, nghĩa là xưa nay không một vật, chỗ nào dính bụi bặm, tức là không nhiễm. Thật rõ ràng.
“Bản tự viên thành” là Tâm chân thật vốn tự tròn đủ, không nhiễm, không thiếu thốn gì cả. Nhưng làm sao sống được với nó đây?
“Đản ly vọng duyên, tức như như Phật.” Hai câu này là chỉ thẳng lối trở về. Muốn sống được với nó thì chỉ lìa vọng duyên, lìa tâm hư dối duyên theo bóng dáng sáu trần, khi ấy gọi là như như Phật hay Phật như như. Tại sao nói Phật như như? Phật là giác, như như là lặng lẽ, cái biết lặng lẽ là Chân tâm tức Phật như như. Ngài Bá Trượng chỉ cho chúng ta thấy mỗi người có một cái Tâm chân thật, sáng suốt siêu xuất cả sáu căn sáu trần, luôn luôn hiện bày, nhưng không mắc kẹt trong văn tự chữ nghĩa. Bản tánh không ô nhiễm, tự tròn đủ, muốn sống với nó chỉ cần lìa các vọng duyên thì tự nó là Phật như như. Như vậy tìm Phật khó hay dễ? Chịu khó lìa vọng duyên là Phật như như, không chịu lìa thì không biết chừng nào mới có Phật như như. Như vậy đường tu không phải xa, cũng chẳng phải khó, xa hay khó là tại chúng ta chưa chịu lìa thôi, nếu lìa được là như như Phật.
Trong Tín Tâm Minh, Tổ Tăng Xán dạy:
Nhãn nhược bất thùy,
Chư mộng tự trừ,
Tâm nhược bất dị,
Vạn pháp nhất như.
Dịch:
Mắt nếu không ngủ,
Các mộng tự trừ,
Tâm nếu không khác,
Muôn pháp nhất như.
Hình ảnh này đẹp làm sao!
“Nhãn nhược bất thùy”, con mắt nếu không ngủ thì “chư mộng tự trừ”, không có mộng nào hiện ra cả. Chúng ta mở mắt trao tráo, rõ ràng sáng suốt thì có mộng nào hiện ra. Nhưng nếu nhắm mắt ngủ một chút thì thấy cảnh này cảnh kia... bao nhiêu cảnh là bao nhiêu mộng. Mộng hiện ra là do mắt ngủ, nếu mắt không ngủ thì không có mộng.
“Tâm nhược bất dị, vạn pháp nhất như.” Tâm chúng ta nếu không khác thì muôn pháp đều nhất như. Tâm không khác tức là không dấy niệm thứ hai, thứ ba. Có một niệm tức là có khác, rõ ràng thường biết mà không có niệm nào khác thì muôn pháp là nhất, là như, chớ không còn gì nữa cả. Như vậy muốn tìm muôn pháp nhất như phải tìm ở đâu? Có nhiều người không biết tu, nghe nói khi tâm cảnh nhất như hay muôn pháp đều như liền nghĩ rằng, mình phải quán tất cả đều không ngơ thì nó như. Không phải vậy! Chỉ khi nào chúng ta không có một niệm dấy lên thì các pháp nhất như.
Trở lại ví dụ trên, con mắt không ngủ là dụ cho không khởi một niệm, nên nói vạn pháp nhất như. Con mắt lúc ngủ thì hết mộng này đến mộng kia liên miên, dụ cho khi dấy niệm lên thì muôn pháp thiên sai vạn biệt. Chúng ta muốn hết mộng chỉ chịu khó mở mắt, cũng như muốn cho tâm cảnh nhất như thì chịu khó tâm không khởi niệm, không có niệm khác thì nó là nhất như. Khi nào chúng ta ngồi nhìn trời nhìn mây mà không có một niệm nào cả thì có phân biệt cái này đẹp, cái kia xấu, cái này tên A, cái kia tên B không? Nếu không khởi niệm, không có phân biệt tức là nhất như, còn khởi niệm nói đây là mây vàng, kia là mây đỏ v.v... là nhiều thứ rồi. Thế nên chủ yếu của người tu là phải làm sao biết rõ Tâm chân thật, đừng chạy theo vọng tưởng. Vọng tưởng lặng rồi thì muôn pháp nhất như, chớ không phải nhồi muôn pháp trở thành một khối để nhất như. Đó là chủ yếu của chư Tổ dạy.
“Tâm nhược bất dị, vạn pháp nhất như” với đoạn trên Tổ Bá Trượng nói: “Đản ly vọng duyên, tức như như Phật” có khác không? Đoạn trên thì lìa vọng duyên, còn đoạn này thì tâm chẳng khác, chẳng khác tức là không loạn. Trên nói “như như Phật”, dưới nói “vạn pháp nhất như” là lối nói cho chúng ta thấy rõ.
Tín Tâm Minh cũng có đoạn:
Viên đồng thái hư,
Vô khiếm vô dư,
Nhân do thủ xả,
Sở dĩ bất như.
Dịch:
Tròn đồng thái hư,
Không thiếu không dư,
Nhân vì thủ xả,
Thế nên chẳng như.
Tổ lặp lại chữ “như” một lần nữa. Chúng ta có Thể tánh tròn đồng thái hư, nghĩa là trùm cả hư không. Vô khiếm tức không thiếu, vô dư tức không thừa, hư không đến đâu thì Tâm thể chúng ta đến đó, không thiếu không thừa. Tại sao? Vì Tâm thể không tướng, hư không cũng không tướng, hư không đến đâu thì Tâm thể đến đó, nên nói tròn đồng thái hư, không thiếu cũng không dư.
“Nhân do thủ xả”, thủ là lấy, xả là bỏ, vì chúng ta có lấy có bỏ do đó không được như. Nếu có lấy, có bỏ thì tâm dị chưa? Lấy khác bỏ khác, tức là tâm đã dị rồi, mà tâm đã dị thì vạn pháp đâu được nhất như. Thế nên Tổ bảo nếu còn thủ xả thì không như, nếu bỏ thủ xả thì sẽ như. Tất cả niệm của chúng ta khởi theo cái gì? Theo hai bên, nghĩa là hoặc thủ hoặc xả, hoặc khen hoặc chê v.v..., tất cả các chấp hai đều nằm trong thủ xả. Vì thế còn chấp hai là tâm không như. Tóm lại niệm nào dấy lên cũng đều trong cái chấp hai. Ví dụ chúng ta nghĩ vật này tốt hoặc xấu, việc kia có hoặc không... Tốt xấu là hai, có không là hai, phải quấy là hai v.v... vừa dấy niệm là nằm trong cái chấp hai. Nhưng nếu lặng niệm xuống thì biết mà không có hai. Chính cái biết không hai đó là như, còn dấy niệm theo hai bên là không như. Đó là chỗ thiết yếu chúng ta phải thấy cho thật rõ để biết đường lối tu.
Cũng trong Tín Tâm Minh, khi kết thúc Tổ nói: “Tín tâm bất nhị, bất nhị tín tâm.” Ngài nói Tín Tâm là không hai, rồi lặp lại không hai là Tín Tâm. Chúng ta tin tâm là không hai, không hai tức là tin tâm. Quí vị tin tâm chưa? Nếu còn thấy hai là chưa tin. Chữ tin này không phải chỉ là biết có cái đó, mà là tin nhận được Tâm chân thật. Muốn nhận được Tâm chân thật là đừng thấy hai, còn có hai là không bao giờ nhận được Tâm chân thật. Vì thế Ngài nói “tín tâm bất nhị” rồi lặp lại “bất nhị tín tâm”, vì Tâm chân thật không có niệm, dấy niệm tức là hai, muốn nhận nó thì phải đừng dấy niệm.
Chư Tổ thuở xưa, khi gặp người dấy niệm hỏi điều gì có tánh cách đối đãi đều cho ăn đòn, để tập họ thấy đó là lỗi, đừng chạy theo hai bên nữa, mới tin được tâm mình. Tâm đó là Phật, nếu tin được tâm đó tức chúng ta tin được ông Phật của mình. Tin được Phật mình, nhận được Phật mình thì sớm muộn gì cũng thành Phật, nên nói kiến tánh thành Phật. Ai tu lại không muốn thành Phật, nhưng muốn thành Phật thì phải tin nhận tâm của mình, tin nhận tâm của mình thì phải không hai. Tóm lại, chủ yếu của người tu muốn được thành Phật thì phải đừng bị vọng tưởng dẫn dắt. Nếu để vọng tưởng dẫn dắt thì không bao giờ tin nhận được ông Phật của mình.
Trong Chứng Đạo Ca, Thiền sư Huyền Giác cũng dạy:
Thể nhược hư không vô nhai ngạn,
Bất ly đương xứ thường trạm nhiên,
Mích tức tri quân bất khả kiến.
“Thể nhược hư không vô nhai ngạn” là Tâm thể giống như hư không, không có bờ mé. Đoạn trên nói “viên đồng thái hư” là tròn đồng thái hư, không thiếu không dư, ở đây Ngài nói thể đó như hư không, không bờ mé. Làm sao sống được, biết được cái thể đó?
“Bất ly đương xứ thường trạm nhiên” nghĩa là không rời ngay chỗ này, mà thường lặng lẽ. Trong cái lặng lẽ đó có ông Phật hiện tiền, đâu phải chạy tìm nơi nào. Vì thế nên nói: “Mích tức tri quân bất khả kiến”, khởi niệm tìm tức là không bao giờ thấy được ông Phật. Ngồi an lặng lẽ thì ông Phật hiện tiền, vừa dấy niệm tìm thì mất ngay. Chính chỗ đó mới thấy Tâm thể của chúng ta trùm khắp, còn vọng tưởng thì giới hạn tạm bợ. Ví dụ chúng ta nghĩ về người thì vọng tưởng chỉ giới hạn trong con người, nghĩ tới cây thì vọng tưởng chỉ duyên theo bóng của cây. Nó có tướng giới hạn và tạm bợ mà chúng ta cho là mình, còn Tâm thể trùm cả hư không, chưa bao giờ sanh diệt lại bỏ quên. Đó là điều thật đáng thương, bỏ cái chân thật chạy theo cái hư dối, hài lòng với cái hư dối để rồi lăn lộn trong dòng luân hồi sanh tử! Vì thế chư Phật, chư Tổ thương xót mới ra đời chỉ cho chúng ta cái chân thật.
Phật Tổ thương chỉ cho chúng ta cái chân thật, nhưng chúng ta không chịu làm đúng như lời Phật Tổ dạy. Vậy Phật Tổ phụ mình hay mình phụ Phật Tổ? Nhiều người cứ nghĩ Phật bỏ mình, nhưng Phật bỏ mình hay mình bỏ Phật? Như thế mới thấy chúng ta quí kính Phật nhưng vô tình lại bỏ rơi Phật, phụ công ơn Phật. Điều Phật chỉ dạy chúng ta không màng, không cố gắng thực hiện, lại bỏ qua để rồi sống trong sự cuồng loạn của mình. Như vậy đáng khen hay đáng chê? Thật là những chúng sanh mê muội đáng thương, đáng trách. Mê muội quá lắm!
Chúng ta hiểu đạo là để tu, chớ không phải hiểu để nói. Làm sao ứng dụng được những điều Phật Tổ dạy để trở lại với Tâm chân thật của mình. Thân này là tứ đại hòa hợp, tâm vọng tưởng là duyên theo bóng dáng sáu trần, cái gì họp thì cái đó phải tan, cái duyên theo bóng dáng là hư dối. Cái sẽ tan, cái hư dối mà chấp là thật, là mình; còn cái chưa bao giờ mất, chưa bao giờ diệt, trùm cả hư không, chúng ta lại bỏ quên. Đúng như trong kinh Pháp Hoa nói là cùng tử, lẽ ra nhận mình là con ông trưởng giả thì kho báu đầy nhà mặc tình hưởng, nhưng không chịu nhận lại cam đi hốt phân để sống qua ngày. Qua hình ảnh đó chúng ta mới thấy sự điên cuồng của mình. Có một cái chân thật được quyền hưởng trọn vẹn nhưng không chịu hưởng, đi nhận một cái hết sức tầm thường và hài lòng như vậy. Thật là đáng thương! Như người ăn một mâm cơm đầy đủ cao lương mỹ vị, mới nhìn thấy sang, thấy ngon nhưng ăn quá no những thức ăn khó tiêu dễ sanh đau bụng. Sau đó thấy khổ, tiêu hóa ra cũng hôi thối, vậy mà hài lòng, quí trọng, thật là khờ dại, còn cái chân thật thanh tịnh sẵn có lại bỏ quên!
Chúng ta tu cốt phải trở về cái chân thật đó, sống được với cái chân thật mới là biết đạo, biết tu. Trái lại chạy theo bóng dáng bên ngoài dù hay bao nhiêu cũng chỉ là ảo ảnh thôi, không phải cái chân thật. Như thế chủ yếu người tu Phật phải tin nhận nơi mình có cái chân thật, đó là Chân tâm hay Phật tánh. Để kết luận, tôi dẫn bài kệ của cư sĩ Bàng Uẩn:
Đản tự vô tâm ư vạn vật,
Hà phòng vạn vật thường vi nhiễu.
Thiết ngưu bất phạ sư tử hống,
Kháp tợ mộc nhân khán họa điểu.
Mộc nhân bản thể tự vô tình,
Họa điểu phùng nhân diệc bất kinh.
Tâm cảnh như như chỉ giá thị,
Hà lự Bồ-đề đạo bất thành.
Dịch:
Chỉ tự vô tâm cùng vạn vật,
Ngại gì vạn vật thường quấy nhiễu.
Trâu sắt chẳng sợ sư tử rống,
Giống như người gỗ xem chim vẽ,
Người gỗ bản thể tự vô tình,
Chim vẽ gặp người cũng chẳng kinh.
Tâm cảnh như như chỉ thế ấy,
Nào sợ Bồ-đề đạo chẳng thành.
“Chỉ tự vô tâm cùng vạn vật”, vô tâm là vô tâm nào? Vô cái tâm vọng tưởng điên đảo. Chỉ vô tâm cùng vạn vật nghĩa là không có tâm điên đảo chạy theo muôn vật thì ngại gì vạn vật thường quấy nhiễu, ngại gì mà phải than cái này, cái kia vây quanh, tôi tu không được! Như vậy tại các duyên hay tại mình có tâm với nó? Ví dụ có một vật quí để trước mắt chúng ta, nó là nó, mình là mình. Đâu phải tại nó mà mình tu không được, tại dấy niệm tham nên tu không được, chớ vật quí là vật quí, mình là mình, đừng dấy niệm tham thì có gì tu không được? Đến những tiếng khen, tiếng chê, khi qua mất rồi, chúng ta đừng quan trọng nó, đừng dính thì có gì mà tu không được. Nhưng được người khen thì nhớ hoài, bị chê thì giận mãi, như vậy tu không được là tại chúng ta duyên theo nó. Nếu xem nó như gió thổi, như pháo nổ, qua rồi thôi thì có gì tu không được. Chúng ta tu không được là tại hữu tâm với vạn vật. Thấy cái gì cũng cột, cũng nắm rồi đổ thừa tại vật này, việc kia lăng xăng làm tôi tu không được. Thử hỏi trên thế gian này, nơi nào không có những điều lăng xăng? Chỉ ta đừng chạy theo nó thì hết lăng xăng, nên Bàng Uẩn thốt ra hai câu: Chỉ tự vô tâm cùng vạn vật, ngại gì vạn vật thường quấy nhiễu. Vạn vật không quấy nhiễu chúng ta, nếu chúng ta không có tâm với nó, trái lại nếu có tâm với nó thì nó quấy nhiễu mình.
Ngài lại dùng thí dụ con trâu sắt không sợ sư tử rống. Thường sư tử rống lên thì trâu hay voi gì cũng chạy cả, nhưng nếu gặp trâu sắt thì nó không sợ nên không chạy. Đến thí dụ thứ hai, giống như người gỗ xem chim vẽ. Người gỗ đứng nhìn chim vẽ thì cả hai như thế nào? Ngài nói người gỗ bản thể tự vô tình, chim vẽ gặp người cũng chẳng kinh. Người gỗ đâu có tình, chim vẽ thấy người gỗ cũng không sợ. Ba hình ảnh: con trâu sắt, người gỗ, chim vẽ, cả ba đều không sợ ai hết. Tại sao? Tại nó vô tình, vô tâm.
Chúng ta hiện nay cũng vậy, nếu vô tâm với vạn vật, thì không vật nào quấy nhiễu mình được cả. Thế nên Ngài kết thúc bằng hai câu: “Tâm cảnh như như chỉ thế ấy”, tức là đối cảnh mà tâm như như không chạy theo, thì “nào sợ Bồ-đề đạo chẳng thành”, nếu tâm mình không chạy theo cảnh thì đừng lo không thành đạo Bồ-đề. Sở dĩ chúng ta không thành đạo Bồ-đề là vì tâm chạy theo cảnh. Trái lại nếu tâm không chạy theo cảnh thì tâm cảnh như như, đạo Bồ-đề hiện tiền, chớ tìm ở đâu nữa.
Tóm lại, chư Phật, chư Tổ đều chỉ rõ yếu điểm tu hành cho chúng ta. Yếu điểm đó là tâm đừng chạy theo cảnh, khi tâm không chạy theo cảnh thì tâm cảnh như như, tâm cảnh như như thì đạo Bồ-đề hiện tiền, dù không muốn thành Phật thì Phật cũng hiện trước mắt. Trái lại, nếu chúng ta cứ mong tìm mà tâm cứ động mãi thì không bao giờ thấy Phật. Thế nên, tôi mong tất cả Tăng Ni, Phật tử qua năm mới này đều nỗ lực cố gắng tu hành, đừng để tâm chạy theo cảnh. Tâm và cảnh được như như đó là không cô phụ công ơn Phật Tổ và các vị thiện tri thức chỉ dạy chúng ta. Như vậy mới xứng đáng là con dòng họ Thích, mới không hổ thẹn xưng ta là Thích tử. Trái lại nếu chúng ta cứ để tâm rong ruổi theo vọng cảnh thì dù có thương Phật thế mấy cũng khó gặp Phật được. Vậy mong rằng tất cả chúng ta đều nỗ lực để mỗi ngày mỗi ngày gần được Phật và một ngày nào đó thì viên mãn sống với Phật chớ không còn quên, không còn bỏ sót nữa.