LỜI ĐẦU SÁCH
Chỗ cứu kính vốn không lời, huống là có thời gian không gian. Thời gian đã không thì bốn mùa y cứ đâu mà lập. Bốn mùa đã không thì làm gì có mùa Xuân, mùa Hạ. Thế mà nói ngày Xuân, tháng Xuân, mùa Xuân là nhằm trong cửa phương tiện tương đối luận bàn. Chẳng qua vì lợi ích trên phương diện tiến tu, chúng tôi tùy tục nói chuyện đêm Trừ tịch (giao thừa) và ngày Tết Nguyên Đán. Sưu tập lại những buổi nói chuyện ngày cuối năm và đầu Xuân, kể từ khi mở khóa II học Thiền tại Tu viện Chân Không vào năm 1974 về sau. Chúng tôi để tên tập sách là XUÂN TRONG CỬA THIỀN, gọi là chút quà mọn cống hiến độc giả trong những ngày Xuân.
Tuy nhiên là những buổi nói chuyện cùng một đề tài Đêm Trừ Tịch và ngày Nguyên Đán thì không sao tránh khỏi sự trùng lặp câu chuyện ý kiến của chúng tôi. Câu chuyện có thể trùng; song ý kiến chắc mỗi năm cũng có thay đổi ít nhiều. Vì vậy chúng tôi gom hết trong tập sách này. Khi đọc nếu thấy trùng lặp, mong quí vị thông cảm cho.
THÍCH THANH TỪ
XUÂN TRONG CỬA THIỀN
Bốn mùa thay đổi muôn vật chuyển xoay, theo quan niệm người đời thì mỗi lần Đông tàn Xuân đến, trong lòng rộn rã lo mừng Xuân đón Xuân. Rồi bao nhiêu tục lệ từ xưa truyền lại, nào là đưa ông táo, thiệp chúc Xuân, dựng nêu, rước ông bà, chúc Tết, lì xì v.v... Bước vào cửa Thiền, xem thử các tăng sĩ có quan niệm gì về ngày Xuân? Đây chúng ta hãy nghe Sơ Tổ phái Trúc Lâm Yên Tử, Điều Ngự Giác Hoàng, nói về Xuân:
Niên thiếu hà tằng liễu sắc không
Nhất Xuân tâm sự bách hoa trung
Như kim khám phá Đông hoàng diện
Thiền bản bồ đoàn khán trụy hồng.
Dịch:
Thuở bé chưa từng rõ sắc không
Xuân về hoa nở rộn trong lòng
Chúa Xuân nay bị ta khám phá
Chiếu trải giường Thiền ngắm cánh hồng.
Lúc còn thiếu niên ở trong ngôi vị sang cả của một ông Hoàng, chưa thấm nhuần mùi đạo lý, mỗi lần Xuân về trăm hoa đua nở trong vườn ngự, làm sao Ngài không lòa mắt trước những màu sắc lung linh, không bâng khuâng qua những làn hương ngào ngạt. Sắc hương hương sắc quyện cả tâm hồn của ông Hoàng trẻ tuổi. Thế rồi bao nhiêu tâm sự đều gởi gắm vào trăm hoa.
Nhưng khi tìm thấy được đạo, cởi bỏ mọi danh vọng tài sắc ở thế gian, cạo tóc mặc áo nhuộm, Ngài bước chân vào cửa Thiền. Gia công tu tập Ngài đã khám phá được chân lý của vũ trụ, thấy được mặt thật xưa nay của chính mình. Bây giờ Ngài không còn bị sắc hương lôi cuốn, tâm hồn lóng trong tự tại, ngồi lặng lẽ trên giường Thiền nhìn chúng nở tàn một cách an nhiên. Từ đây hoa nở hoa tàn không còn là một hình ảnh khiến tâm hồn người tăng sĩ phải vui buồn theo nó. Dòng thời gian cuồn cuộn trôi, hiện tượng trong không gian luôn luôn chuyển mình sanh diệt, song dưới con mắt một Thiền sư đạt đạo vẫn thấy có một cái gì hiện hữu thoát ngoài luật sanh diệt của thời gian.
Chúng ta hãy nghe lời nhắn nhủ của Thiền sư Giác Hải, một Thiền sư ở đời Lý, cũng nói về Xuân:
Xuân lai hoa điệp thiện tri thì
Hoa điệp ưng tu cộng ứng kỳ
Hoa điệp bản lai giai thị huyễn
Mạc tu hoa điệp hướng tâm trì.
Dịch:
Xuân về hoa bướm gặp nhau đây
Hoa bướm phải cần hợp lúc này
Hoa bướm xưa nay đều là huyễn
Giữ tâm bền chặt bướm hoa thây.
Con người và muôn vật đều bị cuốn phăng theo dòng thời gian bất tận. Sự chết sống sanh diệt của người và vật đều ứng hợp theo thời tiết. Hoa nở, bướm lượn tìm hương đều lệ thuộc hẳn vào mùa Xuân. Nếu chúng ta cứ bám víu vào bản thân vào ngoại cảnh thì ôi thôi! Dòng luân hồi sanh tử lôi cuốn chúng ta không biết đến đâu cho cùng.
Chúng ta phải gan dạ nhìn thẳng vào lẽ thật của bản thân của ngoại cảnh, mới thấy chúng là tướng trạng tạm bợ vô thường, là giả hình bởi nhân duyên chung hợp. Quả thật là huyễn hóa không có một tí gì chắc thật. Chỉ Chân tâm của chính mình, mới là cái chân thật bất sanh bất diệt, mà lâu nay chúng ta đã lãng quên. Giờ đây, chúng ta phải quả quyết sống thật với nó, không một phút giây nào lơi lỏng. Ấy là chúng ta đặt chân trên đường giải thoát, cởi bỏ sợi dây sanh tử luân hồi. Đây là lời nhắn nhủ của Thiền sư Giác Hải bảo chúng ta phải “hướng tâm trì”.
Lại một hình ảnh xinh đẹp lạ thường của một mùa Xuân bất tận, do Thiền sư Chân Không đáp lời hỏi của một Thiền khách:
Xuân đến Xuân đi ngỡ Xuân hết
Hoa nở hoa tàn chỉ là Xuân.
Nhìn thời gian sanh diệt, con người mải lo âu và tiếc nuối. Thấy Xuân đến lại nghĩ đến Xuân đi, rồi e sợ sẽ bơ vơ không còn tìm thấy mùa Xuân đâu nữa. Tâm trạng khát khao lo sợ ấy dồn dập nung nấu con người, khiến họ khô héo chết mòn và hơ hải phập phồng cho một ngày mai. Ngày mai họ không còn biết nó ra sao, mờ mịt tối tăm. Nhưng với Thiền sư, hôm nay và ngày mai đều là vô nghĩa, chúng chỉ là những chiếc áo cũ mới thay đổi trên một thân người. Nhưng đứa bé khi mặc một chiếc áo cũ thì xịu mặt xuống, được quàng chiếc áo mới thì hí hửng lên. Đấy là chúng quên mình mà chỉ nhớ chiếc áo, nên chỉ một bề vui buồn theo chiếc áo. Với người lớn ắt không như thế, vì tự biết đời mình đã đổi thay biết bao nhiêu chiếc áo. Khi thấy được lẽ thật, người ta sẽ không còn bận rộn trong hình tướng giả dối ấy nữa. Vì thế Thiền sư Chân Không đã kết luận cho chúng ta thấy bằng câu “hoa nở hoa tàn chỉ là Xuân”. Ấy là cái đạo miên viễn vậy.
Bước sang những Thiền sư Trung Hoa, xem quan niệm các ngài có gì khác lạ. Đây chúng ta hãy nghe Thiền sư Cao Phong Diệu ngâm nga bốn câu thơ, trước đại chúng trong ngày Tết Nguyên Đán:
Tuế Đán
Bách niên nan ngộ tuế triêu Xuân
Xá nữ sơ trang việt dạng tân
Duy hữu Đông thôn Vương đại tả
Y tiền mãn diện thị ai trần.
Dịch:
Trăm năm khó gặp sáng ngày Xuân
Trang điểm cô em dáng thanh tân
Chỉ có thôn Đông Vương chị cả
Như xưa đầy mặt dính bụi trần.
Mùa Xuân là mùa khí hậu ôn hòa ấm áp. Mỗi lần Xuân về, ngàn cây muôn cỏ đều khoác vào mình một chiếc áo mới. Sự điểm trang của cảnh vật nhịp nhàng với sự điểm trang của con người. Những đứa bé gái áo tím quần hồng, lược cài trâm giắt, lũ lượt kéo đi thăm viếng chúc tụng nhau. Thật là một cảnh nhộn nhịp xinh tươi của ngày Xuân.
Nhưng trong khi con người và vạn vật đang phô diễn sắc hương, đang tưng bừng chúc tụng, thì bên làng Đông một chị nàng đứng tuổi, vẫn trang nghiêm như tượng nữ thần, vẫn im lìm như hình thạch nữ để mặc cho sương pha bụi phủ, không hề vướng chút đổi thay. Gương mặt của cô ta vẫn bình thản an nhiên như tự thuở nào.
Đây là một xảo thuật của Thiền sư khéo trình bày cho chúng ta thấy, bên hình ảnh biến ảo đổi thay, lại có một cái thâm trầm bất sanh bất diệt.
Đến Thiền sư Tiếu Ẩn Hân, chúng ta sẽ thấy một hình ảnh sáng rỡ ẩn trong hiện tượng mịt mù, diệu lý bất sanh bất diệt nằm gọn trong cảnh vật sôi động sanh diệt. Hãy nghe Ngài ngâm bài kệ này trong dịp Xuân về:
Kim cang chánh thể lộ đường đường
Vạn tượng sum la bát-nhã quang
Dẫn khứ lai cơ siêu đương niệm
Vô âm dương điạ lý toàn chương
Mộc kê báo hiểu đề thâm hạng
Thạch nữ nghinh Xuân xuất động phòng
Cộng hỉ long hồ đa thụy khí
Thiền phong thời tống ngự lô hương.
Dịch:
Kim cang chánh thể hiện rỡ ràng
Cảnh vật muôn vàn bát-nhã quang
Cơ bặt khứ lai đương niệm thoát
Đất chẳng âm dương lý toàn bày
Gáy sáng gà cây trong nẻo vắng
Mừng Xuân gái đá ra động phòng
Đáy hồ rồng vẫy vui vô hạn
Đưa tiễn gió Xuân một lò trầm.
Trong muôn ngàn cảnh vật đã chứa sẵn thể Kim cang Bát-nhã rực rỡ, chỉ cần dứt sạch mối manh lại qua sanh diệt thì chánh niệm hiện tiền vượt ngoài mọi đối đãi. Chính chỗ âm dương chưa phân kia, là chân lý hiện bày.
Đẹp đẽ thay trên cảnh tượng ồn náo biến động đã ngầm chứa một cái bất động, như gà gỗ gáy sáng, gái đá mừng Xuân. Rồng nhả hơi trên mặt hồ trong lặng để cùng tiếp đón một mùa Xuân, lò trầm hương tỏa quyện theo gió thiền.
Thật là ảo ảnh lồng trong chân thường, chân thường hiện bày trong ảo ảnh, khiến chúng ta không còn lầm lẫn tìm kiếm chân lý ngoài sự vật vô thường, không lầm bỏ vọng tưởng mà lấy chân như. Đó là quan niệm chân chánh của Thiền sư nhìn vào cuộc đời vậy.
ĐÊM TRỪ TỊCH
Năm Giáp Dần - 1974
Tổng kết lại, chúng ta sống ở thời chiến tranh, mà hôm nay đến ngày Tất niên lại được sum họp ngồi tại Thiền đường ấm cúng này, nói chuyện đạo. Thật là hi hữu.
Có lẽ đây cũng là một sự gia hộ của Tam Bảo, khiến chúng ta được sống trong cảnh an lành không lo sợ. Hoàn cảnh xã hội không làm chúng ta phải buồn rầu đau khổ. Nhất là Tăng Ni đã có thiện duyên chung ở tại Thiền viện để tu học thì thật là quí báu. Còn quí Phật tử nam nữ cũng vậy, tôi thấy rằng lý đáng ngày ba mươi quí vị phải ở tại nhà để rước ông bà, đoàn tụ với gia đình. Quí vị mến đạo cho đến nỗi phải hi sinh cái vui riêng của gia đình mà đến đoàn tụ ở trong đại gia đình Phật pháp như thế này, thật là hi hữu. Tinh thần đó càng đáng được khích lệ. Cho nên chúng tôi thấy rằng con đường hướng dẫn chỉ dạy đó là do Tam Bảo gia hộ khiến cho Phật pháp được miên viễn. Nếu chúng tôi làm được việc gì gọi là hợp thời và giúp cho quí vị đường lối tu hành thì những cái đó đều là sự gia hộ của Tam Bảo hết.
Tôi thường nói với Tăng Ni câu này: Chỉ lo chúng ta không cố gắng, chớ thật tình cố gắng tu hành, nhất là đem hết tâm tư phục vụ Phật pháp thì Tam Bảo không bao giờ bỏ quên chúng ta. Điều đó tôi tin tưởng và quả quyết như vậy. Mà chính vì điều đó nên tôi nói rằng, hiện giờ chúng ta đang ngồi nói chuyện đây Tam Bảo cũng có mặt với chúng ta, Long thiên hộ pháp không bao giờ bỏ chúng ta. Điều đó có lẽ quí vị cũng phải tin phần nào qua kinh nghiệm của tôi.
Trong Thanh qui, chúng tôi có để câu: “Tăng Ni trong Thiền viện nếu hết gạo thì phải thay phiên nhau xuống núi để xin về, đi trong vòng ba ngày, nếu hết nữa thì đến người khác.” Vì sao tôi để câu đó? - Vì tôi chủ trương rằng từ ngày tôi lập Thiền viện là tôi dứt khoát không cho Tăng Ni đi đưa đám ma và không đi dự những buổi cúng kính của Phật tử tổ chức ở nhà. Có một số Tăng Ni nói với chúng tôi rằng: “trong thời này mà không đi cúng thì Tăng Ni sẽ nhịn đói”, nhưng tôi thì quả quyết cách mạng điều đó. Vì đã giải quyết như vậy, cho nên tôi mới ghi câu trên trong Thanh qui Thiền viện. Không cho đi đám lẽ dĩ nhiên người ta không cúng, nguời ta không cúng thì nhịn đói chớ gì? Nếu đến giờ phút chót mà hết gạo thì phải thay phiên nhau đi xin. Nhưng suốt thời gian qua, chúng tôi chưa thấy lúc nào ở trong kho hết gạo. Nếu không phải Tam Bảo gia hộ thì làm sao được như vậy. Chẳng phải do Tam Bảo gia hộ, do nhiệt tình của Phật tử thì làm sao mà có.
Vì lẽ đó, tôi tin rằng sức gia hộ của Tam Bảo rất mạnh, và lòng thành tín của Phật tử rất tốt. Cho nên chỉ lo Tăng Ni chúng ta thiếu đức, thiếu hạnh không cố gắng tu hành chớ đừng lo Phật tử bỏ sót chúng ta. Đó là điều tôi thường nói, thường nhắc trong giới Tăng Ni.
Bây giờ để thấy rõ rằng hôm nay là ngày cuối năm, chúng ta ai nấy nên trình bày điều thấy được, những biến động tâm tư của chính mình. Những biến động đó có thể có tiến triển hơn trước, nhưng đem so với các bậc thiện trí thức của quá khứ, thí dụ như Sư tổ hay các vị Thiền sư, thì vẫn phải hổ thẹn vì mình chưa được bao nhiêu.
Căn cứ trên thời gian chúng ta phân biệt mùa Đông, mùa Xuân, nên bây giờ chúng ta mới có lễ Tất niên, uống trà trừ tịch. Theo thời gian phân định là thế tục đế, chớ không phải là chân đế. Hôm nay tôi đem việc thế tục đế để nói thế tục đế, nhưng cũng là đạo lý để rồi cùng khuyên nhắc cho tất cả quí vị thấy được ý nghĩa ngày cuối năm của chúng ta quan trọng như thế nào. Tôi nhắc lại câu chuyện hôm rồi tôi có kể ở Linh Quang cho quí vị nghe. Một buổi sáng sau giờ ngồi thiền, tôi xả thiền xoa bóp xong, ngồi lại một tí cho thật hết hơi nóng. Khi ấy chú Thị giả lên dọn dẹp, tôi vén mùng ra hỏi chú:
- Ngày hôm qua đâu rồi?
Chú nhìn tôi không trả lời. Tôi nói tiếp:
- Tôi không muốn sống ngày nay, tôi muốn sống trở lại ngày hôm qua. Chú đem ngày hôm qua cho tôi.
Chú Thị giả cũng làm thinh không trả lời được câu hỏi đó. Một lát sau, tôi muốn dễ dàng cho chú một chút, tôi nói rằng:
- Hôm nay chú dọn chén này đũa này, coi như chú dọn chén mới đũa mới. Nếu bây giờ tôi đòi chú đưa chén đũa cũ ngày hôm qua, thì chú phải làm sao?
Chú nói:
- Thì con sẽ đi đổi lại cái ngày hôm qua cho Thầy.
Tôi nói tiếp:
- Như vậy tại sao tôi không muốn sống ngày nay, tôi đòi ngày hôm qua mà chú không đổi lại cho tôi?
Chú Thị giả nói:
- Ngày hôm qua là giả là mộng, không thật.
Tôi tiếp:
- Nếu ngày hôm qua là mộng, ngày nay tôi bắt đầu sống đây, đây cũng là mộng nữa hay sao? Ngày hôm qua là mộng, ngày nay là mộng, ngày mai cũng là mộng nữa sao? Như vậy suốt đời chỉ là mộng phải vậy không?
Chúng ta cứ lần bằng xâu chuỗi mộng. Một ngày qua kẽ tay rồi mất, một ngày khác qua rồi mất, mất, mất... cho tới cùng, hết một xâu chuỗi. Như vậy cả cuộc đời của con người toàn là xâu chuỗi mộng, không có gì khác hơn.
Hôm nay là ngày cuối năm, ngày mai là ngày đầu năm mới. Nếu chúng ta cứ nghĩ ngày đầu năm đó sẽ hiển hiện cho một năm mà chúng ta không bằng lòng, không vui, rồi không ưng sống với năm đó, muốn sống trở lùi với năm cũ thì có được không?
Chắc rằng không ai trở lùi lại được. Cái quá khứ đã qua, qua mất rồi, cái hiện tại cũng qua, cái sắp đến, đến rồi cũng mất. Như vậy ba thời đều mất. Đã mất thì nó không thật. Nếu ta kiểm điểm lại kỹ từ thủy chí chung, thì đó là một dòng thời gian hư ảo không thật. Bởi không thật nên nó là mộng huyễn, qua rồi không tìm lại được. Thế mà chúng ta cứ lăn xả người vào cái hư giả đó tưởng nó là thật. Cả một cuộc đời tạo cái này cái kia không dừng. Rồi tới phút chót, ngày mà hơi thở dứt đi chúng ta sẽ ra sao? Kiểm điểm lại mình, nhớ cuộc đời năm mươi tuổi, sáu mươi tuổi, bảy mươi tuổi đã qua. Đó là cái gì? Thật là một chuỗi mộng. Thật vậy, dòng thời gian là một xâu chuỗi mộng, không có gì thật hết. Mà kiếp sống chúng ta lại là một kiếp sống qui định bởi thời gian theo số năm sáu mươi, bảy mươi v.v... Thời gian không thật thì con người chúng ta có thật hay không? Cũng không thật luôn.
Nhớ năm ngoái tóc tôi bạc ít, năm nay tóc tôi đã bạc nhiều, răng tôi năm ngoái lung lay ít, năm nay lung lay thêm. Cứ như vậy, khi thời gian trôi thì bản thân chúng ta cũng bị tiêu mòn theo đó. Nếu căn cứ vào hiện tại, từ con người cho đến sự vật chung quanh mình đều theo dòng thời gian mà biến đổi, sanh diệt từ phút, từ giây, từ sát-na, không dừng lại ở đâu hết. Chúng ta thấy rõ ràng là dòng thời gian hư ảo. Nó đã chi phối hết cả cuộc sống của chúng ta, từ thân mình cho đến ngoại cảnh. Không có cái gì không bị chi phối. Khi dòng thời gian đã hư ảo thì kiếp sống của con người cũng hư ảo, sự vật chung quanh cũng là hư ảo.
Như vậy có thể kết thúc rằng: Chúng ta lần bằng những xâu chuỗi mộng, những hạt chuỗi mộng. Từng tháng từng năm, chúng ta mặc chiếc áo mộng đan dệt bằng những sợi tơ mộng. Chung quanh chúng ta toàn là mộng, mà không hay. Chúng ta lỡ sống như vậy rồi mà lại đua nhau giành giật danh lợi tài sắc, trong cái mộng đó, tạo không biết bao nhiêu đau khổ huyết lệ cho nhau. Đó là vì chúng ta không biết cuộc đời là ảo mộng. Nếu hôm nay thấy rằng chúng ta sống trong chuỗi mộng, mặc những chiếc áo mộng thì còn gì mà đắm mê tham luyến cảnh mộng ấy nữa. Thân mình và ngoại cảnh là không gian, ba thời quá khứ hiện tại vị lai là thời gian. Tất cả là một dòng mộng có gì thật là mình. Lâu rồi chúng ta cứ mê lầm tưởng là thật, rồi tính thời gian để định số tuổi, hãnh diện sống dài ngắn v.v... Lượm lặt những sự vật vô thường ở chung quanh, cho đó là sự việc của mình. Kiểm điểm lại chỉ là lần chuỗi mộng, mặc áo mộng mà thôi. Đó là chỗ thấy của chúng tôi.
Nếu tất cả thời gian là mộng, không gian là mộng, thì chúng ta chìm luôn trong mộng đó hay sao? Hay còn một cái gì nữa? Nếu chúng ta cứ thấy thời gian trôi qua là mộng, cuộc sống mình sự vật chung quanh mình cũng là mộng, thì lúc đó chúng ta sẽ đi mãi trong cái sanh diệt hư ảo mộng huyễn rồi tuyệt vọng sao? Nhưng nhờ phúc duyên lành, chúng ta được đức Phật chỉ cho trong cái mộng ấy có cái không phải là mộng. Mà cái đó là cái hiện giờ chúng ta đang trở về đang theo dõi nó và tìm thấy nó, để sống với nó. Như vậy trong cái mộng chúng ta còn thấy cái không phải mộng. Thời gian không gian đều là mộng. Cái không phải là mộng đó đối với toàn thể mộng này nó có giá trị biết là bao! Vì vậy khi chúng ta thấy đang bị cái hư ảo huyễn mộng chi phối thì đồng thời cũng nhận thấy còn có cái không phải hư ảo, không phải huyễn mộng luôn có mặt với chúng ta. Điều đó rất đáng mừng! Mừng cho mình chừng nào lại thương cho những người đang lao mình trong mộng chừng ấy. Họ đang tạo nghiệp ác, gây khổ đau, thật đáng thương xót!
Khi chúng ta biết kiếp người là ảo mộng, tìm thấy một cái gì thoát ra ngoài vòng ảo mộng đó, chúng ta nương tựa nó để được an lành. Chúng ta càng thương xót thấm thía đối với những người đang lao mình trong mộng mà tự họ không thức tỉnh. Chính cái nhìn đó mà một Thiền sư Việt Nam đã diễn đạt tâm tư bằng những câu thơ, để cho bao nhiêu nhà văn nhà thơ Việt Nam nhắc lại mãi không quên. Thiền sư Mãn Giác đã nói:
Xuân khứ bách hoa lạc
Xuân đáo bách hoa khai
Sự trục nhãn tiền quá
Lão tùng đầu thượng lai
Mạc vị Xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.
Dịch:
Xuân đi trăm hoa rụng
Xuân đến trăm hoa cười
Trước mặt việc đi mãi
Trên đầu già đến rồi
Chớ bảo Xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua, sân trước một cành mai.
Hai câu đầu diễn tả Xuân đến Xuân đi, là dòng thời gian. Trăm hoa rụng, trăm hoa cười là những sự vật hiện có trong không gian. Như vậy thời gian và không gian là một dòng sanh diệt ảo mộng, trôi theo dòng ảo mộng đó thì con người mình như thế nào? Nhìn thời gian trôi và tưởng như mình không mắc kẹt ở trong ấy, đâu ngờ ngó lên đầu mái tóc đã bạc phơ. Như vậy thời gian trôi đi, không gian biến đổi thì, chính mình theo đó mà đổi. Thật là bi đát, nếu cuộc đời chỉ có ngang chừng ấy thôi. Nhưng mà không bi đát lắm với đôi mắt của Thiền sư vì “mạc vị Xuân tàn hoa lạc tận, đình tiền tạc dạ nhất chi mai.” Đừng bảo rằng mùa Xuân tàn thì hoa rụng hết. Đêm qua vẫn còn có một cành mai nở trắng ở trước sân. Rõ ràng trong cái tàn hoại ảo mộng còn có một cái gì thầm kín đẹp đẽ trường tồn mãi. Đó là một cành mai. Một cành mai của Thiền sư Mãn Giác tức là cái gì Phật đã nói trong kinh Lăng Nghiêm, đó là “Chân tâm” hay là Như Lai Tạng tánh của chúng ta. Hoặc ở chỗ khác trong kinh Pháp Hoa, đức Phật dụ là “Hòn ngọc quí” đang buộc trong chéo áo.
Như vậy đối với người tu, nhất là khi chúng ta hiểu được chút ít về Thiền, nếu chúng ta sống với tâm niệm Thiền thì mới thấy rằng trong cái sanh diệt ảo mộng, còn có cái không sanh diệt lẫn trong ấy. Thế nên lòng mình được an ổn, tự tại và vui vẻ. Chỉ thấy được một tí, một khía cạnh nhỏ xíu nào của cái đó, chúng ta cũng cảm thấy có hứng khởi, một niềm vui vẻ để xóa được nỗi đau buồn, những cái tối tăm thời quá khứ. Thấy được một tí thôi mà chúng ta cũng có một niềm an lạc rồi, huống nữa là thấy toàn thể Bản tâm ấy. Nếu chúng ta thực hiện nó toàn vẹn thì đẹp biết chừng nào. Vì vậy chúng tôi tin rằng với sự cố gắng mãnh liệt của tất cả chúng ta ai nấy rồi đều có một ngày sẽ vỗ tay cười, cười quên thôi như Hòa thượng Thủy Lạo. Sau khi bị một đạp của Mã Tổ vào hông, Ngài cười cho đến mãn đời không thôi. Trong cuộc đời đen tối ảo mộng đó mà mình tìm được cái gì nó thoát ra ngoài, chẳng khác nào ở trong đêm tối mà mình thấy hay nắm một ngọn đèn sáng, thật còn gì vui sướng cho bằng. Cho nên đó là nguồn vui vô tận đối với người hiểu đạo, học đạo. Cái vui đó không phải để rồi hưởng riêng mà phải ban rải cho mọi người cùng vui với chúng ta. Đó là tâm niệm của người tu hành. Nhưng muốn hưởng được mùi thơm hoa mai, cành mai của ngài Mãn Giác nói, có dễ dàng không, hay phải chịu cay đắng nhọc nhằn? Tôi xin nhắc lại bài kệ của Tổ Hoàng Bá:
Trần lao quýnh thoát sự phi thường
Hệ bả thằng đầu tố nhất trường
Nhược bất nhất phiên hàn triệt cốt
Tranh đắc mai hoa phốc tỹ hương.
Dịch:
Vượt khỏi trần lao việc chẳng thường
Nắm chặt đầu dây giữ lập trường
Nếu chẳng một phen xương buốt lạnh
Hoa mai đâu dễ ngửi mùi hương.
Thật tình, khi chúng ta muốn ra khỏi vòng ảo mộng ấy, dĩ nhiên chúng ta là kẻ phi thường. Tại sao? Vì mọi người đang lao mình trong mộng mà không biết là mộng, rồi chìm đắm, rồi say sưa, rồi tạo nghiệp khổ cho nhau. Đó là người sống trong vô minh trong mờ tối. Bây giờ chúng ta đã thấy được đó là vòng vô minh, đen tối muốn thoát ra khỏi nó, thì đối với những người kia chúng ta chẳng “phi thường” là gì? Muốn làm kẻ phi thường, chúng ta phải làm sao? Phải nắm vững đầu mối dây, đừng bao giờ lay chuyển lập trường của mình từ thủy chí chung. Nói từ thủy chí chung thì xa quá, tôi muốn nói lập trường của Tăng Ni hay Phật tử, kể từ khi chúng ta có được cái duyên biết đạo vị của Phật, kể từ đó cho đến bao giờ chúng ta đạt đạo mới thôi. Lập trường đó không bao giờ lay, nghĩa là nắm vững. Tôi tin rằng với lập trường đó ai nấy cũng đều ngửi được mùi thơm của hoa mai. Thế nên Ngài nói nắm vững lập trường để sau này dù gặp những cái khó khăn, khổ não, nhọc nhằn, chướng ngại gì chúng ta cũng đều qua hết. Có qua như vậy ta mới đi đến chỗ đẹp đẽ an lành đúng theo sở nguyện. Tức là ngửi được mùi thơm của hoa mai. Để diễn tả cái đen tối, cái khổ đau, cái chịu đựng cay đắng đó, Ngài mới nói rằng: Nếu không phải bị sương tuyết lạnh thấu xương thì làm sao có ngày ngửi được mùi thơm của hoa mai. Hình ảnh hoa mai và tuyết sương mượn ở bên ngoài, nói lên sự cay đắng khó khăn của người tu. Do sự cay đắng khó khăn đó mà chúng ta đi đến chỗ tột cùng, nếu giữ lập trường không lay chuyển. Sau khi qua cái cay đắng tột cùng rồi, chúng ta sẽ được cái an lành vô thượng, đó là ngửi mùi thơm của hoa mai. Thành ra hoa mai của Tổ Hoàng Bá nói cũng là hoa mai của Thiền sư Mãn Giác. Hai vị đó đều mượn hình ảnh hoa mai để chỉ cho chúng ta còn có một cái chân thật. Với một cố gắng phi thường thì chắc chắn rồi ai cũng hưởng được hương vị nó. Phải gan dạ chịu qua một mùa Đông lạnh buốt mới có thể ngửi được mùi thơm của hoa mai.
Vì vậy tôi có thể kết thúc rằng, nếu tất cả mọi người chúng ta ai nấy đều có thiện chí quyết tiến lên, không mắc kẹt trong cuộc đời ảo mộng nữa, thì phải gan dạ chịu đựng, bởi vì chúng ta đi ngược dòng sanh tử. Dòng sanh tử giống như một dòng nước lũ quá mạnh. Người nào không gan dạ không vững bền thì sẽ bị nó cuốn phăng đi. Vì vậy mỗi người phải gan dạ, vững vàng để vượt lên, đừng để cuốn đi. Như thế chúng ta mới có thể ra khỏi dòng nước lũ. Đó là chỗ thiết yếu mà mọi người chúng ta, xuất gia cũng như tại gia, muốn đi ngược dòng ảo mộng của thời gian, không gian đều phải cố gắng.
Tóm lại, tôi đã kết thúc bằng một đáp số rõ ràng cho quí vị thấy cuộc đời tu hành của chúng ta là phải như vậy.
ĐỨC DI-LẶC QUA HÌNH ẢNH
VÀ Ý NGHĨA NGÀY VÍA CỦA NGÀI
Trong chùa tất cả những hình thức thờ phụng cũng như mọi nghi lễ đều có ý nghĩa rõ ràng, nhưng vì lâu rồi chúng ta nặng về phần tín ngưỡng, nên không xét kỹ ý nghĩa. Vì vậy đi chùa rất lâu thờ Phật quá nhiều, mà tự mình không biết ông Phật đó là thế nào? Tại sao ngày đó mình phải lễ Ngài?
Hôm nay nhân ngày đầu năm, đúng là ngày vía của đức Phật Di-lặc, chúng ta lễ Phật gọi là lễ vía đức Di-lặc. Phải biết ý nghĩa ngày vía của Ngài thì việc lễ của chúng ta mới có giá trị thật. Vì sợ quí Phật tử không hiểu lẽ đó, cũng như chư Tăng trong chùa, nhiều khi không có thời giờ nghiên cứu rõ ràng, cho nên hôm nay tôi nói ý nghĩa về đức Phật Di-lặc để quí vị tìm hiểu, coi như lời chúc Tết đầu năm của tôi.
Nói về đức Phật Di-lặc chắc rằng đại đa số quí vị đều nhớ đến hình tượng của một ông Phật ngồi phạch ngực, mập, bụng to và miệng cười toe toét. Có khi quí vị thấy bên cạnh Ngài có sáu đứa con nít, đứa thì móc lỗ tai, đứa thì móc miệng, đứa thì thọc lét v.v... Những hình tượng đó như là một trò đùa. Mình không biết tại sao lại có chuyện đùa ở trong chùa như vậy. Đó là ý nghĩa chúng ta cần phải biết. Nói đến đức Di-lặc chúng tôi phải khảo lịch sử từ Ấn Độ sang Trung Hoa để quí vị khỏi lầm lẫn. Nhiều tà thuyết bây giờ dựng đức Phật Di-lặc làm chỗ tiêu chuẩn để họ lôi cuốn Phật tử. Đức Phật Di-lặc là tên dịch của thuở xưa. Sau này có dịch ra nhiều tên khác nhưng vì chúng ta đã quen kêu là đức Phật Di-lặc.
Chữ Di-lặc là phiên âm tiếng Phạn Maitreya, Tàu dịch là Từ Thị. Có thuyết nói rằng khi bà mẹ mang thai Ngài, khởi lòng thương không nỡ giết hại chúng sanh và không ăn thịt cá được cho nên nói là “Từ”, vì Ngài là con bà cho nên gọi là Từ Thị. Lại có thuyết nói khác hơn, vì thuở xưa Ngài tu về từ bi tam-muội cho nên sau này có tên là Từ Thị. Ngài còn được gọi là A-dật-đa cũng là dịch âm tiếng Phạn Ajita dịch là Vô Năng Thắng tức là không có thể nào hơn được, trí tuệ và hạnh tu của Ngài ít người hơn được, nên có tên Vô Năng Thắng. Đó là nói về đức Phật theo thói quen của chúng ta. Nếu nói theo kinh thì gọi là Bồ-tát Di-lặc. Hồi đức Phật còn tại thế, Bồ-tát Di-lặc là một nhân vật lịch sử sanh ở miền nam Thiên Trúc, trong dòng Bà-la-môn, sau gặp Phật, xuất gia, tu theo hạnh Bồ-tát.
Trước hết tôi dẫn kinh A-hàm. Trường A-hàm có nói thế này: Đức Phật dạy rằng sau này ở cõi Ta-bà, tâm con người càng ngày càng ác, mười nghiệp thiện họ bỏ qua mà luôn tạo nhiều nghiệp ác. Cho đến bao giờ họ quí mười nghiệp ác cũng như thuở xưa quí trọng mười nghiệp thiện và tuổi thọ chúng sanh giảm xuống đến cuối cùng còn mười tuổi. Khi nghiệp ác nhiều thì tuổi thọ theo đó mà giảm. Bao giờ tuổi thọ con người chỉ còn mười tuổi, cũng như bây giờ tuổi thọ chúng ta coi là một trăm tuổi vậy, thì lúc đó thế giới sẽ có những tai nạn đao binh. Đao binh ở đây không phải là người ta giết chết nhau, mà chính những lá cây cỏ cũng có thể biến thành gươm bén. Chúng ta bị chặt bị cắt mà chết. Qua tai nạn đao binh đó tới tai nạn tật dịch tức là đau ốm bệnh dịch. Vì vậy đại đa số dân chúng trên thế giới này chết mòn chỉ còn sót lại một ít người tu hành ẩn trên núi trên non. Qua thời gian đó rồi, họ tìm thấy chỉ còn sống sót lưa thưa vài người. Lúc đó, họ mới biết vì con người làm điều ác, nên bị quả báo chết như vậy. Cho nên họ nỗ lực tu mười điều thiện lại. Khi bắt đầu tu mười điều lành thì tuổi thọ họ tăng, cứ một trăm năm thì tăng lên một tuổi. Đến bao giờ tuổi thọ lên đến tám mươi bốn ngàn tuổi, lúc đó dân chúng đông đảo thuần hậu, làm lành thì Phật ra đời ở dưới cội cây Long Hoa gọi là hội Long Hoa. Như vậy quí vị tưởng tượng bây giờ chúng ta đang ở cái mức tám mươi tuổi thọ mà cứ một trăm năm giảm xuống một tuổi, giảm tới còn mười tuổi, rồi tăng lên cho đến tám mươi bốn ngàn tuổi, thì thời gian từ đây tới đó còn bao xa? Theo trong kinh khi Phật Thích-ca nhập diệt thì đức Di-lặc cũng nhập Niết-bàn. Ngài sanh lên cung trời Đâu-suất ở trong nội viện sống bốn ngàn tuổi. Sau đó Ngài mới sanh trong thế giới Ta-bà, thành đạo dưới cội cây Long Hoa giáo hóa chúng sanh kế tiếp đức Phật Thích-ca. Vậy tưởng chừng bao lâu Phật Di-lặc ra đời? Vậy mà có một số người nghe trong kinh nói đức Phật Di-lặc ra đời, nghe nói hội Long Hoa, rồi họ bịa ra ít bữa đức Phật Di-lặc ra đời, vài bữa hội Long Hoa đến v.v... Đó là những tà thuyết để lừa bịp những Phật tử không hiểu Phật pháp. Lại có người tự xưng là Phật Di-lặc hoặc tự cổ động rằng mình sẽ chờ đón đức Phật Di-lặc. Quí vị xét, nếu chúng ta tin đức Phật Di-lặc chỉ còn một phen bổ xứ lên cung trời Đâu-suất, sau này hạ sanh ở thế giới Ta-bà thành Phật, nếu tin lời Phật Thích-ca nói trong kinh thì chúng ta phải tin luôn thời gian đã định ngày Phật ra đời. Chúng ta tin đức Phật Di-lặc, tin có hội Long Hoa mà quên thời gian đó. Rồi hời hợt, cứ nghe ai nói đức Phật Di-lặc ra đời thì vội vàng chạy tới đảnh lễ mong cầu v.v... Đây là cái sai lầm quá lớn để những tà thuyết lợi dụng danh từ Phật giáo tuyên truyền mê tín dị đoan. Người Phật tử chân chánh phải hiểu rõ điều này. Đó là tôi khảo về lịch sử từ những bộ kinh gọi là Di-lặc Thượng Sanh, Di-lặc Hạ Sanh và Di-lặc Bản Nguyện. Những kinh đó đều do đức Phật Thích-ca nói ra, đọc kỹ rồi, chúng ta biết rõ lịch sử đức Di-lặc, vậy đừng nghe lời của một số người bàn tán, dựng lên những điều sai lầm. Đó là chúng tôi nói về đức Phật Di-lặc ở Ấn Độ.
Bây giờ nói tới đức Phật Di-lặc ở Trung Hoa. Nếu căn cứ theo hình tượng chúng ta thờ thì không có hình tượng của đức Bồ-tát ở Ấn Độ, mà là hình tượng đức Di-lặc ở Trung Hoa, bụng phệ lùn mập. Đức Di-lặc ở Trung Hoa ra đời lúc nào? Điều đó chúng ta phải khảo lại. Có nhiều thuyết nói đức Di-lặc hiện giờ đang ở trên cung trời Đâu-suất. Ngài chưa tới thời kỳ giáo hóa chúng sanh ở thế giới này. Nhưng với tinh thần người hiểu Phật giáo Đại thừa thì Bồ-tát có Báo thân, Ứng thân và nhất là Hóa thân. Tùy căn cơ chúng sanh mà các ngài ứng hóa vô lượng thân không thể lường được. Cho nên sử Trung Hoa kể mà tôi nhớ đại khái có hai Hóa thân của Bồ-tát Di-lặc. Một Hóa thân gọi là ngài Phong Can ở gần chùa Quốc Thanh đời nhà Tùy, tức là ở khoảng thế kỷ thứ 6. Nói rằng Ngài có một cái am gần chùa Quốc Thanh và đi thuyết giáo nơi này nơi nọ. Có lắm lúc Ngài cỡi cọp về, chúng trong chùa thấy hoảng kinh. Khi đến khi đi không ai lường được. Có lần Ngài ôm về một đứa bé gởi trong chùa đặt tên là Thập Đắc. Thỉnh thoảng có một ông ăn mặc rách rưới ở trong núi lạnh đi ra, tuyết phủ đầy mình gọi là Hàn Sơn. Hàn Sơn và Thập Đắc được coi như là hai người ăn mày trong chùa, ăn mặc rách rưới ngủ ngoài hành lang. Tới bữa ăn thì đợi chúng ăn xong hết, còn những thừa cặn gì đó Ngài trút lại dùng. Có khi các Ngài còn lượm cơm dưới sàn nước, rửa lại mà ăn. Chúng trong chùa coi các Ngài như hai kẻ ăn mày không kém, nhưng mà có cái lạ là nhiều khi hai Ngài hứng làm thơ. Những bài thơ của các Ngài không ai hiểu gì hết. Một hôm bất chợt, sau một bữa trưa chúng Tăng nghỉ hết, hai ngài trèo lên cổ của ngài Văn-thù và ngài Phổ Hiền ngồi. Một ông Tăng ở dưới tăng xá thình lình đi lên, thấy như vậy ngạc nhiên quá mới chạy đi báo cho thầy Trụ trì hay. Thầy Trụ trì lôi hai ngài xuống rầy quở đủ thứ hết. Hai Ngài đó là bạn thân của ngài Phong Can. Ngài Phong Can tịch rồi. Một hôm quan huyện có bệnh nan y, nằm chiêm bao thấy ngài Phong Can tự xưng là đức Di-Lặc bảo ông đến đảnh lễ Bồ-tát Văn-thù, Phổ Hiền và chỉ cho ông một phương thuốc uống hết bệnh. Muốn đảnh lễ hai vị đó thì vào chùa Quốc Thanh hỏi tên Hàn Sơn, Thập Đắc. Quan huyện theo lời chỉ tìm thuốc uống lành bệnh, mới đến chùa Quốc Thanh để gặp hai vị Hàn Sơn, Thập Đắc. Khi thầy Trụ trì thấy quan huyện hỏi hai chú ăn mày, thầy ngại quá không muốn kêu. Nhưng quan huyện cho biết ông mong mỏi gặp hai vị đó, buộc lòng thầy Trụ trì cho mời. Hai Ngài nắm tay đi ra, quan huyện vừa trông thấy quì mọp xuống lạy. Hai Ngài mới cười và nói: “Cái lão Phong Can bày đặt làm cho ta phải bại lộ.” Hai Ngài, cõng nhau chạy tuốt vô rừng mất biệt. Do đó mới biết hai Ngài là hiện thân của Văn-thù, Phổ Hiền, còn ngài Tăng Can là hiện thân của đức Di-lặc. Nhưng biết thì chuyện đã rồi, không ai ngờ để đảnh lễ các Ngài được hết.
Một vị khác vào thế kỷ thứ 10 đời Ngũ đại ở Trung Hoa gọi là Bố Đại hòa thượng. Vị đó gần gũi chúng ta nhất, tức là ông già quảy cái đãy to tướng, mặt tròn, miệng cười, bụng phệ, áo phạch ngực. Bố Đại hòa thượng lúc nào cũng quảy một túi lớn, đi trong nhân gian gặp chỗ nào có cái gì, cũng xin bỏ vô đãy. Đến chỗ có con nít đông, Ngài ngồi xuống phân chia và vui chơi với chúng. Cho nên người ta thấy miệng Ngài lúc nào cũng cười vui vẻ thích thú. Đó là hình ảnh đức Di-lặc, một vị Hòa thượng bụng lớn, mập, miệng cười toe toét.
Tại sao gọi ngài Bố Đại hòa thượng là Di-lặc?
Trong sử có nói đủ những chuyện lạ xảy ra trong đời Ngài, ở đây tôi chỉ lược vài điểm thiết yếu cho quí vị biết mà thôi. Ngài đi xin và sống một thời gian ở tỉnh Minh Châu, lang thang nơi này nơi nọ. Thời đó là thời Thiền tông thạnh hành ở Trung Hoa. Một hôm Hòa thượng Thảo Đường gặp Ngài hỏi: “Đại ý Phật pháp thế nào?” Đang quảy bị trên vai Ngài liền để xuống. Vị Hòa thượng hỏi thêm: “Chỉ có thế thôi hay có con đường tiến lên?” Ngài mang bị để lên vai và đi. Đó là câu trả lời của Ngài.
Trong lịch sử Thiền tông, cũng câu hỏi đó, Tổ Lâm Tế Nghĩa Huyền đem ra hỏi Tổ Hoàng Bá liền bị ăn gậy. Ở đây ngài Bố Đại hòa thượng đối với câu hỏi đó, Ngài chỉ buông cái bị xuống đất. Hỏi có con đường tiến lên nữa không, Ngài mang bị lên vai đi luôn. Người ta vẫn chưa biết tung tích của Ngài thế nào? Nhưng một hôm, Ngài trở về chùa, ngồi trên bàn thạch, Ngài làm một bài kệ rồi tịch. Bài kệ đó như thế này:
Di-lặc chân Di-lặc
Phân thân thiên bách ức
Thời thời thị thời nhân
Thời nhân tự bất thức.
Ngài nói rằng: Di-lặc thật Di-lặc. Phân thân trong muôn ức. Thường thường chỉ dạy người đời. Người đời tự không biết. Nhờ bài kệ đó mà người ta mới biết Bố Đại hòa thượng là Hóa thân của đức Di-lặc. Vì vậy muốn vẽ hình đức Di-lặc người ta liền vẽ hình Bố Đại hòa thượng. Đó là đức Di-lặc ở Trung Hoa. Bây giờ chúng ta thờ phượng là thờ hình ảnh đức Phật đó. Chớ đức Bồ-tát Di-lặc ở Ấn Độ thì mình không biết. Còn đức Di-lặc ở cung trời Đâu-suất lại càng không biết hơn nữa. Đó là phần khảo về lịch sử.
Đây nói về ý nghĩa ngày vía mùng một Tết. Ngày vía này là ngày vía gì của đức Di-lặc? Ở Ấn Độ thì không biết ngày nào, ở Trung Hoa hóa thân hai, ba đời, cũng không biết ngày nào. Nói ở cung trời Đâu-suất lại càng không biết hơn nữa.
Như vậy ngày vía này là ngày vía gì?
Chúng ta đừng nghĩ rằng phải đợi có ngày sanh ngày tịch mới gọi là ngày vía. Đây là ý nghĩa thâm sâu trong nhà Thiền. Các Tổ đã khéo léo chọn ngày mùng một Tết làm ngày vía đức Phật Di-lặc. Chúng ta lạy Ngài với câu: Long Hoa Giáo Chủ đương lai hạ sanh Di-lặc Tôn Phật. Chư Tổ thấy thế gian xem ngày mùng một Tết là ngày định đoạt của suốt một năm. Ngày này mọi người dè dặt từng lời nói, dè dặt từng hành động, dè dặt từng tên người đến thăm mình, dè dặt đủ thứ chuyện. Như vậy ngày mùng một Tết là ngày đầy đủ ý nghĩa của tương lai mình. Trong chùa ngày mùng một Tết có ý nghĩa gì? Các Tổ lấy ngày mùng một Tết làm ngày vía đức Phật Di-lặc cũng là ngày tương lai rực rỡ, ngày tương lai sẽ thành Phật. Sáng mùng một chúng ta lạy Phật, lạy vía đức Di-lặc, là đặt hết cả niềm hi vọng vào tương lai, hi vọng chúng ta sẽ thành Phật. Không hi vọng giàu có sang trọng gì mà chỉ hi vọng sẽ thành Phật. Đó là ý nghĩa sâu đậm nhất của ngày mùng một Tết để chúng ta lễ đức Phật Di-lặc.
Ý nghĩa thứ hai là hình ảnh vui cười của đức Di-lặc. Đó là hình ảnh hạnh phúc. Vì vậy có chỗ thay vì để danh từ Di-lặc lại để một con người hạnh phúc.
Tại sao là con người hạnh phúc? Tới đây tôi bước sang giai đoạn sâu của Thiền tông.
Hỏi: Thế nào là đại ý Phật pháp?
Ngài quăng cái bị xuống mà không trả lời gì hết.
Hỏi: Có con đường tiến lên không?
Ngài quảy bị lên vai mà đi.
Đại ý Phật pháp không có gì lạ. Nói thẳng e quí vị phiền, mà không nói e cho rằng giấu giếm. Đại ý Phật pháp chỉ có một chữ xả là được. Chấp tức là chấp mình chấp người, quyền thế, danh vọng v.v... Như vậy cái mà buông tất cả đó là đại ý Phật pháp. Nói như vậy đó e quí vị khó hiểu. Tôi nói câu chuyện hơi bình dân một chút mà không kém quan trọng. Tổ Hoàng Bá, thầy của Tổ Lâm Tế Nghĩa Huyền, một vị Thiền sư nổi tiếng giữa đời Đường, Ngài dạy rằng, chỉ cần có một hạnh bố thí là đầy đủ tất cả. Bố thí là cho món này món kia, tức xả hay buông bỏ. Chỉ có một hạnh xả là đầy đủ tất cả. Khi nhắc về hạnh tu Sư thúc, Sư bá, Ngài nói: Mã đại sư sanh ra tám mươi bốn vị thiện tri thức, hỏi đến người tiêu chảy, tiêu chảy đầy đất chỉ có Qui Tông. Nói đến tiêu chảy quí vị đừng nghĩ theo lối quê mùa của mình, đó là xả tất cả. Chỉ có Hòa thượng Qui Tông là con người xả được tất cả. Con người xả là con người đáng quí hơn hết.
Như vậy quí vị thấy rõ ràng xả là một pháp khiến cho người đạt đến viên mãn trong đạo, nếu nói theo Thiền tông. Vì vậy sau khi Ngài buông cái túi xuống rồi, hỏi còn có gì nữa không thì Ngài quảy túi lên vai. Tới đó đừng tưởng rằng hết rồi mình không còn gì nữa. Chính buông hết rồi, mình mới được một quảy lên vai tự tại. Cho nên nhà chùa có câu “bỏ tất cả là được tất cả”. Nhưng nói bỏ tất cả để được tất cả thì mình còn tham quá. Bây giờ chỉ cần bỏ tất cả là đủ rồi. Chính cái hạnh xả đó là chỗ rất sâu và đưa chúng ta tới chỗ cao siêu của người giải thoát. Vì vậy trong nhà Thiền nói ta không có một pháp dạy người mà chỉ tùy phương tiện nhổ đinh tháo chốt thôi. Nhổ đinh tháo chốt là xả, là phá chấp. Xả được là xong việc.
Đến đây tôi đi sang giáo lý để quí vị dễ thấy dễ tu hơn. Nói đến xả là nói đến hạnh phúc cho nên quí vị nghe danh từ thường dùng nhất là Hỉ Xả. Hai cái đó cái nào là nhân cái nào là quả? Có thể nói hỉ là nhân, xả là quả, cũng có thể nói ngược lại xả là nhân, hỉ là quả. Tại sao vậy? Như hằng ngày có vị nào làm phật lòng mình một chút khiến mình bực bội. Khi bực bội thì không vui. Giờ đây người đó xin lỗi mình, mình liền vui vẻ mới tha được. Còn giận thì không tha được, vui vẻ mà tha thứ cho họ, như vậy mới ổn, trường hợp đó hỉ là nhân, bởi vì vui nên mình mới xả, xả là quả.
Nhưng ở đây nói con người hạnh phúc đó phần lớn xả là nhân hỉ là quả. Bởi vì chúng ta có xả được chúng ta mới vui. Nếu chúng ta không xả được thì chúng ta không bao giờ vui được. Tôi nói một việc hết sức là tầm thường, như trong gia đình quí đạo hữu, người chồng làm phật ý người vợ, trong lúc phật ý thấy nhau có vui không? Không nói chuyện nhau, không nhìn mặt nhau, bao giờ xả được thì lúc đó mới vui vẻ nói chuyện được. Như vậy trường hợp đó do xả mà được vui. Nếu không xả thì không vui. Đó là thí dụ nhỏ, tôi thí dụ rộng hơn. Trường hợp chúng ta đối với người ngoài đời hay bè bạn, nếu họ có hành động lấn hiếp mình hoặc có lời nói cao hơn mình, lúc đó làm sao, có an ổn được không? Không vui đó là tại sao? Tại nhớ người kia nói gác mình, ỷ mạnh hiếp yếu. Nghĩ như vậy ngủ không được, nếu còn nghĩ rằng người ta lấn hiếp mình, người ta gác mình, lúc đó có cảm thấy vui vẻ hạnh phúc hay không? Chắc không bao giờ có hạnh phúc được hết. Lúc đó mình sống trong phiền não trong tam độc chớ không có hạnh phúc. Bây giờ người nào bỏ được cái đó thật là hạnh phúc. Hồi đức Phật còn tại thế, một hôm Ngài đi khất thực ở vùng Bà-la-môn, vị lãnh tụ Bà-la-môn nổi tức đi theo sau mắng Ngài. Ông ta mắng bao nhiêu thì mắng, Ngài cứ chậm rãi đi. Tới ngã tư đường Ngài trải tọa cụ ngồi. Ông chạy đến trước mặt hỏi: “Ngài thua tôi chưa?” Ngài liền đáp bằng một bài kệ:
Người hơn thì thêm oán
Kẻ thua ngủ không yên
Hơn thua hai đều xả
Ấy được an ổn ngủ.
Hơn người thì người tức nên oán. Mà người ta oán mình có vui hay không? Thua người về ngủ không được nằm lăn qua trở lại hoài. Như vậy cả hai đều là cội gốc của đau khổ, của phiền não. Thành ra cái hơn cái thua bỏ phăng đi thì được an ổn ngủ. Tối đến nằm xuôi cẳng ngủ khò, không lo không tính, không phiền muộn gì hết. Đó là người hạnh phúc.
Hạnh phúc từ đâu mà có? Từ cái xả mà có, chớ chúng ta cứ ôm ấp phiền não trong lòng hoài thì làm sao mà hạnh phúc được. Quí vị nhớ, nếu trong gia đình chúng ta không xả được cứ giận vợ giận con hoài thì cũng không vui. Ra ngoài xã hội cứ nhớ người này ăn hiếp mình, người kia nói gác mình, người nọ khinh mình, v.v... Người ôm một bụng như vậy thì lúc nào cũng đau khổ, cũng phiền não hết. Chỉ người nào xem đó như gió thổi ngoài tai, rồi ngủ khò không thèm nhớ, thì hạnh phúc. Người nào mà trong nhà cũng như ở ngoài gặp cái gì phật ý, xem đó như là lỡ lầm của người không gì quan trọng hết, không có gì phải phiền muộn, người được như vậy mới là con người hạnh phúc. Đó là tôi chỉ nói hạnh phúc nho nhỏ của thế gian.
Đầu năm, chúng ta quen chúc cho nhau một năm đầy hạnh phúc. Chúc hạnh phúc mà cứ phiền giận hoài thì làm sao mà hạnh phúc được. Như vậy chỉ là một cái chúc suông. Ở đây tôi không chúc gì cho quí vị hết mà chỉ khuyên: “năm nay tập tiêu chảy kha khá một chút”, chừng nào quí vị tiêu chảy được như ngài Qui Tông, lúc đó quí vị sẽ tràn trề hạnh phúc. Đó là hạnh phúc cao siêu, tức là đạt đến cứu kính giải thoát. Trong kinh cũng dạy chúng ta đừng chấp cảnh, chấp người, đừng chấp tâm, đừng chấp pháp. Nếu chúng ta buông hết những cái chấp đó thì Niết-bàn hiện tại, vĩnh viễn hạnh phúc. Không chấp tức là xả. Xả được mới thật là vĩnh viễn hạnh phúc. Vì vậy nói tới đức Di-lặc là nói tới hạnh hỉ xả nên người Trung Hoa tượng trưng Ngài bằng hình ảnh Bố Đại hòa thượng, một hình ảnh vui vẻ tươi cười lúc nào cũng sẵn sàng hỉ xả.
Vậy năm nay quí vị lễ đức Phật Di-lặc là nhớ đến hạnh hỉ xả của Ngài, nhớ đến cái miệng vui cười hạnh phúc của Ngài. Nếu quí vị sống được cái hạnh phúc đó thì quí vị chẳng những hạnh phúc ở hiện tại mà còn được an lạc vĩnh viễn.
Đó là ý nghĩa của đức Di-lặc.
HẠT CHUỖI MỘNG NGÀY QUA MẤT
NGHIỆP THIỆN ÁC CÒN
Tất niên Ất Mão - 1975
Chúng tôi thường nói với quí vị mỗi một ngày qua là lần đi một hạt chuỗi, rồi ngày khác tới là lần đi một hạt chuỗi. Như vậy hôm nay là cuối năm Ất Mão, chúng ta đã lần được bao nhiêu hạt chuỗi rồi? Đã lần hết ba trăm năm mươi mấy hạt. Vì có tháng thiếu nên không đủ ba trăm sáu mươi mà chỉ có ba trăm năm mươi mấy hạt chuỗi. Quí vị thấy mấy hạt chuỗi lần qua rồi, nó còn hay không? Tất cả quí vị nhớ ôn lại xem, từ đầu năm chúng ta đón giao thừa, lễ Phật ngày mồng một Tết. Giờ đây đón giao thừa nữa, như ba trăm năm mươi mấy ngày qua kiểm điểm lại đối với chúng ta nó còn hay không? Tất cả những ai muốn ôn lại thì chỉ còn nhớ mang máng ở trong ký ức của mình, chớ thực tế thì không còn, chỉ thấy hiện giờ. Mà bao nhiêu ngày qua rồi mất như vậy, tất cả qua rồi mất hay còn cái gì?
Tuy nhiên ngày qua chúng ta tìm lại không được, chẳng khác những hạt chuỗi mộng chúng ta lần qua rồi mất không còn tìm lại được hạt nào, nhưng mà trong ba trăm năm mươi mấy ngày qua chúng ta đã gây những hận thù, đã vay nợ tiền bạc của những kẻ khác. Đến ngày chót của một năm và ngày mai sang năm mới, những oán thù đó, tiền bạc của cải ta vay mượn đó có phải trả hay không? Tuy mấy trăm ngày qua chúng ta tìm lại không được, nhưng những cái gì chúng ta đã tạo, hoặc là vay mượn tiền bạc của cải hoặc là gây oán thù với kẻ này người nọ, sang năm những cái đó có mất chưa? Hay là người ta sẽ đem hận khác trả lại cho mình? Như vậy chúng ta thấy nếu một năm qua, ngày tháng trôi qua nó không dừng lại, nhưng những cái vay mượn, cái hận thù, chúng ta đã gây thì năm mới khó mà mất. Hoặc ngược lại, nếu một năm qua chúng ta đã cho người vay mượn hoặc chúng ta gieo công đức với những người chung quanh, sang năm tới, những người đó có trả hay là quên ân đức chúng ta đã gieo? Chắc chắn không quên. Như vậy quí vị thấy mỗi ngày qua rồi mất, nhưng nghiệp chúng ta đã tạo hoặc thiện hoặc ác chưa mất hẳn. Đó là nhìn ngay hiện tại thực tế cuộc sống sanh diệt của chúng ta. Thời gian trôi qua không dừng, nhưng việc thiện ác gây ra rồi cũng khó mà mất.
Người Phật tử sơ cơ tu hành, phải nghĩ đến ngày qua không tìm lại được, nhưng những việc lành việc dữ ngày đó không mất. Dù có trải qua mười năm, hai ba mươi năm rồi năm bảy mươi năm đến ngày chúng ta ra đi, tức là cái phút chót bỏ thân tiền ấm sang thân trung ấm tới thân hậu ấm, nghiệp thiện ác vẫn còn. Nếu kiểm điểm lại năm bảy mươi năm đã sống, thời gian trôi qua không tìm lại được. Khi chúng ta sắp hấp hối bỏ thân này để sang thân khác, giờ phút ấy cũng như đêm giao thừa này, tất cả những việc thiện ác đã tạo trong một đời không phải là tiêu hẳn. Nếu là việc dữ sẽ hướng dẫn chúng ta sang đời khác chịu đau khổ.
Vì chúng sanh đang gây nghiệp nên Phật luôn nhắc nhở và khuyên chúng ta thức tỉnh làm những việc lành. Dù đời này có khổ mà biết tạo nghiệp lành thì đời sau được an vui. Đó là phương hướng của người còn đi trong luân hồi.
Chúng ta còn đi trong luân hồi thì nên chọn con đường luân hồi thiện tức là đi lên chớ đừng chọn luân hồi ác để rồi phải đi xuống. Cũng như hiện tại chúng ta phải dời chỗ ở, nên dời chỗ có tiện nghi, có đầy đủ phương tiện sanh sống dễ dàng, chớ không nên tìm chỗ khổ đau đói rét v.v... đó là chúng ta khôn ngoan biết lựa chọn, sắp đặt cho cuộc sống hiện tại và tương lai. Bằng không, chúng ta cứ mù mù mịt mịt không biết thiện không biết ác. Rồi cứ như vậy qua ngày, tạo không biết bao nhiêu tội lỗi, đến ngày cuối cùng phải mang nghiệp đen tối, chịu đọa trong cõi hắc ám. Đó là những người thật đáng thương, chịu đau khổ không biết đến đời nào ra khỏi.
Chúng tôi đã nói theo chiều sanh diệt cho quí vị thấy. Chúng ta còn ở trong luân hồi thì chúng ta nên chọn con đường đi sáng sủa an lành hơn, thời gian qua là không trở lại, tuy vậy nghiệp đã tạo thì không bao giờ mất. Cho nên trong kinh Nhân Quả, Phật nói:
Giả sử bá thiên kiếp
Sở tác nghiệp bất vong
Nhân duyên hội ngộ thời
Quả báo hoàn tự thọ.
Nghĩa là giả sử mình tạo nghiệp trải qua trăm ngàn kiếp đi nữa, nghiệp báo cũng không mất. Nghiệp đó tức là nghiệp lành, nghiệp dữ đã gây. Khi duyên hội ngộ tức là gặp nhân duyên đến rồi thì phải gánh chịu quả báo chớ không chạy trốn đâu được. Nếu chúng ta biết rõ nghiệp báo, hễ tạo nghiệp dữ, là gốc đau khổ, thì bị lôi cuốn trong vòng khổ đau mãi mãi; còn tạo nghiệp lành thì được an vui, tự tại. Đó là giai đoạn đầu của việc tu hành.
Đến đây tiến lên một bước nữa. Chúng ta đã tự biết mỗi ngày qua là một hạt chuỗi mộng lần qua kẽ tay rồi không còn nữa. Cứ mỗi ngày qua rồi, thì mất. Như vậy kết thúc của cuộc đời chẳng qua là một giấc mộng dài, không có gì hết. Nếu tính một ngày là mộng ngắn, nhiều ngày mộng ngắn kết lại thành một mộng dài, gọi là tháng. Rồi mười hai tháng, thành mộng dài hơn là một năm. Ba mươi hoặc năm bảy mươi năm kết thúc lại thành một trường đại mộng, tức là mộng dài của cuộc đời. Trong một kiếp mộng như vậy, nếu chúng ta không thức tỉnh biết nó là mộng, cứ tưởng là thật, chạy theo nghiệp tạo khổ đời đời không hết. Đó là cái mê lầm của chúng ta.
Vì vậy đức Phật lúc nào cũng nhắc bảo chúng ta phải biết rõ cuộc sống không thật, thời gian không thật. Mỗi một ngày qua rồi mất, không ai kéo lại được, giữ lại được. Nói một cách gần hơn hết là một tích tắc đồng hồ đi qua rồi không trở lại. Thời gian trôi vùn vụt không dừng. Cuộc sống của chúng ta thì cứ tiến tới, tiến thẳng tới chỗ cuối cùng là chết. Không ai dừng được, không người nào có thể duy trì kiếp sống khi duyên đã mãn. Mỗi một ngày sống là thôi thúc mình đến gần cái chết. Quí vị mỗi sáng thức dậy, thử tìm lại ngày hôm qua xem nó ở đâu? Rõ ràng thời gian qua không tìm lại được nữa. Chúng ta còn mắc kẹt trong thời gian thì phải quí tiếc thời gian. Cần nỗ lực làm lợi ích cho mình, cho chúng sanh để khỏi mất thì giờ vô ích.
Nếu chúng ta có cái nhìn thấu đáo rõ ràng biết thời gian huyễn hóa, như tôi nói là những hạt chuỗi mộng hay những hạt chuỗi nước, thì chúng ta cũng ngay nơi thời gian huyễn hóa đó tìm cho được cái lẽ chân thật, cái không còn sanh diệt, không còn mắc kẹt, không còn bị lôi cuốn trong dòng sanh diệt của thời gian... như vậy chúng ta mới là người thoát ra khỏi dòng sanh tử. Bằng không như vậy thì chúng ta bị cuốn trôi mãi trong dòng thời gian. Vì vậy nên trong nhà Phật, có khi đức Phật chú trọng thời gian vô cùng, Ngài nhắc chúng ta lúc nào cũng phải quí tiếc thời gian, có khi Ngài nói thời gian là cái vô nghĩa, thời gian không có thật, tùy chỗ mà Ngài đánh giá thời gian. Nếu tính theo chiều sanh diệt thì thời gian rất là quí báu, lợi dụng thời gian để chúng ta tạo tất cả phước lành. Còn đứng về chiều vô sanh, thì thời gian vô nghĩa, không có giá trị gì. Vì chính thời gian là những hạt chuỗi mộng, như tôi thường kể cho quí vị nghe về cô Công chúa đòi xâu chuỗi nước. Chúng ta đừng dại khờ như cô Công chúa đó cứ đòi cho được xâu chuỗi nước để đeo vô cổ vì tới bao giờ mới xâu được xâu chuỗi nước. Những hạt nước kia, lóng lánh đẹp thật, nhưng ở xa nhìn thì nó đẹp, bằng khi nắm trong tay rồi, thì nó lọt qua kẽ tay và biến mất. Càng nắm bắt, càng mỏi mệt, chỉ nhọc nhằn thôi chớ không nắm được cái gì.
Nếu chúng ta cứ dại khờ chạy theo thời gian mong mỏi nắm bắt những gì mà ta cho là hạnh phúc, thì hạnh phúc đó cũng lọt qua kẽ tay như là những hạt sương, những cái bóng hay là giấc mộng vậy thôi, không có gì thật.
Công chúa sau khi nắm bắt những hạt nước lóng lánh đó mà không được hạt nào hết, mới chán nản rồi xin vua cha một xâu chuỗi thật và được vua cha cho một xâu chuỗi kim cương. Từ đó Công chúa không còn mơ xâu chuỗi nước nữa.
Chúng ta cũng như vậy. Trước kia không biết hạnh phúc của nhân gian là sanh diệt là ảo ảnh, chúng ta cố nắm bắt nó thì nó luồn qua kẽ tay, biến mất. Khi biết rồi, chúng ta mới trở lại tìm cái chân thật mà đức Phật đã chỉ dạy. Tìm được cái chân thật đó, tức là chúng ta được xâu chuỗi kim cương, không bao giờ tan hoại. Từ cái giả chúng ta chuyển sang cái thật, từ cái sanh diệt bước vào cõi vô sanh. Như vậy mới là người tỉnh giác. Tỉnh giác được cái giả không còn mê lầm nữa. Người biết được cái thật sống trở về với nó, đó là người tu theo đạo giác ngộ.
Chúng ta giác ngộ cái gì?
Giác ngộ cái giả lâu nay tưởng là thật, nhận ra cái thật mà lâu nay bị bỏ quên. Khi bỏ quên cái thật, chấp cái giả cho nó là thật đó là mê, biết được cái giả gọi đó là giác. Người hiểu đạo Phật rồi rất là đơn giản, không có gì cầu kỳ huyền bí xa lạ hết, mà chỉ thấy rõ ngay nơi mình cái nào giả cái nào thật. Cái giả mà lâu nay mình lầm, chấp nhận nó là ta, giờ đây thấy nó là hư giả, đó là chúng ta đã giác ngộ được phần thứ nhất. Qua cái giả đó, chúng ta tìm được cái thật, đang ẩn náu trong cái giả, đó là chúng ta đã giác ngộ qua giai đoạn thứ hai. Chúng ta tiến thẳng vào con đường giác ngộ viên mãn không có sai lạc.
Người thế gian thường lầm, cho cái giả là thật. Chính chúng ta cũng thế, tại sao thấy cái giả là thật? Như thân tứ đại chúng ta đây là thật hay giả? Ai động tới nó mình có ưng hay không? Bình thường lúc tỉnh táo nghe Phật dạy thì tứ đại này là giả hợp, không thật, biết nay còn mai mất, trong phút giây là tan nát, cũng như bọt nước, nhưng có ai thoi một thoi thì thấy giả hay thật? Lúc đó lại thấy thật.
Rõ ràng khi chúng ta bình tĩnh thì trí tuệ sáng suốt. Khi bị xúc phạm thì lúc đó mất bình tĩnh, trí tuệ bị che mờ, bản ngã si mê hiện ra, mình thấy nó là thật. Bởi thấy thật nên mới ăn thua tranh giành với nhau rồi tạo nghiệp. Cho nên ta theo đạo Phật là phải giữ bình tĩnh, có bình tĩnh mới sáng suốt, có sáng suốt mới khỏi lầm cái giả làm thật. Đó là điều căn bản. Khi nghe Phật dạy, nghe quí thầy giảng thì coi như tỉnh hết rồi, coi như mình là Thánh nhân rồi, nhưng đụng việc với thế gian thì mình là phàm phu hẳn. Đó là chúng ta chỉ bình tĩnh được khi vô sự, khi có sự là mê. Đó là điểm tôi nhấn mạnh nhất.
Chúng ta phải làm sao khi hữu sự coi như vô sự. Đó là điều thiết yếu, là sức mạnh của người tu hành. Ngài Vĩnh Gia nói: “Giả sử vòng lửa quay trên đỉnh, định tuệ vẫn tròn sáng không mất.” Như vậy mới thật là tỉnh ngộ. Còn tỉnh khi lặng lẽ vắng vẻ, khi ồn náo thì mê, cái đó chưa phải là thật tỉnh.
Người thiếu sự hướng dẫn của thầy, bạn, thiếu ý chí cương quyết mãnh liệt để nỗ lực tu hành nên ở mãi trong mê không giác nổi. Có nhiều người cả đời chưa bao giờ biết được thân này là hư giả, chỉ biết nó là thật, nên khi nói nó là giả họ không tin. Đó là vì thiếu sự hướng dẫn của thầy bạn, cho nên họ mê. Có người được thầy bạn hướng dẫn, nhưng thiếu ý chí mãnh liệt nên khi nghe thì tỉnh, khi hết nghe thì mê. Vậy chúng ta phải quả quyết và can đảm ngay khi biết cái nào là giả, cái nào là thật. Đừng mê cái giả và đừng bỏ cái thật để hằng sống và cố gắng mỗi ngày mỗi huân tu. Lâu ngày thuần thục, tự nhiên chúng ta được như lời ngài Vĩnh Gia nói: Dù có vòng lửa xoay trên đầu, định tuệ vẫn tròn sáng không mất. Cho nên chỗ quan trọng mà chúng ta phải thấy là tâm chúng ta dễ xao xuyến lúc ồn náo. Bây giờ mình phải nỗ lực thêm, làm sao khi ồn náo mà không xao xuyến.
Ví dụ cụ thể là khi xưa mới tập ngồi thiền nhất là khoảng tám chín giờ tối, có những cái loa ở dưới núi vọng lên các bài hát, lảnh lót, lúc đó tâm bị phân tán. Chúng ta nỗ lực hướng dẫn nó, kềm hãm nó, lần lần sẽ làm chủ nó. Đến lúc nào đó, tiếng ca hát không còn đủ hấp dẫn như xưa nữa. Đừng tưởng rằng ngồi thiền trong chỗ yên thì được yên, khi có động chạy theo tiếng động, khi có động, tiếng động sẽ lôi mình đi, không bao giờ thắng nó. Đừng tưởng như vậy. Phải tin tưởng quả quyết rằng khi động chúng ta vẫn làm chủ được. Ngày nay làm chủ một phần, ngày mai làm chủ một phần, nhiều ngày như vậy, rồi ngày nào đó tất cả tiếng động đều vô nghĩa đối với chúng ta. Đó là lẽ chân thật chớ không phải tôi bịa đặt.
Giả sử chúng ta ở trong cảnh ngộ khắt khe hay ồn náo mấy đi nữa, miễn chúng ta làm chủ được, tôi tin rằng ai cũng tu được hết. Lúc rảnh rang thì chúng ta ngồi thiền, khi bận rộn hoặc cuốc cỏ trồng rau, chúng ta cũng tu được. Như vậy lúc nào mình cũng tu được, lúc nào mình cũng vui vẻ. Nếu cho rằng ngồi thiền mới tu được, cuốc rẫy không tu được thì sẽ thấy thiệt thòi, bởi vì có ngày không ngồi thiền được giờ nào, như vậy ngày đó không tu sao? Cuốc rẫy mà tu được thì không thiệt thòi tí nào hết. Thay vì ngày xưa ngồi một ngày ba tiếng đồng hồ, bây giờ cuốc rẫy sáu tiếng tu luôn, thì mình lời được thêm ba tiếng nữa. Đây chính là cái mà chúng ta hiện nay phải tập nỗ lực như vậy, sao cho sự tu của chúng ta không bị hoàn cảnh làm chướng ngại. Đó là điều thiết yếu.
Tuy nhiên lúc đầu phải chấp nhận, mình đang ngồi yên mà có tiếng động thì thế nào cũng bị xao xuyến. Khi đó chúng ta nỗ lực tu, càng ngày càng lâu, chúng ta sẽ tự tại trước tất cả tiếng động, như vậy đừng thối chuyển. Ai trong chúng ta cũng sẽ được thử thách. Đó là điều cần phải nỗ lực. Được vậy, mình sẽ cười, hồi xưa tiếng động là cái chướng, bây giờ có tiếng động mình ngồi cũng hay.
Chúng ta thường mê lầm nhận cái giả làm thật, là chạy theo cái giả mà quên cái thật. Chúng ta cứ chấp vọng tưởng làm tâm mình, chấp tứ đại làm thân mình rồi suốt đời cứ chạy theo vọng tưởng, theo thân tứ đại, lo bảo bọc bồi dưỡng cho nó đủ thứ hết để rồi nó hoại.
Giả sử chúng ta trồng, khi nó trổ bông có trái, cho kết quả như ý thì mới săn sóc. Nếu nó èo uột hư gãy, biết rằng không thể cứu được, thì bỏ luôn. Không thể giữ được thì phải bỏ liều. Nhưng cái thân mình có bỏ được không? Ai cũng biết không giữ được mà không dám buông nó. Biết cái không bao giờ giữ được mà cứ cũng cố giữ. Thoi thóp sắp tắt thở mà cũng nói còn nước còn tát. Như vậy để thấy rõ rằng chúng ta bám vào nó cho đến phút cuối cùng, dù không có tí nào bảo đảm, không phải bảo chúng ta cố tình bỏ nó, nhưng hãy nhớ ta mang nó như mang bè qua sông, giữa sông nó có hư thì chúng ta sửa lại, khi tới bờ thì bỏ nó đi. Thân này là giả nhưng cần đến chỗ giác ngộ viên mãn nên chúng ta phải nương nó. Phải biết rõ nó là cái không giữ được, đừng bao giờ quên. Kiểm điểm lại lớp người trước đã tan hoại, mình cũng đang tan hoại. Tại sao cứ cho thân này là thật, rồi cố bảo vệ gìn giữ, tạo bao nhiêu nghiệp cũng vì nó. Đó là cái lầm lớn lao của chúng ta.
Người tỉnh giác biết rõ thân này là hư giả, nhân duyên hòa hợp không thật, kể cả vọng tưởng điên cuồng của mình. Khi suy nghĩ điều này, việc nọ, cái suy nghĩ đó là ai? Thí dụ chúng ta đang suy nghĩ điều thiện, nghĩ giúp người này người kia rồi, cho rằng cái suy nghĩ thiện là mình. Một lát có ai chọc tức, mình nghĩ hại người đó, thì cái suy nghĩ ác là ai? Thấy người kia dễ ghét, người nọ dễ thương, thấy dễ thương dễ ghét là ai thấy? Nếu nghĩ thương là mình, thì nghĩ ghét là ai? Vậy có bốn năm thứ mình sao? Cái nào là mình thật?
Rõ ràng mỗi niệm sanh diệt, sanh diệt vô thường, từng đợt từng đợt như dòng nước chảy, nó không có thật. Mới niệm thương đây rồi đến niệm ghét, niệm buồn niệm giận xen lẫn nhau. Chúng ta cứ chấp cái tâm sanh diệt từng đợt, từng đợt là thật thì sẽ đi trong con đường nào? Bám vào sanh diệt thì phải đi trong sanh diệt, phải đi trong luân hồi không chối cãi gì được hết. Nếu chúng ta cứ lầm chấp vọng tưởng cho đó là mình, chấp thân tứ đại này là mình thì không biết bao nhiêu a-tăng-kỳ kiếp mới thoát khỏi luân hồi. Chỉ bao giờ mình biết quả quyết rằng vọng tưởng là hư giả không thật thì chừng đó mới tìm cái chân thật. Như cô Công chúa nắm bắt những hạt nước không được, chừng đó không còn ham mê nữa, mới đòi nhà vua cho xâu chuỗi kim cương. Đó là xâu chuỗi thật, còn bao nhiêu hạt nước lấp lánh kia đều là hư giả.
Qua giai đoạn thứ hai là tìm cái chân thật trong cái hư giả. Được cái thật trong cái giả đó rồi chúng ta mới thấy mình từ trước đến giờ là kẻ ngu si. Mình lầm cái giả là cái thật, rồi bỏ quên cái thật. Cho nên trong kinh Phật nói: “Chúng ta có viên ngọc báu cột trong chéo áo mà quên.” Quên viên ngọc trong chéo áo rồi đi ăn xin đầu làng xó chợ, sống vất vưởng qua ngày lấy đó làm đủ. Kẻ có của báu bỏ quên chịu nghèo khổ là tỉnh hay mê? Đó là kẻ mê. Biết được cái thân hư giả này rồi, chúng ta tìm được cái chân thật của mình. Đó là tỉnh, đó mới thật là con người cầu đạo giải thoát.
Ngài Vĩnh Gia Huyền Giác nói:
Cùng Thích tử, khẩu xưng bần,
Thật thị thân bần đạo bất bần.
Bần tắc thân thường phi lũ hạt,
Đạo tắc tâm tàng vô giá trân.
Người dòng họ Thích là kẻ bần cùng luôn luôn tự nhận mình là bần đạo. Nhưng có thật là bần hay không? Thân bần mà đạo không bần. Tại sao? Là vì tuy mặc áo vá mà có hạt châu vô giá. Hạt châu vô giá dùng hoài không hết. Biết rõ mình có hạt châu vô giá cho nên không chạy theo hư giả. Tìm được của báu chân thật, mới là người giác ngộ, người cầu đạo chân chánh. Chúng ta cứ chạy theo cái bên ngoài hoài thì không bao giờ thấy được kho báu nơi mình. Đó là chỗ thiết yếu của người tu hành.
Phật là giác. Tu theo Phật là đi trên con đường giác ngộ. Tu theo đạo Phật mà không giác thì không phải tu theo đạo Phật. Cũng như người đi về Sài Gòn, tức nhiên phải đi trên con đường về Sài Gòn. Nếu không tức là ngồi, hoặc là ở một chỗ, hoặc là đi con đường khác. Chớ thật tình mình đi trên con đường về Sài Gòn thì mỗi một giờ, mỗi một ngày đã tiến rồi. Cũng vậy, chúng ta theo đạo giác ngộ thì ngày nào năm nào chúng ta cũng phải có giác mới được. Nếu chúng ta không giác thì không phải tu theo đạo Phật. Như vậy chúng ta có giác hay không? Thật sự có chớ sao không? Tại vì chúng ta quen tưởng giác ngộ là như đức Phật, phải có Tam minh Lục thông. Tưởng mình không có Tam minh Lục thông thì không gọi là giác, thật sự không phải vậy. Ngày xưa lúc chưa tu, có bao giờ chúng ta nghĩ thân này là giả đâu! Hiện giờ được nghe lời Phật dạy, nghe giảng kinh, nhận thân này là giả, tức là có giác ngộ rồi, tuy nhiên lúc mê thì quên. Trong nhà Phật gọi giác ngộ như thế là bệnh rét cách ngày. Cái giác đó chưa là thuần giác, nhưng dù sao cũng là giác.
Đức Phật dạy: Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, là cái giác của đức Phật thường hằng chân chánh viên mãn không ai hơn. Đạt được như thế gọi là thành Phật. Còn chúng ta giác ngộ cách ngày cách giờ, cái giác ngộ đó chưa được gọi là Phật nhưng cũng có giác một chút chớ chẳng phải vô phần. Như vậy chúng ta không có mặc cảm rằng mình chưa từng giác. Chúng ta biết được hoàn cảnh xã hội, sự việc chung quanh là duyên hợp nên cũng hư giả. Biết như vậy tuy chưa thường xuyên, nhưng có biết chút nào là có giác chút ấy. Lại nữa, lâu nay chúng ta chấp nhận những vọng tưởng điên cuồng là tâm mình, giờ đây biết nó là vọng tưởng thì chúng ta có giác rồi. Giờ phút nào có biết như vậy là giờ phút đó chúng ta có giác. Kiểm điểm lại so với năm rồi, năm nay chúng ta tiến nhiều chưa? Tu lâu mà thấy không tiến là tại mình chưa nhận ra, thấy nó thường quá, chưa có hào quang, chưa biết bay nên mình cho là không giác. Khi xưa cả năm chưa từng giác lần nào, bây giờ cái giác đó cách khoảng thưa thì một giờ, nhặt thì nửa giờ, hoặc là mười phút chẳng hạn. Như vậy là mình đã tiến bộ khá nhiều, đừng bi quan. Nếu là kẻ tu hành cầu đạo giác ngộ thì chúng ta phải thấy rõ rằng mỗi ngày, là mỗi ngày giác, không thể mê được. Nếu giác nhặt là chúng ta tiến, giác thưa là chúng ta lùi. Có người than thở với tôi, biết vọng mà vọng cứ sanh hoài làm sao. Vọng sanh thì mặc nó, đừng chạy theo, biết vọng đừng theo là giác. Trăm lần vọng thì có trăm lần giác, không buồn không sợ. Đó là tôi nói về tâm.
Giờ đây đến thân cũng vậy. Nếu có bệnh hoặc chướng ngại gì đi nữa, mình biết thân này là hư giả, thì ngay nơi thân này tỉnh giác.
Giác thân giác tâm là cái giác căn bản. Mình biết rõ ràng thân tâm không lầm rồi, tìm ra cái thật nữa thì quí báu vô cùng. Đó là chúng ta đã nắm được viên ngọc vô giá trong tay. Nếu chưa tìm được viên ngọc đó mà biết thân hư giả, là chúng ta đã từ bỏ con đường giả để trở về con đường thật, tức đã tiến một bước rồi. Đó là một sự thật. Hiểu đạo rồi thì tự nhiên chúng ta tu hăng hái chín chắn chớ không thối chuyển. Mình biết là có giác, mà có giác tức là đánh với giặc phiền não, còn có đánh tức là chưa thua. Thua là xếp giáp chạy dài, còn đánh dù chưa thắng hoàn toàn nhưng chưa phải là kẻ thua trận. Vừa dấy vọng, biết vọng là vọng lặng, đó là thắng được giặc rồi. Có thứ giặc mình giết nó, nó mất; có thứ giặc nó kéo mình đi xa một chút mới mất. Kiểm lại chúng ta toàn là thắng chớ không phải thua. Tại vì giặc nhiều quá, có triệu triệu chú thành ra mình cứ đánh hoài mà chưa hết, nên thắng lâu. Nếu thắng nhanh thì đã thành Phật rồi. Tất cả những chú giặc của mình là những đứa giả, Ông chủ mới là thật. Người thật đánh với kẻ giả lo gì không thắng. Tin quả quyết như vậy thì việc tu tiến của mình sẽ thành công, chắc chắn thành công một trăm phần trăm. Tôi nói thế để chúng ta thấy rõ việc tiến tu của mình.
Khi nhớ việc tiến tu của mình, chúng ta không nên quên hiện giờ là ngày ba mươi Tết. Qua một năm, tất nhiên chúng ta thấy mình cũng có già nhiều rồi. Nếu nhận xét tinh vi thì mình già đi từng giây từng phút huống là một năm. Chúng ta cũng thấy năm nay yếu đi một chút, năm tới yếu đi một chút mà mình không nỗ lực thì khó thành công. Nên nhớ qua một năm mình suy yếu đi, trí tuệ cũng yếu, tinh thần cũng yếu, vậy chúng ta phải nỗ lực, nhất là những vị sáu mươi tuổi trở lên. Con đường của mình sắp tới giai đoạn chót rồi, phải chạy nước rút, không thể chần chờ được. Chúng ta phải nỗ lực bằng mấy lần năm trước. Năm rồi ít nỗ lực thì dự bị cho năm tới phải nỗ lực bằng hai bằng ba. Bọn ma quân còn đông quá, nếu mình chần chờ thì nó thắng chớ mình không thể thắng được nó. Chẳng những sáu mươi tuổi trở lên phải nỗ lực, mà trẻ hơn cũng phải như vậy thế. Biết mình có sống tới sáu mươi tuổi hay không? Cần phải nhớ là mạng sống trong hơi thở, phải nỗ lực như những người đã lớn tuổi. Đừng ỷ lại đời còn dài đi từ từ cũng được, cần nỗ lực chớ không thể lôi thôi.
Nỗ lực thì mới có tiến và bảo đảm một ngày nào chiếc bè này rã, chúng ta bước lên bờ, bằng không thì không bảo đảm. Ai dám tin rằng ngày mai cũng còn an ổn khỏe mạnh như ngày nay. Khi thở ra mà không hít vào thì đã hết cuộc đời. Cho nên tất cả chúng ta phải nỗ lực, rất là nỗ lực mới được, chớ không phải nỗ lực tầm thường. Do đó tôi nghĩ rằng, nhớ đến ngày ba mươi đêm giao thừa thì chúng ta nên nhớ đến giây phút thở hấp hối, bà con chung quanh kẻ chấp tay niệm Phật, người thì lau nước mắt chờ đưa chúng ta qua thế giới khác. Nhớ như vậy thì đêm giao thừa sẽ là đêm thôi thúc mạnh mẽ trong lòng chúng ta, còn không nhớ như vậy thì ý nghĩa đêm giao thừa sẽ yếu ớt đi. Một năm qua là chúng ta đã già đi, phải nỗ lực tiến tới, tiến mãi không lùi. Đừng chần chờ nữa!
Ở trên tôi đã nói sự thật tôi thấy để nhắc nhở quí vị cố gắng trong sự tiến tu. Giờ đây tôi nói qua các vị Thiền sư. Cái thấy của các Thiền sư lúc nào cũng tương tự chớ không khác nhau mấy. Một hôm đến ngày Xuân, có người hỏi Thiền sư Quang Giác đời Tống có cảm tưởng gì về con người, Ngài làm một bài thơ như sau:
Khứ niên phùng thanh xuân
Châu nhan ánh đào lý
Kim niên phùng thanh xuân
Bạch phát yểm song nhỉ
Nhân sanh thất thập niên
Tật nhược đông lưu thủy
Bất liễu bản lai tâm
Sanh tử hà do ly.
Dịch:
Năm trước gặp thanh xuân
Má hồng khoe đào lý
Năm nay gặp thanh xuân
Tóc bạc đầy cả mái
Người đời tuổi bảy mươi
Nhanh như dòng nước chảy
Chẳng ngộ tâm xưa nay
Sanh tử làm sao khỏi.
Thiền sư mỗi năm qua thấy thân trẻ biến thành già, kể cả bảy mươi năm trôi nhanh như dòng nước chảy. Nếu không ngộ được Bản tâm xưa nay, làm sao thoát khỏi dòng luân hồi sanh tử. Chúng ta là con cháu trong nhà Thiền cần phải thấy như thế. Có được cái thấy này, chúng ta mới thức tỉnh tiến tu chóng thoát ly sanh tử.
Vậy mong tất cả quí vị cùng chúng tôi, chúng ta dự buổi tiệc trà đạm bạc đêm giao thừa này, là một ấn tượng đánh thức chúng ta tỉnh giác cuộc đời là vô thường, phải nỗ lực tiến tu đừng để trôi qua vô nghĩa.
Chúc quí vị sang năm mới thường tỉnh giác.
MÙA XUÂN DI-LẶC
Xuân Bính Thìn - 1976
Năm nay chúng ta tìm hiểu ý nghĩa mùa Xuân Di-lặc để biết tại sao ngày mồng một Tết là ngày vía đức Di-lặc. Khi lạy Ngài chúng ta đã xướng lên câu: “Nam-mô Long Hoa giáo chủ đương lai hạ sanh Di-lặc Tôn Phật”, nghĩa là Bồ-tát Di-lặc sẽ thành Phật trong tương lai làm Giáo chủ hội Long Hoa, chớ không phải thành Phật ngay bây giờ. Đó là ý nghĩa thâm trầm nhất trong nhà đạo. Ai ai cũng xem ngày mồng một Tết là ngày mở màn năm mới. Bao nhiêu chuyện vui buồn của năm tới gần như nảy mầm từ trong ngày này, cho nên mọi người đều rất dè dặt, rất cẩn trọng. Mỗi hành động, mỗi ngôn ngữ, chúng ta đều sợ ảnh hưởng đến sự vui buồn của năm tới. Đó là quan niệm của nhân gian.
Trong nhà đạo ngày mồng một cũng là ngày mở màn cho năm tới. Năm tới đầy hứa hẹn với chúng ta là một năm giác ngộ. Đức Phật Di-lặc là một vị Phật sẽ thành Phật ở mai sau. Hôm nay lễ Ngài để nhớ rằng năm nay là một năm hứa hẹn chúng ta sẽ được giác ngộ. Nếu chưa được thì năm tới sẽ được chớ không thể tu suông. Vì vậy ngày mồng một Tết đối với nhân gian là ngày Tết Nguyên Đán, đối với nhà đạo là ngày vía đức Bồ-tát Di-lặc. Mỗi khi nhớ đến Phật sẽ thành, nhớ ngày mồng một Tết, chúng ta nghĩ mình cũng sẽ giác ngộ, chớ không thể lôi thôi. Nhưng cái giác ngộ tôi nói đây không phải hoàn toàn như bậc Chánh đẳng Chánh giác, mà là giác ngộ từng phút từng giây. Đó là tôi nói sơ thâm ý của ngày vía đức Phật Di-lặc.
Bây giờ đi thẳng vào mùa Xuân Di-lặc. Mùa Xuân là mùa ta hằng mơ ước, mùa Xuân có cái gì hòa ấm tươi vui khiến cho mọi người hăng hái trong cuộc sống, vạn vật đâm chồi nảy lộc xanh tươi. Vì vậy, khi nói tới mùa Xuân là nói cả một cái gì đầm ấm trong con người.
Trên cuộc đời này biết bao người cứ theo cái mê lầm ảo tưởng của mình, chạy theo ngoại cảnh, bám vào ngoại cảnh cho là mình, cho nên phải khổ đau theo dòng sanh diệt. Thấy cái gì cũng nói là của mình, lệ thuộc mình. Từ bản thân cho đến sự vật bên ngoài, không có cái nào mà không bám chặt. Bởi cái chấp ngã nặng nề đó cho nên phải khổ đau, khổ đau dằng dặc từ kiếp này đến kiếp khác. Như tôi thấy cái hoa này là của tôi, nó tươi tôi vui, nó héo tôi buồn. Nếu nó là của thiên nhiên thì tươi héo không dính dáng gì đến tôi. Bởi vì mình chủ quan, bắt sự vật lệ thuộc vào mình, muốn lòng người và sự vật thuộc về mình trường tồn vĩnh cửu. Cho nên khi có trạng thái biến đổi, xê dịch thì cảm thấy bất an, không vui rồi. Do đây mà người ta đau khổ vì bắt sự vật lệ thuộc vào mình. Khi chúng ta biết bản tánh sự vật là như vậy, không lệ thuộc vào ai cả, thì lúc đó chúng ta mới nhìn sự vật với tánh cách khách quan, mới an vui tự tại. Cho nên cùng một cảnh ngộ, cùng một sự việc mà có người thì cả ngày buồn lo rầu rĩ, sợ sệt, còn có người thì an ổn vui tươi. Chẳng qua đó là người biết sống, người không biết sống.
Như khi nãy tôi nói, bắt ngoại cảnh lệ thuộc mình thì tự nhiên mình là người đau khổ. Quí vị có bắt ngoại cảnh lệ thuộc mình không? Tỉ dụ bây giờ đứng trước một trăm người, chúng ta có muốn một trăm người đó đừng để ý gì đến mình không? Hay là muốn ai cũng chú tâm, nhìn vào mình để khen, để mến v.v...? Thấy cái hoa đẹp, chúng ta có muốn hái không? Hay là để nó nằm yên trên cành để giữ trọn vẹn hương sắc? Theo Tổ Bồ-đề-đạt-ma, chúng ta cắt hoa trưng cũng có tội, vì đã ăn cắp sanh mạng của nó để làm đẹp cho mình. Đó là lối nhìn độc đáo, biết rõ ràng sự vật một cách khách quan. Ngược lại chúng ta thấy cái gì đẹp là muốn đem về phòng trưng hoặc để đâu đó, bắt nó lệ thuộc về mình. Đó là cái bệnh mà tất cả chúng sanh mắc phải. Thiền sư Bổn Tịnh đã nói lên cho chúng ta thấy bệnh đó qua bốn câu kệ:
Nhất niên Xuân tận nhất niên Xuân
Dã thảo sơn hoa kỷ độ tân
Thiên hiểu bất nhân chung cổ động
Nguyệt minh phi vị dạ hành nhân.
Tạm dịch:
Một năm Xuân trọn một năm Xuân
Cỏ dại non hoa mấy độ tươi
Trời sáng chẳng do chuông trống động
Trăng trong đâu bởi khách đi đêm.
Xưa nay ở chùa đến bốn năm giờ thức dậy công phu, đánh chuông đánh trống. Những nhà hàng xóm kêu con dậy: Ở chùa công phu đánh chuông trống, trời sáng rồi a! Dậy thả bò đi ăn. Họ quen có quan niệm chùa đánh chuông trống là trời sáng. Nhưng chùa đánh chuông trống là đánh chuông trống, còn trời sáng là trời sáng, không phải vì chùa đánh chuông trống mà trời sáng. Rồi trăng sáng có những người khách đi ban đêm. Như vậy trăng sáng cho họ đi đêm hay là khách đi đêm vì trăng sáng? Đó là chỗ mà chúng ta phải thấy rõ. Trăng sáng là trăng tự sáng, không phải vì khách đi đêm mà trăng sáng, nhưng nhờ trăng sáng người khách mới lợi dụng mà đi đêm. Như vậy rõ ràng là chúng ta nhìn sự vật bằng con mắt chủ quan, cho tất cả đều vì mình. Thí dụ khi con cái hỏi: vì sao có cá có tôm, thì cha mẹ cắt nghĩa: trời sanh ra để mình ăn đó. Rồi thấy ngoài đồng có lúa có đậu có bắp, cũng bảo trời sanh để mình ăn. Tất cả cái gì cũng để cho mình hết. Tại sao có mưa? Để mình làm ruộng. Tại sao có nắng? Để mình phơi lúa. Tất cả cái gì cũng để cho mình, mình là trung tâm vũ trụ cho nên ai không làm theo ý mình thì nổi tức lên. Như mình phơi lúa mà mưa xuống thì nổi giận, tại sao người ta đang phơi lúa mà trời lại mưa. Nuôi chó thì nghĩ để giữ nhà cho mình, khi nào có ăn trộm nó ngủ quên không sủa thì đánh đập nó. Nuôi gà, thì nghĩ để nó gáy cho mình thức đúng giờ, hoặc để mình ăn thịt. Bữa nào nó quên gáy thì mình bực bội. Như vậy là bắt mọi vật lệ thuộc về mình, mà bắt lệ thuộc một cách vô lý, nên mới khổ đau vì không được như ý. Nếu mình có cái nhìn khách quan, thì sẽ thấy ngoại cảnh là ngoại cảnh, không cái gì thuộc về mình hết, không cái gì vì mình hết. Qua bốn câu thơ đó, Thiền sư Bổn Tịnh chỉ cho chúng ta thấy phải dứt hết bệnh chủ quan là bệnh chấp ngã sở, tức bắt ngoại cảnh lệ thuộc vào mình. Trong nhà Phật dùng danh từ chuyên môn “pháp nhĩ như thị” tức là các pháp như vậy. Các pháp không thuộc vào ai hết, không bị cái gì chi phối, nó là nó, nếu bắt nó lệ thuộc là ngu si. Chúng ta biết một năm có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông. Bốn mùa có là do sự xoay vần của trái đất chớ không phải vì chúng ta mà có. Chúng ta lợi dụng thời tiết, mùa mưa thì ven bờ làm ruộng, mùa nắng hạn thì phơi lúa, mùa lạnh thì sắm mền, sắm áo. Mùa nào làm hợp theo mùa nấy. Nói tóm lại, bốn mùa là thiên nhiên sẵn như vậy chớ không phải vì chúng ta. Chúng ta biết làm việc sao cho phù hợp với bốn mùa, đó là chúng ta khôn ngoan biết sống. Mọi việc khác cũng thế, nếu ta nhìn nó với tánh cách khách quan thì có lúc nào buồn đâu. Thấy người có cái nhà tốt thì vui được thấy cái nhà tốt, thấy người có cái áo đẹp thì mừng được thấy cái áo đẹp. Được vậy cả ngày mình vui hoài. Người có cái này đẹp, người có cái kia tốt, rồi ngoài vũ trụ có bao nhiêu thứ tốt đẹp, mình đều vui hết, chớ không bắt nó thuộc về mình. Nếu muốn cái gì tốt đẹp cũng thuộc về mình thì cả ngày cứ buồn hoài. Đi ra thấy người có chiếc xe hơi đẹp, mình không có cũng buồn; thấy người có cái nhà đẹp, mình không có cũng buồn. Như vậy càng muốn càng khổ.
Nếu biết tất cả cái đẹp không lệ thuộc về mình thì chúng ta hết khổ, một cách an nhàn tự tại. Ai có gì đẹp thì mình tán thán tùy hỉ liền, không đố kỵ, không ganh ghét không khó khăn với ai hết. Ở thế gian, ngay cả anh em ruột mà người giàu, người nghèo cũng đố kỵ nhau rồi. Lúc nào cũng thấy mình là trung tâm vũ trụ, bắt buộc tất cả phải gồm về mình, muốn mọi người phải chú ý đến mình. Đó là chủ quan quá đáng, là chấp ngã, ngã sở nặng. Giờ đây chúng ta khách quan nhìn tất cả sự vật, thì thấy pháp nào ở bản vị pháp đó. Các pháp sanh diệt theo thời tiết nhân duyên không phải vì có ta mà nó thuộc về ta. Nhưng chúng ta có bằng lòng như thế hay không? Không ai bằng lòng hết. Chính đó là cái đau khổ muôn ngàn đời. Cho nên nói hoa nở khắp mọi vườn mà chỉ có vườn của ta thì hoa không nở, vì là của ta nên nó héo hoài. Nếu không thấy là của ta thì nó nở đầy vườn. Hiểu được như vậy, thấy được như vậy là tự chúng ta hết khổ rồi. Chúng ta sẽ cười hoài như ngài Di-lặc, sống an lành hạnh phúc như ngài Di-lặc. Kinh Pháp Hoa có câu:
Thị pháp trụ pháp vị
Thế gian tướng thường trụ.
Các pháp ở bản vị của nó, tướng thế gian thường còn mãi mãi.
Ở trên là nói về sự vật bên ngoài, đến đây nói thẳng thân tứ đại của chúng ta. Thân tứ đại này do đất nước gió lửa hòa hợp mà thành, hơi thở là không khí, chất lỏng là nước, chất cứng là đất, hơi ấm là lửa. Tại sao chúng ta chấp tứ đại là nhà của mình? Nếu tứ đại ở ngoài không phải là của mình, thì tứ đại ở trong là của mình được sao? Như không khí khi hít vô thành hơi thở của mình, khi thở ra là nó đi đâu, của ai? Như ly nước khi uống vào thành nước của mình, hai, ba tiếng đồng hồ sau, trả ra rồi là nước của ai? Đất và lửa cũng thế. Vậy cái “của” này chỉ là cái tạm. Như cái nhà, người này vô người kia ra, khi bước vô nhà người đó có thuộc về cái nhà này không? Tứ đại không phải của mình, nếu thật sự của mình thì mình hoàn toàn làm chủ. Mình muốn còn thì nó còn, muốn bỏ thì nó mất, nhưng mình muốn giữ mà giữ không được. Như vậy chứng tỏ nó không thuộc của mình, đủ duyên thì còn, thiếu duyên thì rã. Khi rã nó có thật mất hay không?
Chúng ta mượn không khí làm hơi thở, khi hết duyên, thì trở lại bản vị của nó. Nước đến khi hết dùng trả ra lại trở thành nước. Cái thân đất này tới chừng trả ra trở lại thành đất. Đâu trả về bản vị nấy không mất tí nào, nhưng duyên hợp thì đổi hình đổi tướng vậy thôi. Cho nên nói “tướng thế gian thường trụ”. Trong khi duyên hợp chúng ta lầm mê bám vào tứ đại này cho là mình nên cả cuộc đời chúng ta đau khổ. Nhớ tới thân này, ai mà không bệnh, không tê thấp thì đau gan, không đau gan thì đau bao tử, hoặc phổi tim v.v... có đủ thứ đau nên sợ thân hoại. Vì nghĩ nó là mình, nên lo sợ nó rã nó mất. Đối với thân thì lo sợ, đối với ngoại cảnh thì bắt nó thuộc về mình, cho nên không được như ý.
Chúng ta mượn thân tứ đại giả hợp làm bè qua sông. Nó còn ngày nào thì chúng ta sử dụng, nó tan rã thì thôi. Do đó đối với thân không sợ còn mất, đối với cảnh không còn tham đắm. Người sống như vậy có an vui không, không cười còn đợi cái gì. Được như thế là ta hưởng mùa Xuân Di-lặc sơ sơ rồi. Năm nào, ngày nào, tháng nào, chúng ta cũng thấy là ngày Xuân an lành đẹp đẽ hết.
Một Thiền sư Tịnh Thử am có làm bốn câu kệ nói lên mùa Xuân:
Lưu thủy hạ sơn phi hữu ý
Phiên vân qui động bản vô tâm
Nhân sanh nhược đắc như vân thủy
Thiết thọ khai hoa biến giới xuân.
Tạm dịch:
Nước tuôn xuống núi nào có ý
Mây bay về động vốn không tâm
Người đời nếu được như mây nước
Cây sắt trổ hoa khắp chốn xuân.
Sở dĩ chúng ta không được mùa Xuân vĩnh cửu là vì chúng ta chỉ thấy Xuân qua tâm niệm sanh diệt. Thấy cây cỏ tươi tốt trổ hoa đâm chồi, chúng ta vui mừng cho đó là Xuân. Như vậy chúng ta vui mừng theo cảnh, theo thời gian là cái vui mừng của tâm sanh diệt. Khi cảnh tàn, thời gian qua thì cái vui cũng hết. Xuân như thế là mùa Xuân hữu hạn. Cái Xuân của thời gian thì biến đổi, cái Xuân của ngoại cảnh thì suy vi. Nếu chúng ta hoạt động như bao nhiêu người, nhưng vô tâm như mây bay nước chảy, trong khi hoạt động ta không bị vọng tưởng làm chủ là hằng sống với tâm thanh tịnh. Tâm thanh tịnh đó nó lặng lẽ trong trẻo chẳng khác nào như cây sắt. Nhưng trong cái lặng lẽ trong trẻo đó không phải nó không có gì. Chính trong cái lặng lẽ, trong trẻo đó nó phát ra trí tuệ sáng suốt. Đây dụ như cây sắt trổ bông. Trong cái thanh tịnh lặng lẽ đó tưởng chừng như không có gì hết, nhưng không ngờ lại có trí tuệ diệu dụng bất tư nghì. Cho nên đây ví dụ như cây sắt trổ bông là việc tưởng như không bao giờ có, cây sắt trổ bông rồi sẽ thấy khắp bầu trời đều là Xuân không cùng tận.
Thông thường khi chúng ta có dấy niệm thì nói tôi nghĩ thế này tôi nghĩ thế kia, khi không dấy niệm thì tưởng chừng như không có mình. Nhưng không ngờ sau khi dừng hết những ý niệm, chừng đó mới phát trí tuệ sáng suốt; trong kinh Bát-nhã gọi là “Thanh tịnh trí”. Nhìn sự vật, nhìn vũ trụ bằng tâm thanh tịnh, không còn tâm sanh diệt nữa, nên vũ trụ theo đó mà thanh tịnh. Tất cả đều là an lành đều là vĩnh cửu, lúc đó mới gọi là “biến giới Xuân”, Xuân khắp bầu trời. Như vậy muôn người muôn cảnh, đều là Xuân, thời gian nào cũng đều là Xuân. Được mùa Xuân như thế là sau khi tâm chúng ta giống như mây bay nước chảy. Lúc đó chúng ta hoạt động tất cả mà không có vọng tưởng, nếu còn vọng tưởng là mùa Xuân có hạn có chừng. Ai muốn hưởng mùa Xuân Di-lặc, thì đừng lệ thuộc vọng tưởng sanh diệt, đó mới là mùa Xuân chân thật.
Tôi đã đứng trên hai mặt để diễn đạt mùa Xuân Di-lặc:
1- Dứt mê lầm chấp ngã bắt ngoại cảnh và tứ đại lệ thuộc vào mình, lúc đó chúng ta hưởng được mùa Xuân an lành tự tại.
2- Bặt hết vọng tưởng điên cuồng, dùng tâm thanh tịnh sáng suốt nhìn vạn vật, chúng ta sẽ hưởng mùa Xuân vĩnh cửu bất sanh bất diệt.
Thiền sư Thiền Lão đã nói đến mùa Xuân đó dù không đề cập đến chữ Xuân. Khi vua Lý Nhân Tông hỏi Ngài ở núi được bao lâu, Ngài trả lời:
Đản tri kim nhật nguyệt
Thùy thức cựu xuân thu.
Tạm dịch:
Chỉ biết ngày tháng này
Ai rành xuân thu trước.
Hỏi hằng ngày Hòa thượng làm gì, Ngài nói:
Thúy trúc hoàng hoa phi ngoại cảnh
Bạch vân minh nguyệt lộ toàn chân.
Tạm dịch:
Trúc biếc hoa vàng đâu cảnh khác
Trăng trong mây bạc hiện toàn chân.
Như vậy ngày nào chỗ nào chẳng phải là Xuân? Nếu tâm chúng ta không còn lệ thuộc vào thời gian quá khứ hiện tại vị lai, lúc đó chúng ta an nhiên tự tại thanh tịnh. Đó là cái tâm bất sanh bất diệt của chúng ta. Sống với cái tâm bất sanh bất diệt đó để nhìn sự vật thì cái nào chẳng đẹp, cái nào chẳng thanh tịnh, vì đâu cũng là Chân tâm biến hiện, đâu đâu cũng là cảnh đẹp của mùa Xuân. Tóm lại muốn hưởng một mùa Xuân Di-lặc thì không gì hơn: trước hết chúng ta phá cái chấp u mê bản ngã, bắt ngoại cảnh phải lệ thuộc về mình; kế đó chúng ta phải lặng hết vọng tưởng, sống với tâm thanh tịnh. Như vậy chúng ta thấy cõi đời này đều an lành tự tại, thế gian này là thế giới của chư Phật chớ không phải của phàm phu nữa. Đó là MÙA XUÂN DI-LẶC vĩnh cửu trường tồn nơi chúng ta.
ĐỨC DI-LẶC
VÀ Ý NGHĨA SÁU ĐỨA BÉ
Xuân Đinh Tỵ - 1977
Mỗi mùa Xuân đến, mọi người đều in thiệp chúc Tết nhau. Trong nhà chùa nói chung, nhất là Phật giáo Bắc tông, hầu hết đều chúc nhau một mùa Xuân Di-lặc. Như vậy đức Phật Di-lặc có liên hệ gì đến mùa Xuân, mà chúng ta cầu chúc nhau như thế. Có nhiều người cho rằng ngày mồng một Tết là ngày vía đản sanh của đức Di-lặc. Tôi chưa biết đó là ngày đản sanh của Hóa thân nào, vào thời đại nào.
Bởi vì lịch sử của Bồ-tát ứng thân vô lượng, làm sao chúng ta căn cứ một bề, lấy đó làm tiêu chuẩn. Chúng tôi chỉ biết một điều thật là quan trọng trên danh nghĩa Di-lặc mà chúng ta thường tụng thường nguyện.
Khi chúng ta tụng: Nam-mô Long Hoa giáo chủ đương lai hạ sanh Di-lặc Tôn Phật, đó là thể theo lời huyền ký của đức Bổn sư Thích-ca Mâu-ni rằng, sau khi Bồ-tát Di-lặc sanh lên cung trời Đâu-suất mãn công hạnh, sẽ đến thế giới Ta-bà này thuyết giảng. Lúc tuổi thọ con người giảm tột cùng chỉ còn mười tuổi, rồi do nhờ phát tâm tu hành, gìn giữ Thập thiện, tuổi thọ tăng lên đến sáu mươi bốn ngàn tuổi, chừng đó đức Phật Di-lặc ra đời. Như vậy thời gian Ngài ra đời còn xa lắm. Tôi đã từng nói mỗi đức Phật ra đời không làm việc trùng lập nhau. Bao giờ giáo lý của đức Phật Thích-ca Mâu-ni, danh từ Tam Bảo không còn được biết tới nữa thì đức Phật Di-lặc mới ra đời.
Đức Phật Thích-ca được gọi là Ta-bà giáo chủ, là vị Giáo chủ trong cõi Ta-bà này. Còn đức Phật Di-lặc sẽ thành đạo dưới cội Long Hoa, cho nên được gọi là Long Hoa giáo chủ. Tuy thời gian Ngài ra đời còn lâu xa, nhưng chúng ta tin rằng tương lai sẽ có Phật ra đời. Đức Phật ra đời, đó là một diễm phúc cho chúng sanh, là ngọn đuốc sáng cho nhân loại. Vì vậy khi nghĩ đến đức Phật ra đời, chúng ta cảm thấy cả một nguồn hạnh phúc an lành. Ngày mồng một Tết là ngày vía đức Phật Di-lặc, cũng là ngày hứa hẹn hạnh phúc cho chúng sanh. Hạnh phúc bằng cách giải thoát khổ đau, ra khỏi luân hồi, chớ không phải hạnh phúc trong ngũ dục tầm thường. Đầu năm Tăng Ni cùng Phật tử lễ vía đức Phật Di-lặc, Ngài là hình ảnh bên ngoài mà cũng là sự hứa hẹn ở nội tâm chúng ta. Nhớ đến đức Phật sẽ thành, chúng ta cũng nhớ luôn mai kia mình sẽ thành Phật. Vì vậy chúng ta không chỉ lạy đức Phật với lòng thành kính, mà còn cầu chúc cho nhau một mùa Xuân hứa hẹn sẽ thành Phật. Đó là ý nghĩa thâm sâu của ngày vía đức Phật Di-lặc.
Bây giờ chúng ta đi vào ý nghĩa hình tượng của Ngài. Chắc rằng chúng ta ai cũng từng thấy hình tượng đức Di-lặc ở các ngôi chùa. Có khi người ta thờ Ngài với vẻ mập mạp, cười toe toét; có chỗ khác cũng thờ hình tượng như vậy mà có sáu đứa nhỏ: đứa thì chọc ngón tay vô rún, đứa thì móc lỗ mũi, đứa thì móc miệng, đứa thì dùi lỗ tai v.v... mà Ngài cứ vui cười không phiền, không chướng ngại gì hết.
Tại sao như vậy? Hình ảnh đó nói lên cái gì? Điều này rất thiết yếu, chúng ta nên chú tâm như trong kinh Lăng Nghiêm, có đoạn mười phương chư Phật dị khẩu đồng âm tuyên bố cho ngài A-nan và đại chúng: “Khiến ông phải luân hồi sanh tử, chính là sáu căn của ông, chớ không phải vật gì khác; khiến ông chóng chứng Vô thượng Bồ-đề, cũng chính là sáu căn của ông, chớ không phải vật gì khác.” Như vậy cội gốc sanh tử cũng là sáu căn của chúng ta: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý; cội gốc Bồ-đề Niết-bàn cũng là sáu căn của chúng ta. Như vậy con đường trở về giác ngộ hay con đường sanh tử luân hồi là một hay hai? Sanh tử luân hồi cũng đi con đường đó mà Bồ-đề Niết-bàn cũng đi con đường đó, có khác nhau. Người thì đi theo chiều thuận gọi là thuận lưu, người đi theo chiều nghịch, gọi là nghịch lưu. Đi theo chiều thuận là sanh tử luân hồi, đi theo chiều nghịch là giải thoát sanh tử. Như vậy thì không có hai đường. Ví dụ chúng ta về Sài Gòn, cũng đi trên đường Vũng Tàu - Sài Gòn. Sài Gòn - Vũng Tàu cũng đi đường đó. Nhưng nói về Sài Gòn là đi trở về, nói đi Vũng Tàu là đi trở ngược ra. Chỉ khác một người đi trở ra, một người đi trở vô thôi. Khác nhau ở chỗ đó. Đường thì một mà hai người đi nghịch hoặc thuận chiều, kết quả sẽ có hai ngả khác nhau, và hai địa điểm khác nhau. Cũng như vậy, nếu sáu căn của chúng ta nếu ta thuận chiều với nó, đó là chúng ta đi trong luân hồi sanh tử. Chúng ta đi ngược chiều với nó là chúng ta trở về Niết-bàn, Bồ-đề, giải thoát v.v... Nếu sáu căn đi theo sáu trần gọi là thuận lưu, đi theo chiều luân hồi. Nếu sáu căn không chạy theo sáu trần, không nhiễm, không dính, không mắc, đó là người trở về Bồ-đề Niết-bàn không đâu xa lạ. Như vậy để thấy rõ con đường tu tuy có rất nhiều, nhưng sự tu căn bản chỉ đừng cho sáu căn chạy theo sáu trần bên ngoài. Đức Phật Di-lặc là một vị Phật sẽ thành ở ngày mai do Ngài tu hạnh gì? Chính hình ảnh đó là câu trả lời cụ thể nhất. Mỗi đứa bé soi lỗ tai móc lỗ mũi của Ngài mà Ngài vẫn cười không tỏ vẻ bực dọc, không tỏ vẻ chướng ngại buồn bã. Vì vậy Ngài sẽ thành Phật chắc chắn.
Còn chúng ta thì sao? Nếu ai móc lỗ tai mình thì không đánh cũng đá, không đập cũng la; móc lỗ mũi mình cũng thế... Như vậy đối sáu căn, có ai động tới thì chúng ta không chịu nổi. Chỗ không chịu nổi đó làm chướng ngại chúng ta. Sáu đứa bé gọi là lục tặc, tức là sáu đứa cướp phá phách. Nhưng thật tình chúng có phá mình hay không? Nếu bị móc lỗ tai mà mình không cảm thấy khó chịu lại thấy đã ngứa thêm thì không bị chướng ngại. Hiện tại hầu hết chúng ta đều bị chướng ngại bởi những lời nói bên ngoài. Nếu những lời chửi mắng gièm pha, nguyền rủa tới lỗ tai, mà mình coi như gió thổi lá dương cành liễu cho nó nương theo gió đi đâu thì đi, đừng vướng mắc tự nhiên mình an lành tự tại. Nếu thấy đó là lời nói thù hằn, mỉa mai sâu độc mà mình bực bội tức tối, ghi nhận nó vào với những tâm niệm hận thù, đen tối thì nó sẽ thành giặc cướp làm tan hoang của báu nhà mình. Tai nghe những tiếng khen chê hoặc là chửi bới đề cao v.v... mình cũng xem thường, vì tiếng nói không thật. Chính bản thân mình còn không thật, huống là tiếng nói bên ngoài. Tâm không động đó là mình đã thắng đứa bé móc lỗ tai rồi.
Khi con mắt thấy tất cả hình ảnh phía trước, có đẹp có xấu, dù hình ảnh nào mình cũng dửng dưng không lay động không dính mắc, như vậy bao nhiêu hình ảnh dàn trải tràn trề trước mắt, mình cũng vẫn an lành tự tại. Ngược lại khi thấy một hình ảnh, mình liền cho là đẹp là xấu, đẹp thì sợ mất, xấu thì sanh tâm bực tức, thế là hình ảnh nào cũng gây phiền não hết, không có hình ảnh nào là an vui tự tại. Sự thật những hình ảnh đó có phải là phiền não không? Phiền não là tự ai? Gốc tại mình. Nếu thấy nó mà không luyến ái, không ghét bỏ, thì nó vẫn là nó. Có lỗi lầm gì đâu! Lỗi lầm là chính lòng luyến ái, lòng sân hận của mình chớ không phải hình ảnh có lỗi lầm. Khi chứa chấp sân hận, chứa chấp luyến ái, thì của báu nhà mình bị cướp mất. Con mắt đem những hình ảnh vào để cướp mất của báu nhà mình, đó là cái chướng biểu trưng qua hình ảnh đứa bé móc mắt. Còn nếu ngược lại mình không mắc kẹt, hình ảnh là hình ảnh, mình vẫn an nhiên, thì đứa bé ấy có làm gì thì làm, mình vẫn an ổn.
Lỗ mũi cũng thế, ngửi mùi hôi mùi thơm đừng mắc kẹt, coi như khói như gió vừa qua mũi rồi mất, không có gì thật, thì có gì làm cho mình nhiễm, tự nhiên trong lòng được tự tại. Ngược lại, tại chúng ta si mê, cho nên mùi thơm đến thì thích, mùi hôi đến thì bực. Do đó tự mình đem giặc vào cướp của báu nhà mình, tự làm chướng ngại.
Như lưỡi chúng ta nếm những vị cay, đắng, mặn, ngọt; cái nào hợp thì thích, cái nào không hợp thì không thích. Vì vậy mà chúng ta chạy tìm kiếm, khổ từ năm này sang năm khác. Mỗi khi lên mâm cơm, thấy món gì mình cảm nghĩ là hợp với lưỡi của mình thì vui, món gì không hợp thì bực. Vui và bực đó làm mình phải chướng, rồi nói lời thô ác làm cho người chung quanh không vui. Vì lẽ đó chúng ta tập cho lưỡi mình đừng tham đắm vị. Tất cả cái ngon cái dở chẳng qua là tạm mà thôi, cốt sao cho mình được an ổn tu hành là quí. Như vậy chúng ta thắng được các thứ vị, tức là đã thắng đứa bé móc miệng rồi.
Tôi đã đơn cử các căn như mắt tai mũi lưỡi để thấy chúng ta tu là phải tu ngay tại sáu căn của mình, đó là các cơ quan hằng tiếp xúc với những hoàn cảnh thuận tiện làm cho mình ưa, những hoàn cảnh trái ngược làm cho mình giận. Tuy nói sáu căn chớ thật tình có năm căn quan trọng, tức là mắt tai mũi lưỡi thân, năm cửa đón tiếp bên ngoài. Mỗi khi năm căn tiếp xúc với năm trần thì ý theo đó phân biệt để thương ghét buồn giận. Vì vậy, ngay năm căn kia mà chúng ta đón nhận đúng pháp thì căn thứ sáu (ý căn) không còn trở ngại nữa. Khi sáu căn tiếp xúc với sáu trần mà chúng ta mắc kẹt, nhiễm theo thì gọi là sáu đứa cướp, bởi vì kho báu nhà mình bị chúng cướp đi. Cướp bằng cách nào? Ví dụ lỗ tai nghe tiếng rồi phân biệt tiếng khen tiếng chê, sanh buồn sanh mừng là bị mất của. Của đó giặc mang đi đường nào và lấy ở đâu? Nói suông thì khó biết. Cần phải biết của mình ở đâu và dấu vết giặc mang đi đường nào, mới có thể giữ của được.
Sự thật nó không mang đi đâu, đó chỉ là hình ảnh tượng trưng thôi. Nhưng chúng ta thường nghĩ khi có lấy tức là có mang đi, không ngờ nếu thật tình nó mang đi thì sau này dù có giữ cũng là giữ cái kho không còn của đâu mà giữ. Vì vậy phải biết rõ ràng là tuy nói nó cướp của mình, nhưng không cướp gì hết. Chỉ do năm căn tiếp xúc bên ngoài, rồi tâm mình xao xuyến hoặc buồn hoặc giận. Đó là những đám mây đen nổi dậy che lấp mặt trời trí tuệ của mình, gọi là đã cướp. Khi nào nghe những tiếng khen chê mà trong lòng không xao động, những đám mây đen không nổi dậy, thì mặt trời trí tuệ của chúng ta vẫn sáng rực, gọi là giữ được của báu.
Khi trí tuệ chúng ta hằng sáng tỏ, lúc đó gọi là giàu. Còn nếu phút giây nào trí tuệ bị mờ tối không còn phát hiện nữa gọi là mất của báu, ta nghèo đi. Cái nghèo đó là cái nghèo tạm thời, nhưng cũng có thể là nghèo muôn kiếp. Nếu giờ phút nào bị mây phiền não che khuất thì chúng ta mất trí tuệ, nhưng khi nào chúng ta dẹp tan những đám mây đó, thì mặt trời trí tuệ sáng trở lại gọi là nghèo tạm thời. Còn cứ nuôi dưỡng những đám mây đen, hết đám này tới đám khác, dù có mặt trời trí tuệ mà cả đời vẫn sống trong đen tối. Đời này đen tối, đời sau đen tối, cứ tiếp nối như thế mãi thì không bao giờ hết nghèo. Thế nên người biết tu và không biết tu khác nhau tại chỗ đó. Dù chúng ta cũng bị cướp của báu, cũng bị mây đen che lấp mặt trời trí tuệ, nhưng chúng ta tin rằng chỉ bị che trong một phút một giây, rồi sẽ sáng lại.
Vì vậy ý nghĩa Đương lai hạ sanh của đức Phật Di-lặc là một ý nghĩa hứa hẹn trong tâm chúng ta, chúng ta sẽ sáng ra ở ngày mai chớ không tối mãi. Đó phải là cái hứa hẹn thật sự chớ không phải hứa hẹn suông, hứa hẹn rỗng. Có người cũng hứa hẹn, nhưng hứa hẹn suông, nghĩa là cũng có hình thức người tu, đi chùa lễ Phật, nhưng cứ chất chứa bao nhiêu phiền não. Tai nghe tiếng, mũi ngửi mùi, cứ như thế mà dồn hết vào trong lòng. Lo kiếm những món ngon, lo chứa những mùi thơm, lo chứa những hình tướng đẹp v.v... cả ngày cứ xao xuyến lo buồn làm khuất đi mặt trời trí tuệ sáng ngời, cho nên phải chịu khổ đen tối. Còn người biết tu, khi trí tuệ bị che khuất thì hối hận, ăn năn cố làm cho tan đám mây mờ, và nguyện làm sao đừng để mặt trời trí tuệ bị che khuất phút giây nào hết. Đó là hứa hẹn thật, hứa hẹn của người biết tu, chớ không phải hứa hẹn suông.
Chính chỗ thiết yếu đó mà đức Phật Di-lặc được gọi là con người hạnh phúc, con người hạnh phúc thường mập mạp vui tươi. Cái mập mạp vui tươi đó là nhờ trong lòng không có những đám mây phiền não che lấp mặt trời trí tuệ, mà dù sáu đứa giặc có móc tai, móc mũi v.v... Ngài vẫn thấy như không. Còn chúng ta thấy chướng nên trán nhăn, mày cau, mắt đỏ, gương mặt đau khổ. Cái khổ đó chính vì mình không chịu nổi sáu đứa giặc phá phách nên tự nhiên sanh ra bực dọc, khó chịu. Nếu nó phá phách mà mình không thấy chướng, thì cái phá đó trở thành đùa vui với nhau. Chúng ta không ai chẳng có sáu đứa giặc, sáu đứa cướp đó nhưng nó thành giặc hay bạn là chính tại mình. Thế nên biết tu nơi sáu căn rồi tự nhiên được an lành tự tại. Dù chưa thành Phật, hiện đời ta cũng hạnh phúc tràn trề. Ngày nào tháng nào cũng đều là ngày tháng vui tươi, năm nào cũng là năm đẹp đẽ. Vì vậy mà chúng ta hay chúc nhau một mùa Xuân viên miễn.
Đó là mùa Xuân Di-lặc, mùa Xuân hạnh phúc, mùa Xuân mà trong lòng không phiền muộn lo âu. Còn lo âu, còn phiền muộn thì chưa phải là hạnh phúc. Cho nên nhớ đến đức Phật Di-lặc, nhớ đến sáu đứa bé móc tai, móc mũi của Ngài, chúng ta nên hằng giờ hằng phút kiểm điểm lại mình, thử xem giặc có cướp của mình hay không. Nếu chúng ta cứ nuôi dưỡng sáu đứa giặc khiến chúng luôn cướp của mình, thì dù có khao khát nguyện cầu thành Phật mấy đi nữa, quả Phật cũng còn xa lơ xa lắc. Trái lại nếu chúng ta ở mọi trường hợp, đi đứng nằm ngồi, tiếp duyên đối cảnh, đều sống đúng với tinh thần của đức Phật Di-lặc thì tôi tin rằng dù không cầu được an vui, tự nhiên cũng được an vui, không cầu thành Phật, tự nhiên cũng thành Phật.
Tóm lại chỗ tu thiết yếu là biết trở về mình, chính là đừng để cho sáu căn dẫn giặc vào, gọi là nghịch lưu. Nghịch lưu tức là trở về Tánh giác. Còn nếu luôn luôn bị sáu căn dẫn giặc về cướp mất của báu nhà mình gọi là thuận lưu, tức là thuận theo chiều sanh tử. Do đó, hôm nay nhân ngày vía đức Phật Di-lặc và cũng là ngày Tết Nguyên Đán, tôi cầu chúc cho tất cả quí vị Tăng Ni, cư sĩ nam nữ đều trở về nguồn giác của mình. Nguyện cầu cho tất cả quí vị kể từ ngày mồng một Tết này cho đến trọn năm và cho đến suốt đời đều luôn luôn là “bối trần hiệp giác”.
CON NGƯỜI HẠNH PHÚC
- ĐỨC HỈ XẢ -
Xuân Mậu Ngọ - 1978
Con người hạnh phúc, có thân khỏe tâm an. Muốn được thân tâm đều khỏe thì chúng ta phải làm sao?
Sở dĩ chúng ta hay áo não sầu bi là tại trong lòng có những điều không vui, bất như ý. Nếu gặp ai, mình muốn cười xã giao một chút thì cười ra sao? - Nửa cười nửa mếu. Cười như vậy chưa phải là thật cười. Đức Phật Di-lặc cười một cách hỉ hả không có gì gượng gạo hết, còn chúng ta xã giao nên nhiều khi cười gượng gạo, vì không phải thật vui vẻ trong lòng. Nếu trong lòng thật vui vẻ, gặp ai mình cũng cười, lúc nào cũng tươi. Thấy trời mây đất nước, tất cả cảnh đều vui tươi, không có gì bận tâm rối loạn trong lòng. Được như vậy chúng ta mới hạnh phúc, dù buổi sáng chỉ ăn vài củ khoai. Tâm hồn an vui, thì ở cảnh nào cũng an vui. Nếu tâm hồn bực bội rối loạn, thì ở cảnh nào chúng ta cũng sầu bi hết. Vì vậy nên mỗi năm, ngày đầu Xuân, chúng ta cần đến lễ đức Di-lặc.
Lễ đức Di-lặc không phải là lễ suông để Ngài ban phước cho mình. Ta lễ Ngài với cả tâm hồn hướng về và học theo hạnh của Ngài. Làm sao mỗi năm cho đến suốt cả đời, cuộc sống chúng ta vui tươi và hạnh phúc như Ngài, đừng sống trong sầu não bi thảm. Muốn vui tươi thì điều kiện thiết yếu phải thế nào? Phải hỉ xả, vì đức Di-lặc do tu hạnh hỉ xả mà được vui tươi.
“Hỉ” là vui, “xả” là buông hết. Có việc gì hoặc ai động đến, Ngài cũng cười cũng buông hết, chớ không giận. Còn chúng ta? Ai nói một câu trái lỗ tai, mình có vui không? Nếu vui chỉ là vui gượng chớ không thật vui. Do đó muốn vui trọn vẹn thì chúng ta phải buông hết những buồn phiền trong lòng. Lúc nào chúng ta sống ngây thơ như đứa bé. Đừng sống với nhiều nếp nhăn, mặt ủ rũ, mắt chớp lia lịa, không tỉnh táo sáng suốt. Sống như vậy, chúng ta sẽ chết lần chết mòn do lửa phiền não thiêu đốt. Con người quí ở cuộc sống hạnh phúc. Muốn sống hạnh phúc phải có thân khỏe tâm an. Muốn thân khỏe tâm an phải tu theo hạnh hỉ xả của đức Di-lặc.
Khi Ngài thị hiện ở Trung Quốc, làm một vị Hòa thượng mập mạp mang cái đãy to, nên được gọi là Bố Đại hòa thượng. Ngài không có của tiền gì hết, khi ra chợ, ai cho thức ăn gì đều bỏ vô túi, gặp con nít móc túi ra chia cho chúng nó ăn. Gặp ai Ngài cũng vui vẻ. Khi sắp tịch Ngài để lại một bài kệ:
Di-lặc chân Di-lặc
Hóa thân thiên bách ức
Thời thời thị thời nhân
Thời nhân giai bất thức.
Dịch:
Di-lặc thật Di-lặc
Phân thân trăm ngàn ức
Thường thường dạy người đời
Người đời đều chẳng biết.
Nhờ bài kệ này, người sau mới biết Ngài là đức Di-lặc hóa sanh, chớ không phải người thường. Cho nên trong chùa hay thờ Ngài qua hình tượng một vị Hòa thượng mập mạp mang cái đãy to.
Nói đến đức hỉ xả chúng ta nên nhớ thật kỹ ý nghĩa của nó. Tôi lặp lại “hỉ” là vui, “xả” là buông. Buông mà vui chớ không phải buông mà bị bắt buộc. Thí dụ mình ghét người nào đó, nhưng vì một người thân của mình thương họ, bảo ráng vui với họ, vị tình người thân mà mình vui, cái vui đó là vui gượng gạo, chớ không phải thật sự vui. Khi nào trong lòng không có buồn phiền, tức tối bực bội gì hết, chỉ một niềm vui an ổn, gặp ai mình cũng vui, đó mới thật là vui. Muốn được vậy, chúng ta phải hỉ để mà xả, tức là vui để mà buông.
Chúng ta sống trên thế gian này, cũng như đám trẻ con đông năm bảy chục đứa chạy loạn. Chạy một hồi, thế nào cũng va đầu, chạm trán với nhau. Đứa u đầu, đứa chảy máu, trặc chân, nhưng rồi thôi, bỏ qua vui vẻ với nhau. Nếu cố chấp, khi đụng nhau chúng giận cả năm, cả đời không bao giờ vui được. Một người đụng, ta giận và ôm ấp mối giận đó, hai người cho tới trăm người, ngàn người đụng, thì giận chừng bao nhiêu? Khối giận ấy tưởng tượng chắc bằng cái chùa. Thế gian này chúng ta sống với mấy chục triệu người, chớ đâu phải với một người, nếu cứ cố chấp hờn giận thì khối buồn phiền biết bao to? Trong mấy chục triệu người, chắc gì được một triệu người thương mình, cao lắm chỉ vài trăm người thôi. Còn người những người khác, họ đối không phải với mình một vài điều, ta cứ ôm ấp thì chắc rằng không bao giờ vui được. Cả một đời từ thuở bé cho tới già năm, sáu mươi tuổi, mỗi năm ít nhất cũng đụng nhau vài chục lần. Con số đó cộng lại thì chừng bao nhiêu lần giận hờn? Mỗi lần giận hờn đều giữ, như vậy trong A-lại-da thức hay Tàng thức của mình chứa toàn là giận. Thế thì khi nhắm mắt sẽ ra sao? Tức là thù giận sẽ dẫn mình đi, trở lại gặp thù giận nữa. Đời này hận thù, đời sau hận thù, thù hận tiếp nối, thì cuộc đời chỉ toàn là khổ đau với khổ đau. Cho nên muốn được an vui chúng ta phải tập hỉ xả. Những gì qua rồi tha thứ cho nhau, sống vui vẻ.
Bảo tha thứ thì dễ quá, nhưng làm sao tha thứ đây? Cứ nghĩ người đó hơn mình, người đó ăn hiếp mình, khinh mình v.v... thì không thể nào tha thứ được. Muốn tha thứ được, phải có phương pháp, có đường lối, chớ không thể nói suông.
Trong nhà Phật dạy rằng, muốn hỉ xả phải có từ bi, có thương thì mới có tha thứ. Người đó làm khổ mình mà mình không giận tại vì mình thương họ. Khi thương chuyện lớn cũng biến thành nhỏ. Khi ghét chuyện nhỏ cũng biến thành lớn. Do đó muốn hỉ xả phải biết thương người. Có từ bi thì có hỉ xả, có lòng thương thì mới tha thứ được. Như người dưng kẻ lạ làm khổ mình một chút, mình giận cả đời. Còn con ruột làm khổ, mình giận chừng bao lâu? Chỉ một lát thôi. Rõ ràng mình dễ tha thứ vì thương nó, nếu không thương thì không bao giờ tha thứ cho nó được. Chúng ta không có lòng thương mà nói tha thứ thì không phải tha thứ chân thật.
Làm sao có lòng thương? Nói thương suông được không? Thường chúng ta nói thương tất cả, khi tất cả không chửi ta, chớ họ chửi là hết thương họ. Làm sao người ta chửi mà mình vẫn thương họ được, cái đó mới là khó. Muốn có lòng thương tất cả, tức là từ bi thì phải có trí tuệ. Nhờ có trí tuệ chúng ta mới có lòng thương rộng rãi, mới hỉ xả cho nhau được. Tóm lại đầu mối là trí tuệ, kế đó là từ bi, sau cùng là hỉ xả. Hỉ xả là kết quả của trí tuệ và từ bi.
Nói về trí tuệ, trước hết chúng ta phải quán xét cuộc đời là vô thường để có lòng thương nhau. Nhưng quán xét vô thường thế nào? Quán sự nghiệp, quán của cải, quán cây cối, quán đất nước là vô thường chưa đủ có lòng từ bi. Ở đây muốn có từ bi chúng ta phải quán thẳng vào tánh chất vô thường của con người. Ngày xưa đức Phật thấy rõ con người sanh ra, ai rồi cũng đi đến già bệnh chết. Bây giờ chúng ta cũng quán về lẽ đó, nhưng khác hơn: Ai sanh ra cũng đều bị kêu án tử hình. Quán mạnh như vậy đó. Tôi và quí vị đều có án tử hình, nhưng bản án đó không định ngày xử. Có thể lát nữa đây, hoặc mai, hoặc hai ba mươi năm, hoặc lâu hơn là bốn năm mươi năm nữa xử cũng được. Biết như vậy, chúng ta có giành giựt, có tranh hơn thua từ lời nói không? Cứ nhớ án tử hình thì có thể tha thứ cho nhau hết.
Như vậy muốn thương nhau chúng ta nên nhớ rằng: Sanh ra, ai nấy đều mang án tử hình rồi. Có sanh tự nhiên phải có tử, chắc chắn như vậy. Mọi người đều mang sẵn bản án tử hình, nên lúc nào cũng hồi hộp như có tên đao phủ ở bên cạnh. Nhớ hình ảnh đó, ai có chửi thì chửi, mai mốt chết rồi, còn đâu hơn thua. Hơn thua rồi cũng phải chết. Án tử hình đó bình đẳng cho tất cả mọi người, không kể người giàu kẻ nghèo, người có quyền thế, kẻ không quyền thế. Chi bằng chúng ta tha thứ nhau, thương yêu nhau, đùm bọc nhau, sống vui với nhau, làm khổ nhau chi nữa. Hay hơn nữa là vui hòa cùng tiến tu để phá tan bản án đó. Tuy ai cũng mang bản án tử hình, nhưng người biết đạo lý thì còn có cửa để thoát khỏi tử hình. Nghĩ đến cửa đó, chắc rằng năm nào tháng nào ngày nào, chúng ta cũng chỉ lo làm sao giải quyết được bản án tử hình hơn là giành giựt hơn thua. Bản án chưa giải quyết, có thua thiệt chúng ta cũng làm thinh, chuyện kia mới là chuyện lớn. Kẻ bị án tử hình, được người chỉ dạy để thoát khỏi án đó, lại không chịu làm, cứ lo hơn thua phải quấy thì khờ khạo hay khôn ngoan? Nếu nói theo thế gian thì đó là người ngu. Điều quan trọng thiết yếu mà ngó lơ, cái tầm thường mà cố chấp, không phải ngu là gì?
Biết có phương pháp thoát khỏi bản án tử hình, tức nhiên chúng ta phải cố gắng làm sao đem hết khả năng của mình lo giải quyết bản án. Đó là điều trên hết. Cho nên tu để thoát khỏi sanh tử là điều hết sức cần đối với người biết đạo. Nếu chưa khỏi sanh tử thì ít ra chúng ta cũng tha thứ cho nhau, vì tất cả đều mang án tử hình. Ngày nào còn sống trên thế gian là ngày an ổn, đừng làm khổ cho nhau. Như vậy mới là người có lòng từ bi. Đó là điểm thứ nhất.
Điểm thứ hai là chúng ta phải dùng trí tuệ xét rõ tánh chất giả tạm của con người. Thí dụ có kẻ cuồng loạn, vừa mượn đồ đạc của người ta, liền nói của mình. Người như thế là người khôn hay khờ? Đó là kẻ cuồng si. Vì điên cuồng nên đồ đạc của người mà nói là của mình, nói không đúng sự thật.
Hiện nay chúng ta có thấy mình là kẻ cuồng si hay không? Thân này là giả mà nói giả thì không ai bằng lòng hết. Chúng ta sống đây là đang sống hay đang vay mượn? Nếu thật sống thì cần gì phải vay mượn bên ngoài. Nếu vay mượn bên ngoài thì không phải thật sống. Trong nhà Phật nói thân này do tứ đại: đất, nước, gió, lửa kết hợp mà thành. Từ lúc ra khỏi bào thai mẹ, cuộc sống là cuộc sống vay mượn chớ không phải thật.
Chúng ta thấy từ đứa bé cho đến người lớn, ai cũng như ai, lỗ mũi có lúc nào nghỉ thở không? Chúng ta sống mà quên mình đang mượn không khí ở ngoài, đem vô rồi trả ra, trả ra rồi hít vô, cả ngày như vậy. Đó là sự sống, sự sống này do vay mượn mà có. Khi ở ngoài là không khí của trời đất, hít vô mũi, liền nói là hơi thở của tôi. Đó là nói lỗ mũi mượn không khí, mượn gió.
Đến miệng mượn cái gì? Như khô cổ thì xin một tách nước. Khi còn ở ngoài nói là nước trà hoặc nước lạnh. Vô khỏi cổ rồi nói là nước của tôi. Mượn vô ở miệng, xuống thân trả ra, chỉ đi có một đường quanh, như vậy mà cũng nói là của tôi. Mượn hơi gió, mượn nước, rồi tới mượn đất, lửa nữa. Tức là mượn thức ăn, chất bột để nuôi dưỡng phần đất; chất nóng để nuôi dưỡng phần lửa. Chúng ta cứ mượn rồi trả, mượn rồi trả. Nếu một phút giây nào không mượn thì phút giây đó còn sống hay không?
Như vậy chúng ta là thật hay giả? Nói giả thì ngán quá không dám nói. Nhưng chân lý là vậy. Con người có những cố chấp lạ, si mê không bao giờ chịu thấy lẽ thật. Một lẽ thật trăm phần trăm, mà nghe qua mình sẽ nổi giận liền. Thí dụ sáng dậy chưa kịp súc miệng rửa mặt, khách tới buộc lòng phải tiếp chuyện, vô tình hơi bay vào mũi khách. Nếu người đó nói thẳng: “chà! hơi thở chị hôi quá”, nghe như vậy mình giận liền. Tại sao sự thật trăm phần trăm, mình biết rõ mà lại giận? Như vậy có phải là chạy trốn sự thật không? Không dám thấy sự thật, không dám nghe sự thật, phải chăng là kẻ cuồng si?
Thân này rõ là thân vay mượn, mà lúc nào chúng ta cũng nói là thân thật. Bởi nói thân mình thật nên quan trọng nó. Bởi quan trọng nó, nên những gì nuôi dưỡng nó, những lời khen ngợi nó mình đều quan trọng theo. Thân ta là trọng, vật ta dùng là quí, nên ai đụng chạm đến, chê bai hay làm hư hại thì ta nổi tức lên. Sở dĩ chúng ta buồn thương giận ghét… là tại thấy thân thật, nên thấy khen chê cũng thật. Nếu ta thấy thân này giả tạm, thì khen chê đối với thân này không còn quan trọng. Khi sự khen chê không còn quan trọng nữa, chúng ta sẽ dễ tha thứ những gì đụng chạm đến mình. Hỉ xả không còn khó khăn nữa.
Giờ đây, ai chấp thân này là thật, ta thấy người đó rất đáng thương. Mình tỉnh mà thấy người mê thì thương, cũng như thấy người điên ta thương vì họ không biết lẽ thật. Vì vậy nên tha thứ những sai lầm của họ. Giả sử bị người điên chửi, ta có giận không? Dù bị họ đánh hai, ba bạt tai, mình chạy chớ không giận họ. Vì họ là kẻ điên, mình phải thương họ, đâu nỡ giận. Mình biết thân là giả, người chấp thân là thật, nếu họ lỡ xúc phạm đến, chúng ta sẵn sàng tha thứ, vì ta biết họ si mê. Người si mê là người đáng thương không đáng giận. Nghĩ như vậy chúng ta thương được tất cả. Đó là điểm thứ hai.
Hai điểm then chốt trên là do trí tuệ quán chiếu mà phát sanh lòng từ bi. Một là quán vô thường, chúng ta đều mang án tử hình, sớm muộn gì rồi cũng chết; do đó thương yêu giúp đỡ, không nỡ làm khổ thêm cho nhau. Hai là quán thân này giả tạm, vay mượn thì hơn thua, khen chê chỉ là chuyện thường, không có gì quan trọng. Nhờ thế chúng ta có thể tha thứ, có thể hỉ xả hết. Muốn có lòng từ bi, chúng ta phải có trí tuệ là vậy.
Trong kinh A-hàm kể lại: Ngày xưa, đức Phật đi hoằng hóa ở chỗ ngoại đạo, có một Bà-la-môn ghét Ngài, phỉ báng mạ nhục nói nhiều lời nặng nề. Đức Phật vẫn lặng thinh. Nói một lúc, Bà-la-môn hỏi:
- Cù-đàm có nghe không?
Phật đáp:
- Ta nghe.
- Tôi nói như vậy sao ông không trả lời?
Đức Phật bảo:
- Giả sử ở nhà ngươi có một buổi lễ mời bà con thân quyến tới. Sau khi dự lễ xong họ ra về, ngươi đem quà bánh tặng cho họ. Những người đó không nhận thì quà bánh về ai?
- Về tôi.
- Cũng vậy, ngươi mắng chửi ta mà ta không nhận, có dính dáng gì đến ta đâu.
Đức Phật biết thân này là giả, ngôn ngữ khen chê đâu có gì quan trọng mà hơn thua.
Lần khác, đức Phật đi khất thực gặp một Bà-la-môn còn quá hơn ông trên. Đức Phật đi trước, ông theo sau chửi hoài. Phật cũng từ từ đi, tới ngã ba đường, Phật trải tọa cụ ngồi, ông chạy lại trước mặt hỏi:
- Cù-đàm thua tôi chưa?
Đức Phật thong thả đáp bằng bốn câu kệ:
Kẻ hơn thì thêm oán
Người thua ngủ chẳng yên
Hơn thua hai đều xả
Ấy được an ổn ngủ.
Phật dạy hơn người thì người oán mình, còn thua thì trằn trọc ngủ không yên. Một bên thêm oán, một bên ngủ không yên. Chỉ hơn thua đều bỏ hết thì ngủ khò không gì bận tâm. Người hơn thua đều xả thì an ổn nhất trên trần gian. Đó là người hạnh phúc, cần ăn thì ăn cần ngủ thì ngủ, không bận bịu ưu tư gì hết. Đức Phật đối với cảnh người ta khinh bỉ hạ nhục mà Ngài vẫn tự tại, không rối rắm không bực bội. Tại sao? Tại Ngài đã giác ngộ rồi, đầy đủ lòng từ bi nên hỉ xả không khó khăn gì hết.
Chúng ta thấy rõ trước có trí tuệ, kế đó có lòng từ bi, rồi sau đạt được hỉ xả cùng tột. Nếu không có trí tuệ, thiếu từ bi thì hỉ xả không bao giờ có. Ở thế gian này phần nhiều người ta sống hăng say với sự hơn thua. Kẻ ngồi mãi trong sòng bạc không biết mỏi lưng là sao? Tại nghĩ hơn thua. Người xem đá bóng, mỏi mắt không biết chán cũng tại nghĩ ăn thua. Vì hơn thua mà người ta say mê trong cuộc sống. Càng say mê thì càng giành giựt để được hơn thua. Còn người biết hơn thua không có gì quan trọng, thì không bận bịu giành giựt chi hết. Người đó vẫn bình tĩnh điềm đạm trước mọi cảnh, không có gì nóng nảy lo sợ. Vì nghĩ được mất hơn thua mà lòng chúng ta lúc nào cũng hồi hộp lo âu. Nếu hơn thua không còn thì mọi vấn đề không còn quan trọng nữa, lo âu hồi hộp hết liền. Như vậy cái khổ của tất cả chúng sanh gốc từ tranh hơn tranh thua. Chính vì tranh hơn tranh thua, chúng ta mới cố chấp để rồi thù địch hại nhau v.v... nếu coi thường hơn thua thì chúng ta an ổn và hỉ xả hết. Đối với người khác không buồn không giận, không oán thù, đó là do tự biết mình không thật. Biết mình cùng mọi người ở trong cảnh khổ, nên chúng ta thương nhau và tha thứ cho nhau. Thương nhau tha thứ cho nhau gốc từ trí. Như vậy rõ ràng trí tuệ đến đâu, thì từ bi theo đó. Có từ bi mới hỉ xả được. Sở dĩ đức Di-lặc hạnh phúc vui cười hoài là vì Ngài có trí tuệ, đầy đủ từ bi, hỉ xả nên mới vui vẻ như vậy.
Hôm nay là ngày đầu năm, tôi nhắc lại cho quí vị nhớ, hạnh phúc của chúng ta là phải có trí tuệ, thấy được lẽ thật để thương yêu nhau và đùm bọc nhau. Còn chúng ta cứ câu mâu hơn thiệt, thì chưa chắc có bao nhiêu lần vui mà có thể buồn nhiều, vì thế gian lúc nào cũng đụng chạm. Người tu theo đạo Phật là tự lợi lợi tha tức tự cứu và cứu người. Vậy chúng ta phải nỗ lực làm sao cho mình được vui tươi hạnh phúc, để rồi niềm vui đó lan tỏa đến mọi người.
Năm mới tôi cầu nguyện Tam Bảo gia hộ cho quí vị một năm đầy đủ hạnh phúc, thân khỏe tâm an, hỉ xả như đức Phật Di-lặc. Đó là lời cầu chúc của tôi, mong quí vị cố gắng thực hiện.
HÒN NGỌC HỌ HÒA
Tất niên Mậu Ngọ - 1979
Tất niên năm nay, trước hết tôi xin kể một câu chuyện thế gian. Thuở xưa trong thời Xuân Thu nước Sở ở Trung Hoa, trên ngọn Kinh Sơn có một người tìm ngọc tên là Biện Hòa. Anh vô núi, tìm được một hòn ngọc bích, anh đem về dâng lên cho vua Sở. Vua Sở lúc đó là Sở Lệ Vương, mới đưa cho thợ ngọc xem. Họ trả lời đó là đá chớ không phải ngọc. Vua Sở nổi giận bắt chàng họ Hòa chặt một chân, bảo là khi quân. Bị chặt một chân, chàng ta mang ngọc về. Thời gian sau Sở Lệ Vương thăng hà. Sở Võ Vương lên ngôi, chàng họ Hòa còn một chân, nhưng cũng mang ngọc tới dâng. Sở Võ Vương bảo thợ ngọc xem, lần này họ cũng trả lời là đá chớ không phải ngọc. Vua nổi giận bắt chàng họ Hòa chặt một chân nữa. Sau Sở Võ Vương tới Sở Văn Vương lên ngôi. Chàng họ Hòa không còn chân đem dâng ngọc nữa, đành ôm hòn ngọc ở Kinh Sơn mà khóc. Khóc năm, bảy ngày đến máu ra nước mắt. Sở Văn Vương nghe vậy cảm động cho đòi y về triều. Vua Sở hỏi: Tại sao ngươi khóc lắm vậy? Có phải bị chặt chân mà ngươi khóc hay chăng? Ông ấy trả lời: Tôi khóc không phải vì bị chặt hai chân, mà khóc vì ngọc mà nói là đá, vì nói thật mà cho là nói dối.
Vua Sở Văn Vương bảo thợ ngọc xét lại cho kỹ, coi phải thật là ngọc hay không. Rốt cuộc đó là một viên ngọc bích rất đẹp. Từ đó về sau mới đặt tên là “Ngọc Bích họ Hòa”.
Qua câu chuyện đó chúng ta thấy điều gì?
Thiện chí của chàng họ Hòa đưa đến kết quả cụt hai chân. Chàng đau khổ không phải vì cụt hai chân, mà vì ngọc lại nói là đá. Đau khổ vì nói thật mà cho là nói dối. Chúng ta nghĩ sao về tâm trạng chàng họ Hòa? Hòn ngọc bích của chàng có quí thật hay không? Nếu theo thế gian thì hòn ngọc ấy rất quí. Nhưng giả sử có người tặng ta hòn ngọc quí hơn thì sao?
Tôi nhắc lại như trường hợp trong kinh Pháp Hoa, Bồ-tát Thường Bất Khinh đi đâu gặp ai cũng chấp tay bái bái nói: “Tôi không dám khinh các ngài, các ngài đều sẽ thành Phật.” Như vậy phải chăng Bồ-tát Thường Bất Khinh đã tặng cho chúng ta một hòn ngọc. Khi đó có kẻ rầy la, có kẻ vác đá chọi Ngài... nhưng dù muốn dù không hòn ngọc ấy cũng được trở về với mọi người.
Thực tế mà nhìn, giả sử có người tặng chúng ta một hòn ngọc quí hơn trăm ngàn lần hòn ngọc ở Kinh Sơn, mình có ưng nhận hay không? Nếu ưng nhận, có chịu giữ hay là quăng lang lệ ở ngoài đường? Như vậy người tặng ngọc có buồn không? Chúng ta thử tưởng tượng một việc tầm thường, ngọc mà mắt người không chuyên môn, cho là đá, khi thì người biết chắc chắn là ngọc có đau khổ hay không. Đau khổ chặt chân vẫn chưa đau khổ bằng ngọc mà cho là đá, chưa đau khổ bằng nói thật mà cho là nói dối.
Đó là chuyện xưa mà cũng là tình trạng hiện giờ. Có người tặng chúng ta hòn ngọc quí hơn trăm ngàn lần hòn ngọc Kinh Sơn của họ Hòa. Thế nhưng có nhiều người xem thường hoặc không chấp nhận nó, hoặc chấp nhận rồi cũng bỏ rơi không gìn giữ. Như vậy có tội nghiệp cho người tặng ngọc không? Bây giờ hòn ngọc đó ở đâu và ai tặng cho chúng ta? Chúng ta có giống như hai ông vua Sở trước hay không? Mỗi người có hòn ngọc mà không biết giữ. Hòn ngọc bích có quí chăng chỉ là lóng lánh đẹp đẽ trong việc trang sức thôi. Còn có hòn ngọc quí không biết bao nhiêu lần, đem lại cho ta sự an lành tự tại. Có người tặng ngọc cho một trăm một ngàn người, trăm ngàn người có ngọc mà ngọc đem tặng không mất. Vậy hòn ngọc này hẳn quí hơn nhiều. Hòn ngọc này chẳng những làm cho chúng ta an lành tự tại mà còn bảo đảm kiếp kiếp đời đời không bao giờ mất, không bao giờ khổ. Đó là hòn ngọc quí tối thượng. Trong kinh Pháp Hoa, đó là hạt minh châu trong búi tóc của nhà vua tặng cho người thắng trận sau khi trở về, hoặc của người bạn thân tặng cho anh bạn cũ đang lang thang, cột trong chéo áo. Đức Phật đã nói rất nhiều về hòn ngọc này.
Tôi nói việc tặng ngọc của họ Hòa để chúng ta thấy tâm trạng của người tặng ngọc. Bây giờ cũng có người tặng ngọc cho mình, chúng ta nhớ nhận và giữ cho người tặng khỏi tủi buồn, mới thật không hoài công, không phụ lòng người sẵn sàng tặng ngọc cho mình.
Hạt minh châu như thế nào? Tôi sẽ dẫn các Thiền sư để nói lên hạt minh châu có sẵn nơi chúng ta. Có một vị Tăng đến hỏi Thiền sư Thạch Cựu: Thế nào là hạt châu trong tay Địa Tạng? Thiền sư Thạch Cựu trả lời: Trong tay ông lại có chăng? Tăng thưa: Con chẳng hội. Thiền sư Thạch Cựu nói: Chớ dối đại chúng. Như vậy Ngài xác nhận cái gì? Quả tang trong tay ông có hòn ngọc mà ông không biết có hay không. Nếu nói không có là ông dối đại chúng. Kế đó Ngài làm bài kệ:
Bất thức tự gia bảo
Tùy tha nhận ngoại trần
Nhật trung đào ảnh chất
Cảnh lý thất đầu nhân.
Tạm dịch:
Báu nhà mình chẳng biết
Theo người nhận ngoại trần
Giữa trưa chạy trốn bóng
Người nhìn gương mất đầu.
Bất thức tự gia bảo: nghĩa là không biết được của báu chính nhà mình.
Tùy tha nhận ngoại trần: nghĩa là theo kẻ khác mà nhận bụi bặm bên ngoài.
Nhật trung đào ảnh chất: nghĩa là giữa trưa mà người chạy ngoài nắng trốn bóng.
Cảnh lý thất đầu nhân: nghĩa là nhìn vô gương thấy đầu, mặt mình trong gương, quên mất đầu mặt thật của mình. Xoay gương lại không thấy đầu kêu lên “tôi mất đầu rồi”.
Đó là hình ảnh của chàng Diễn-nhã-đạt-đa trong kinh Lăng Nghiêm. Chúng ta có giống như chàng ấy hay không? Mỗi người có sẵn hạt minh châu trong tay, không chịu nhận mà lại nhận những gì loanh quanh tầm phào bên ngoài. Người như vậy chẳng khác nào tự chối mình không có hạt minh châu, giống như kẻ trốn bóng chạy ngoài trời lúc trưa nắng hay người nhìn gương xoay gương lại, cho mình không có đầu, thật là cuồng vọng. Qua bài kệ Thiền sư nhắc cho chúng ta biết mỗi người có hòn ngọc như vậy.
Sau đây là câu chuyện của đức Phật: Một hôm năm vị Thiên vương đến hỏi đạo đức Thế Tôn, Ngài để hạt châu ở giữa, năm vị đứng năm góc. Ngài hỏi hạt châu này màu gì, mỗi vị nói mỗi màu khác nhau. Ông ở phương Đông thấy phản ánh màu trắng, nói hạt châu màu trắng. Ông ở phương Tây thấy phản ánh màu đỏ, nói hạt châu màu đỏ. Cả năm ông nói năm màu khác nhau. Thế Tôn cất hạt châu, đưa tay lên hỏi: Hạt châu này màu gì? Mấy vị Thiên vương thưa: Trong tay Phật không có châu, chỗ nào có màu? Đức Phật quở: Tại sao các ông điên đảo lắm vậy? Ta đem thế châu chỉ cho liền nói có màu xanh vàng đỏ trắng. Ta đem chân châu chỉ cho thảy đều không biết. Năm vị Thiên vương nghe xong đều ngộ đạo thấy hạt chân châu. Tại sao Phật đưa tay không lại nói là chân châu? Quí vị có thấy hạt châu đó không? Quí vị có thấy thì tự thấy, chớ tôi không giải thích. Đó là tôi đã chỉ châu cho quí vị.
Một câu chuyện khác cũng nói về châu. Có vị Tăng hỏi Thiền sư Pháp Đăng: Đầu sào trăm trượng làm sao tiến bước?
Thiền sư Pháp Đăng đáp: Câm.
Ngài Úc Sơn Chủ khán câu đó do một vị Hóa Sĩ ở Lô Sơn dạy trải qua ba năm. Một hôm Ngài cưỡi ngựa qua cầu ván, bất thần con ngựa đạp nhằm chỗ ván mục bị lọt chân. Ngài té nhào xuống ngựa, bỗng nhiên đại ngộ làm bài tụng:
Ngã hữu minh châu nhất khỏa
Cữu bị trần lao quan tỏa
Kim triêu trần tận quang sanh
Chiếu phá sơn hà vạn đóa.
Dịch:
Ta có một viên minh châu
Đã lâu bị bụi vùi sâu
Hôm nay bụi sạch sáng sanh
Soi thấu núi sông vạn cảnh.
Như vậy Ngài lượm được hạt châu ở đâu? Chỉ cần khán câu đó bất thần Ngài thấy hạt châu của mình. Viên minh châu chôn vùi dưới bụi lâu rồi, hôm nay bất thần bụi tan nên ánh sáng phát hiện, chiếu khắp sơn hà đại địa. Diệu dụng của hạt minh châu như thế, nên quí vô cùng vô tận.
Hạt minh châu, còn có tên khác nữa nhưng thể vẫn không khác. Trong hội Quốc sư Đức Thiều, một hôm ngài Hồng Thọ - Hưng Giáo bửa củi. Một búa củi tét ra, Ngài liền ngộ đạo, nói kệ:
Phốc lạc phi tha vật
Tung hoành bất thị trần
Sơn hà cập đại địa
Toàn lộ Pháp vương thân.
Dịch:
Bửa tét không vật khác
Dọc ngang chẳng phải trần
Núi sông và quả đất
Toàn bày thân pháp vương.
Bửa củi tét ra thì bày thân Pháp vương chớ không ở đâu xa lạ. Người tu thiền ngộ đạo không hẳn ở trong giờ phút yên lặng, mà có thể trong khi làm công tác hay lúc đi đường, bất chợt gặp cái gì đó cũng ngộ được. Đó là tinh thần Thiền tông thấy đạo bất cứ lúc nào và ở đâu. Cũng như ngài Hồng Thọ bửa củi, ngài Úc Sơn Chủ cưỡi ngựa, có tu hay không? Nếu không tu tại sao bất thần các Ngài ngộ đạo. Như vậy để thấy người xưa, đi đứng nằm ngồi, bất cứ hoạt động nào các ngài cũng không bỏ quên tâm niệm tu hành của mình. Chính ôm ấp, mài dũa như vậy nên mới có cơ phát hiện ra. Còn chúng ta, đi thì lo nói chuyện thế gian, bửa củi thì nói chuyện vui để quên mệt, vì vậy mà chúng ta không thấy đạo.
Thiền sư Thạch Thê, cháu gọi Nam Tuyền bằng Sư ông. Một hôm, Thị giả mời Ngài đi tắm.
Sư bảo:
- Đã chẳng rửa bụi cũng chẳng rửa bợn tắm làm gì?
Thị giả thưa:
- Hòa thượng đi trước con đem xà phòng đến sau.
Sư cười.
Hôm khác Sư hỏi Thị giả:
- Đi đâu?
Thị giả thưa:
- Con lên trai đường.
Sư bảo:
- Ta đâu không biết ngươi lên trai đường.
Thị giả thưa:
- Trừ ngoài việc này, riêng nói cái gì?
Sư bảo:
- Ta chỉ hỏi việc bổn phận của ngươi.
Thị giả thưa:
- Nếu hỏi việc bổn phận, con thật là đi lên trai đường.
Sư bảo:
- Quả thật là Thị giả của ta.
Chúng ta thấy Thị giả của Ngài nói năng như lệch lạc vậy.
Mời đi tắm, Ngài bảo: Nước không phải rửa bụi cũng không phải rửa bợn, tắm làm gì? Thị giả không trả lời câu đó mà nói: Hòa thượng đi trước con đem xà phòng theo sau.
Sư cười.
Có phải Thị giả lạc đề nên Ngài cười không?
Sao lạ vậy? Đoạn sau thấy Thị giả bưng bát lên trai đường, Ngài hỏi đi đâu, Thị giả thưa: Con đi lên trai đường. Ngài nói: Ta đã biết ông đi lên trai đường. Ý Ngài muốn hỏi cái gì đó.
Thị giả thưa: Ngoài việc đi lên trai đường, Hòa thượng bảo con nói cái gì bây giờ?
Ngài đáp: Ta hỏi việc bổn phận của ngươi.
Thị giả thưa: Nếu Hòa thượng hỏi việc bổn phận của con thì quả thật là con đi lên trai đường. Ngài liền khen: Ông mới thật là Thị giả của ta.
Chúng ta thấy vị Thị giả này đáng là Thị giả chưa?
Tôi nhắc thêm một Thiền sư nữa. Ngài Bổn Nhân ở huyện Bạch Thủy, đệ tử của ngài Động Sơn. Một hôm Ngài thượng đường nói với chúng:
- Trong con mắt dính cát chẳng được, trong lỗ tai dính nước chẳng được.
Một vị Tăng bước ra hỏi:
- Tại sao trong con mắt dính cát chẳng được?
Ngài đáp:
- Hợp chân không sánh.
Tăng hỏi:
- Tại sao trong lỗ tai dính nước chẳng được?
Ngài đáp:
- Trắng sạch không nhơ.
Trả lời sao mà lệch lạc vậy? Trong con mắt dính cát không được, điều đó ai cũng nhận rõ. Trong lỗ tai dính nước không được, đó cũng chẳng khó hiểu. Nhưng tại sao con mắt dính cát không được? Ngài đáp: Hợp chân không sánh. Tức là hợp với cái chân, không có gì so sánh được.
Hỏi: Tại sao lỗ tai dính nước không được?
Ngài đáp: Trắng sạch không nhơ.
Như vậy, Ngài nói chuyện gì, có chỉ hạt châu không, có giống đức Phật đưa tay lên cho năm vị Thiên vương đó chăng?
Đó là lối diễn tả khác mà cùng một nghĩa của các Thiền sư. Đạo vị này thâm thúy mà người đọc hơi đau đầu, không biết đức Phật nói gì, Thiền sư nói gì? Ở đây nếu tôi giải thích hết, sẽ không hay.
Bây giờ tôi kể chuyện Thiền sư ni Viên Ấn, ở đời nhà Thanh niên hiệu Khang Hi, đến tham vấn Thiền sư Chân Diễn ở Trúc Am.
Thiền sư hỏi:
- Thế Tôn đưa cành hoa, ngài Ca-diếp cười chúm chím, là cười cái gì?
Ni Viên Ấn hét một tiếng.
Thiền sư bảo:
- Tiếng hét này rơi vào chỗ nào?
Ni thưa:
- Chẳng cần nghĩ đến.
Thiền sư dựng phất tử hỏi:
- Cái này là gì?
Ni thưa:
- Chẳng được vọng thông tin tức.
Thiền sư hỏi:
- Vừa rồi Sơn tăng nói gì?
Ni thưa:
- Lời trước đâu còn.
Thiền sư bảo:
- Sơn tăng tuổi già.
Ni thưa:
- Tuổi già thì được.
Ni liền lễ bái.
Chúng ta thấy trả lời như vậy có lạc đề không?
Thiền sư đưa cây phất tử lên hỏi “cái này là gì”, Ni Viên Ấn nói “không được dối thông tin tức”.
Trả lời như vậy, chúng ta thấy vị Ni ấy ra sao? Tiếc rằng câu chuyện này kể ra nghe hơi đau lỗ tai, nhưng tôi cứ kể vì muốn hiến châu cho quí vị.
Đến câu chuyện Thiền sư Huyền Thiết Dung thượng đường nói chuyện với đại chúng. Vừa đăng pháp tòa chúng nhóm họp đầy đủ thì Ngài bước xuống tòa. Thầy Tri sự tức quá chạy đến nắm đứng Ngài lại hỏi: “Tại sao không dạy một lời liền bước xuống tòa?” Ngài trả lời: “Sơn tăng sáng ăn hai chén cháo nguội, trong bụng có chút bất an, đợi đi cầu một chút, hãy vì các ông nói.” Chúng ngơ ngác không biết gì. Ngài về phương trượng không ra nữa.
Tại sao kỳ vậy? Câu chuyện này có lạ không? Ngài có nói pháp cho chúng ta nghe chưa? Thật tình Ngài có đau bụng hay không? Đó là một câu chuyện đặc biệt.
Hôm khác Ngài cũng thượng đường nói: Sơn tăng hôm qua đi thọ trai trong xóm, nhai nhằm một hạt cát hắc quang, cho đến sáng nay răng vẫn còn đau không thể cùng chư huynh đệ nói vàng nói trắng. Nói xong Ngài bước xuống tòa và trở về phương trượng.
Sao lạ vậy. Ngài có thuyết pháp câu nào chưa?
Lại một hôm, Ngài hỏi một vị Tăng:
- Người xưa nói “ăn cháo xong rửa bát đi” là thế nào?
Tăng trả lời:
- Khi hôm trong mộng có người hỏi con câu này, vì lúc đó con mê ngủ nên không đáp cho y.
Sư bèn thôi và gật đầu.
Vị Tăng có lạc đề không? Tôi không giải thích mỗi người tự hiểu.
Một Thiền sư khác, ngài Quảng Thanh. Đầu mùa Xuân năm Canh Thân niên hiệu Khang Hi đời Thanh, Ngài mang bệnh ba tháng trời. Một hôm đệ tử là Viên Tịnh dẫn chúng vào phương trượng viếng thăm và cầu chỉ dạy.
Sư bảo: Sơn tăng xưa nay không dính mê ngộ. Bị bệnh kiết ba tháng khiến thân gầy bày xương. Nếu người hiểu đạo như thế bảo đảm siêu Phật vượt Tổ.
Nói xong Ngài nằm nghiêng bên mặt mà tịch.
Như vậy Ngài dạy cái gì? Tôi nhớ lại câu Tổ Hoàng Bá nói: “Dưới Mã Tổ có tám mươi tư thiện tri thức nhưng chỉ có ngài Qui Tông là tiêu chảy đầy đất.” Trong nhà Thiền có những câu chuyện tương tự như vậy. Ngài Quảng Thanh nói Ngài bị bệnh kiết ba tháng, bây giờ sạch hết thân gầy bày xương. Nếu người nào hiểu được việc đó, thì siêu Phật vượt Tổ.
Khi đọc qua câu chuyện đó chúng ta cảm thấy như Ngài tả bệnh trạng của mình. Bệnh hoành hành làm cho Ngài đi tiêu chảy, không còn gì trong bụng hết, ốm gầy còn da bọc xương.
Thiền sư nói nửa thật nửa hư, mượn bệnh của mình để chỉ cái khác. Thật tình nếu chúng ta là người tu Thiền hay tu theo đạo Phật, chỉ có một chuyện là uống thuốc xổ thôi, thì chúng ta hết bệnh. Chúng ta tích lũy chất độc đã nhiều năm, độc tố chứa lâu quá rồi thành ra sanh bá bệnh. Bây giờ muốn hết chỉ còn phương thuốc là xổ. Xổ sạch rồi là lành bệnh. Đó là phương pháp duy nhất, nhưng khổ nỗi thiên hạ không chịu xổ hết. Đã tích độc rồi mà muốn tích thêm hoài, ngày nào cũng thêm chớ không chịu xổ.
Ra chợ nghe người ta nói câu gì bất như ý, về nhà nằm thở ra thở vô rồi tức. Người như vậy là biết xổ chưa? Những gì hay, những gì dở năm trên năm dưới, nếu rảnh ngồi lại thì ôn mãi trong đầu. Ôn tới ôn lui hoặc cười hoặc tức. Chúng ta tích lũy những thứ đó từ ngàn đời, do không chịu xổ, nên biến ra đủ thứ bệnh trạng. Rồi cứ than đau quá, khổ quá không ai cứu giùm. Phật bảo xổ không chịu xổ thì bệnh không thể cứu được.
Cuối năm, không có gì hơn là chúng ta xổ hết mọi thứ mà trọn năm đã dồn vô làm cho mình bận bịu, khổ sở. Cuối năm xổ hết thì sang năm tới chúng ta sạch bong như ngài Quảng Thanh, chỉ còn thân gầy bụng trống. Nếu không thì cứ ấm ách trong bụng và chúng ta sẽ đau khổ dài dài không biết đến bao giờ hết.
Như tôi đã nói, chúng ta có sẵn viên ngọc quí vô giá không gì bì được, mà lại vùi nó trong bụi. Bây giờ muốn viên ngọc bày ra thì phải phủi cho sạch bụi.
Ở đây chúng ta xổ hết chất độc thì tức nhiên trắng sạch, cái chân thật hiện ra. Tu là biết buông tất cả những gì đã nắm. Nếu càng tích lũy thì càng khổ đau. Cho nên người biết tu chỉ cần xả hết các thứ tích lũy thì an lành tự tại.
Thiền sư không muốn nói danh từ chuyên môn mà nói tiêu chảy. Bao nhiêu phiền não tích lũy, mình xổ được rồi thì sẽ nhẹ nhàng. Khi chúng ta sạch hết trần lao thì viên ngọc phát ánh sáng, hết phiền não là Bồ-đề hiện. Đó là chủ yếu của sự tu hành.
Tất cả chúng ta cùng tu, nguyện một đời đi tới chỗ an lành tự tại, tức là nắm được hòn ngọc của mình. Lau nó sạch, không để dính bụi bặm, thì tất cả diệu dụng hiện tiền. Đó là việc thiết yếu của người tu. Được như vậy, bao nhiêu đau khổ sẽ theo đó mà hết. Cũng như kẻ nghèo, đói khát lang thang được của quí rồi thì sẽ hết nghèo, trở thành sang cả. Đó là đường lối tu đơn giản thẳng tắt nhất để tiến đến chỗ an lạc giải thoát.
Tôi mong rằng sang năm mới này tất cả chúng ta đều xổ hết những cái cũ để tâm hồn trong trắng hầu hưởng trọn vẹn một mùa Xuân Di-lặc.
MỘT MÙA XUÂN HẠNH PHÚC
Hôm nay là ngày Tết Nguyên Đán, cũng là ngày vía đức Phật Di-lặc. Hàng Phật tử xuất gia và tại gia không quên được ngày quan trọng này. Đối với thế gian, ngày lễ Nguyên Đán là ngày dân chúng mừng năm mới. Đối với Phật pháp, ngày vía đức Phật Di-lặc là ngày rất hoan hỉ của giới xuất gia. Tất cả người tu đều có một nguyện vọng là giác ngộ viên mãn.
Ngày vía đức Phật Di-lặc đúng vào ngày mồng một Tết, ngày đầu của một năm mới, đó là thời gian hi vọng của tất cả chúng ta. Hi vọng điều gì? Hi vọng chúng ta đạt đạo, công phu tu hành đạt kết quả viên mãn. Nhớ đến ngày vía đức Phật Di-lặc, tức là nhớ đến những gì hứa hẹn ở ngày mai của chúng ta. Hứa hẹn không phải là ước nguyện suông, cầu mong hão huyền, mà chúng ta phải làm thế nào để được thọ ký như đức Phật Di-lặc. Cho nên, tới ngày đầu Xuân, hàng Phật tử thường chúc mừng: Chúc quí Thầy quí Cô hưởng một mùa Xuân Di-lặc, Xuân bất diệt, Xuân miên viễn. Lời chúc mừng đó có ý nghĩa gì? Chúng tôi sẽ lần lượt giải thích từng phần những lời chúc mừng ấy.
Trước hết là chúc một mùa Xuân Di-lặc. Hầu hết Tăng Ni cũng như Phật tử đều thấy tượng ngài Di-lặc với hình ảnh quen thuộc nhất là miệng luôn cười, gương mặt luôn vui vẻ. Như vậy chúc một mùa Xuân Di-lặc là chúc một mùa Xuân hoan hỉ, một mùa Xuân hạnh phúc. Hạnh phúc là gì? Là an vui. Mỗi gia đình hay mỗi người, trọn ngày, trọn tháng, trọn năm đều được an vui, đó gọi là hạnh phúc theo nghĩa gần, dễ thấy. Nhưng làm sao để được an vui? An và vui thế nào?
An là tâm không lo không buồn không sợ hãi. Nếu muốn được an, thì niệm vui buồn sợ hãi phải dẹp qua một bên, không lo buồn sợ hãi thì tự nhiên tâm an. Làm sao được vui? Sở dĩ chúng ta không vui là tại giận hờn bực tức. Khi vui thì không giận, khi giận thì không vui. Cho nên muốn được an vui chỉ có cách là không lo buồn, không giận hờn, tự nhiên tâm an vui. Đó là chúng ta hưởng được một mùa Xuân Di-lặc. Nếu không thì, dù là ngày mồng một Tết cũng không thấy Xuân chút nào. Đã lỡ lo sợ buồn giận thì làm sao cho hết? Nói suông không thể hết, nói suông tức là không biết tu.
Trong nhà Phật có dạy nhiều phương pháp để hết lo buồn sợ hải. Ở đây tôi chỉ nói phương pháp gần cho chúng ta ứng dụng. Khi lo buồn sợ hãi, liền đặt câu hỏi: - Cái gì lo? Rồi tự trả lời: - Cái lăng xăng. Khi lo, lo cho ai, lo cho mình, cho gia đình mình, cho chung quanh mình. Mình là cái gì? Mình là thân tứ đại giả hợp v.v... phân chia xét nét như vậy rồi, cái lo mất tiêu, vì nó không thật thì còn gì nữa để mà lo. Cái buồn cái sợ hãi cũng vậy. Phần nhiều chúng ta cứ tưởng tượng rồi sợ, mà không tìm xem sợ là cái gì? Tại sao mình sợ?
Thí dụ khi gặp con rắn chúng ta run lên vì sợ. Thử hỏi cái gì sợ? Khi đặt câu hỏi là đã hơi tỉnh, bớt sợ. Vì sao sợ? Sợ nó cắn mình. Xét cái mình này thật hay không? Xét một hồi thấy mình không thật, tâm lo sợ cũng mất. Cho nên các Tổ ngày xưa, gặp cảnh hãi hùng mà không sợ vì các ngài biết tâm sợ không thật và đối tượng để sợ cũng không thật. Đức Phật khi ngồi dưới cội bồ-đề, có con rồng chín đầu đến trước mặt phun lửa phì phì, đức Phật vẫn điềm nhiên không sợ, vì Ngài thấy rõ tâm sợ hãi không thật và đối tượng làm mình sợ cũng không thật luôn. Giả sử chúng ta gặp trường hợp đó thì kinh hoàng sợ hãi tâm không còn bình tĩnh sáng suốt. Cho nên khi gặp cảnh lo sợ, chúng ta dùng trí tuệ phân tích thì sẽ hết sợ hết lo. Nếu không quán xét, cứ theo tình cảm lo lắng thì cái lo sẽ tăng mãi đến mất ăn, mất ngủ, sanh bệnh hoạn, rốt cuộc không tới đâu cả. Đó là cái gốc nuôi dưỡng vọng tưởng.
Giờ đây nếu gặp cảnh lo buồn sợ hãi, chúng ta chịu khó nhớ lại những phương tiện Phật chỉ dạy trong các kinh như Bát Đại Nhân Giác, Bát-nhã v.v... cứ theo đó mà ứng dụng thì hết lo hết sợ. Hơn nữa muốn tâm mình an phải nhìn lại nó. Cái đang lăng xăng lộn xộn đó ở đâu? Nó là cái gì? Nhìn mãi tự nhiên nó tan hoang không còn, tức khắc mình được an ổn. Đó là phương pháp thiết yếu, chỉ có người biết ứng dụng mới thấy kết quả tốt.
Đến bực tức giận hờn làm sao cho hết? Bực tức giận hờn đố kỵ làm người ta không vui. Hạnh đức Di-lặc là hỉ xả nên Ngài cười hoài. Việc gì tới Ngài cũng cười, buông hết, không bận lòng. Cũng như chúng ta học uống “thuốc xổ”. Cứ mỗi ba tháng xổ luôn thì bụng sẽ sạch trơn. Biết buông xả thì lòng mới không bực bội. Ở đời có ai làm vừa ý mình hết đâu. Một trăm người thì tám chục người làm cho mình không vui rồi. Chừng hai mươi người mình hơi vừa ý một chút, chớ chưa hoàn toàn. Chỉ có một người có lẽ mình vừa ý hoàn toàn. Đó là ai? - Là mình. Thế mà có khi mình còn muốn rầy nó nữa. Ở thế gian này có lúc nào mình vui hoàn toàn đâu? Nếu cứ ôm ấp chuyện người này làm mình bực, người kia làm mình buồn, cứ dồn vô chứa cả một kho sân kho lửa, động đến là cháy. Chúng ta để ý, người nào đang bực bội, mà mình hỏi họ một câu, dù là câu không quan trọng, không đụng chạm gì hết, mới mở miệng hỏi là họ muốn cự với mình rồi. Vì lửa sân có sẵn bên trong, động một cái là nháng lên. Cho nên chúng ta phải biết rõ chủ yếu của bất an, không vui là tại tâm niệm ta chứa chấp cả một kho tật đố, giận hờn, sân hận. Gặp ai cũng cảm thấy hơi tức tối, bực bội. Muốn an vui chúng ta phải ứng dụng bằng hai cách:
1- Tùy hỉ để phá tâm tật đố.
Muốn tùy hỉ phải làm sao? Thí dụ người mình mến nhất, nghe người đó phát tài mình vui lây. Trái lại mình ghét nhất, nghe họ phát tài mình bực liền. Tại sao? Tại vì người mình không ưa mà họ được hơn, nên mình sanh tâm đố kỵ. Đó là tật đố. Dù cho đối với bạn thân cùng nghề với mình mà cấp trên cứ khen họ hoài mình cũng không vui. Người thù của mình được khen, mình không vui đã đành; còn người thân của mình được khen tốt, mình cũng không vui nữa. Như vậy người nào được khen tốt thì mình vui? - Chỉ có mình thôi. Nhìn thật kỹ, chúng ta thấy khó tìm được cái vui, vì lúc nào mình cũng muốn hơn thiên hạ hết. Cho nên lòng buồn hận xảy ra luôn luôn, đó là điều khó tránh. Vì vậy đức Phật dạy chúng ta muốn được vui thì phải phát tâm tùy hỉ. Tùy hỉ là vui theo người, coi người được như mình được. Người phát tài như mình phát tài, người được khen như mình được khen. Lúc đó mình mới hết tâm tức tối bực bội.
Như chúng ta thường chịu đố kỵ hơn là chịu tùy hỉ. Thấy người hơn mình thì tức, không bao giờ chấp nhận, không bao giờ vui với cái vui của người. Trong kinh đức Phật nói: Người nào phát tâm tùy hỉ thì công đức vô lượng vô biên. Người làm việc tốt được bao nhiêu công đức, mình tùy hỉ thì công đức cũng bằng với họ không thua chút nào hết. Người làm được việc tốt là đã có lòng tốt, mình tùy hỉ là phá tâm tật đố thì cũng tốt luôn. Công đức của cả hai như nhau. Cũng như cây đuốc này mồi qua cây đuốc kia, hai cây đều sáng mà không cây nào mất ánh sáng hết. Tùy hỉ cũng vậy, ai được cái gì tốt mình phát tâm vui mừng: Huynh được cái đó tốt quá, huynh sung sướng phát tài, tôi mừng tôi sung sướng như tôi phát tài vậy. Như vậy chắc chắn đời mình không nghèo. Ai sung sướng mình cũng mừng như mình được, thế nào họ cũng không bỏ mình. Khổ là, người ta được mình lại ghét, cho nên mình kiếm chuyện châm biếm, mỉa mai làm họ tức, do đó ai cũng không ưa mình hết. Vì vậy mà khổ suốt đời. Mầm an vui phát xuất từ lòng tùy hỉ, tức là biết nhìn thấy và nhận cái vui của người làm cái vui của mình. Cho nên Phật dạy: Phải phát tâm tùy hỉ, vui theo cái vui của những người chung quanh dù thân hay sơ. Chư Bồ-tát thấy một chúng sanh đau khổ, coi như mình đau khổ; thấy một chúng sanh an vui, coi như mình an vui. Chúng ta chưa bằng Bồ-tát, ít ra cũng phải tập theo hạnh đó để mang hạnh phúc đến cho mình.
Lối tu tập này không tốn công bao nhiêu mà được vui vẻ cả làng. Còn không là tự mình chuốc thêm tai họa có ích lợi gì đâu. Cho nên chúng ta cần gột bỏ hết những cái gây đau khổ để được an lành vui vẻ. Phải buông hết, đừng cố chấp thì lòng người mới nhẹ, tức là không sân không hờn và phải tùy hỉ.
2- Tỉnh giác để phá tâm sân hận.
Sân hận là tâm bệnh hoạn nhất. Động tới là nổi quạu lên la om sòm, tay chân lay động đưa đến tai họa không nhỏ. Thiền sư Đạo Thông đời Tống, một hôm Tướng công Vu Địch tới hỏi đạo. Vu Công thường tụng kinh Phổ Môn nên hỏi rằng: Thế nào là gió đen thổi thuyền trôi vào nước quỉ La-sát? Thiền sư trả lời: Kẻ khách Vu Địch hỏi việc ấy làm gì? Vu Địch liền đổi sắc. Ngài bèn nói: Cái đó là gió đen thổi thuyền trôi vào nước quỉ La-sát. Vu Địch liền hết nổi nóng. Chỗ này thật là tối quan trọng. Kinh nói: Giả sử luồng gió đen thổi thuyền trôi vào nước quỉ La-sát, lúc đó trong thuyền có người niệm Nam-mô Quán Thế Âm Bồ-tát, thì bọn quỉ không dám lại gần. Nghe linh nghiệm như thế nên chúng ta nghĩ khi đi biển đi sông mà gặp gió to sóng lớn thì cứ niệm Quán Thế Âm Bồ-tát tức là qua hết. Nếu hiểu như vậy thì rất tội nghiệp cho kinh điển Đại thừa.
Hắc phong mà Thiền sư nói ở đây không phải là gió lớn bên ngoài. Hắc phong là luồng gió đen tự trong lòng mình dấy lên, nó thổi chiếc thuyền người tới cõi nước quỉ liền. Nghe một lời nói trái tai, nổi giận lên miệng nói lời ác, tay chân làm việc ác tức thì mình bị đưa tới cõi La-sát, phải ở tù phải khổ. Hắc phong là như vậy. Cho nên khi chúng ta nghe những lời trái tai, cơn giận vừa dấy lên thì biết đó là hắc phong thổi. Phải dừng nó lại thì nhất định không trôi đến nước quỉ, mà quỉ cũng không dám hại. Nếu lỡ bị thổi trôi đến nước quỉ, thì phải nhớ niệm Quán Thế Âm. Niệm bằng cách nào? Sở dĩ chúng ta giận vì do mắt thấy tai nghe, mà phần lớn là tai nghe những lời trái nên mới giận. Khi niệm Quán Thế Âm Bồ-tát tức là nhớ lại Tánh nghe của mình, bao nhiêu lời trái tai đều tan hết, cơn giận cũng chìm luôn. Đâu còn cái gì đưa đến nước quỉ, La-sát đâu dám ngó tới mình. Rõ ràng như vậy.
Kinh thường nói: “Bất phạ sân tâm khởi, duy khủng tự giác trì”, nghĩa là chẳng sợ tâm sân nổi lên, chỉ sợ giác chậm thôi. Giác thì tâm sân liền mất.
Như vậy, trước hết mình phải đề phòng gió dữ. Lỡ bị gió dữ rồi thì nhớ niệm Quán Thế Âm. Niệm Quán Thế Âm là nghe lại Tánh nghe, không chạy theo thanh trần tức là giác. Đó là ý nghĩa thâm trầm trong kinh. Nhiều khi chúng ta chờ tai nạn xảy ra mới niệm, mà không nhớ niệm hằng ngày. Muốn hết sân, hết hận, chúng ta phải nhớ như vậy để hằng ngày, hằng đêm dừng được bao nhiêu trận gió đen. Tỉnh giác kịp rồi thì tai nạn không đến với chúng ta, còn không tỉnh giác kịp thì thế nào rồi cũng bị quỉ xé thây. Chắc chắn như vậy không nghi. Đường lối rõ ràng như thế. Trên đây chỉ là ý nghĩa cạn của mùa Xuân Di-lặc thôi.
Đến ý nghĩa sâu hơn của mùa Xuân Di-lặc tức là mùa Xuân bất diệt mùa Xuân miên viễn. Nói đến đức Di-lặc là nói đến đức Phật sẽ thành. Đức Phật Thích-ca xác nhận rằng Ngài là Phật đã thành, còn tất cả chúng ta là Phật sẽ thành, như đức Phật Di-lặc vậy.
Phật sẽ thành là Phật ở chính nơi chúng ta, nhưng vì mình bỏ quên nên không nhận ra, như có viên ngọc quí mà không biết, cứ lo hỏi viên ngọc của đức Địa Tạng cầm trong tay. Có mà không chịu nhận là dối gạt thiên hạ.
Chúng ta còn quá lầm mê, không tự tỉnh giác nên bỏ quên ông Phật của chính mình, vì vậy phải lăn lộn trong luân hồi sanh tử. Sanh tử là biến chuyển sanh diệt, là vô thường, gốc của khổ đau. Còn luân hồi là còn khổ đau, muốn ra khỏi khổ đau thì phải thoát khỏi luân hồi sanh diệt. Đó mới là miên viễn, là bất diệt, là an vui cứu kính của con người.
Chúng ta đang sống trong vô thường sanh diệt nên luôn luôn bị bức bách ép ngặt. Thoát khỏi vô thường bức bách thì tự nhiên chúng ta an vui giải thoát.
Nói cách khác, thoát khỏi luân hồi sanh tử là sống với cái vô sanh an lạc. Vì vô sanh nên không bị dao động, hằng tỉnh táo an lạc, đó là niềm vui chân thật cũng là mùa Xuân Di-lặc bất diệt, miên viễn, mùa Xuân của Bản tâm thanh tịnh ở mỗi người. Chính đây là chỗ khao khát, ước mơ của chúng ta. Trong kinh gọi đó là Niết-bàn, an lạc tịch tĩnh. Còn hiện tại mùa Xuân của chúng ta chỉ là mùa Xuân sanh diệt, đến rồi đi qua rồi mất.
Giờ đây làm sao chúng ta hưởng được mùa Xuân bất diệt, mùa Xuân mà chính mình mong muốn? Muốn hưởng mùa Xuân bất diệt thì chúng ta phải sống với tâm bất diệt, còn tâm sanh diệt thì không bao giờ hưởng được. Trong kinh Kim Cang đức Phật dạy: “Tâm quá khứ không thể được, tâm hiện tại không thể được, tâm vị lai không thể được.” Tâm chạy theo quá khứ, hiện tại, vị lai là tâm sanh diệt. Đức Phật nói tâm đó không thể được vì nó không thật. Chúng ta đang sống với tâm nào? Với tâm quá khứ hiện tại vị lai. Tại sao tâm quá khứ không thể được? Như trước giờ nằm ngủ, chúng ta gác tay lên trán, nhớ chuyện năm ngoái năm xưa, tháng rồi tháng trước, không chịu buông, một hồi không ngủ được rồi than tôi mất ngủ. Đó là chưa kể có nhiều cuốn nhật ký đầy ắp bút tích kỷ niệm. Vì sợ ký ức nhớ không hết nên phải ghi thêm nhật ký để mai mốt có quên thì lật lại. Cái đó thuộc về quá khứ, mà quá khứ qua rồi đâu tìm lại được! Càng nghĩ càng rối cho mình thôi, nó đâu có thật mà nghĩ. Vậy mà hết một phần ba đời người chúng ta sống về quá khứ.
Còn những người trẻ thì sao? Sống với vị lai. Nghĩ bây giờ mình nhỏ quá, chưa làm được việc gì đáng kể rồi mong ước sau này mình sẽ như thế này như thế kia. Cũng mất hết phần ba cuộc đời.
Rồi một phần ba cuộc đời về sống về hiện tại. Hiện tại mà không hiện tại gì hết, nghĩa là hiện tại đầy ắp niệm tưởng suy nghĩ tính toán là khen, là chê, việc phải việc quấy. Niệm này hết thì niệm kia sanh. Cứ như vậy liên miên sanh diệt thì hiện tại đâu có.
Thế nên nghĩ đến quá khứ thì quá khứ là chuyện đã qua, nghĩ lại cái không có, cái nghĩ đó cũng là không. Cho nên quá khứ không thể được. Hiện tại hết nghĩ cái này tới cái khác, trong một ngày nghĩ không biết bao nhiêu thứ. Đó là tâm suy nghĩ sanh diệt nên không thể được. Vị lai chưa đến mà cứ phóng đại cái này cái nọ. Ngồi đó mà tưởng tượng đủ thứ. Cái chưa đến mà tưởng cũng là không tưởng, nên cũng không được luôn. Như vậy quá khứ hiện tại vị lai, ba thời đều không được. Chúng ta sống với ba cái đó là sống với cái hão huyền, không thực tế. Kiểm lại xem một ngày sống của chúng ta như thế nào?
Có chạy theo ba thời đó hay không? Nếu cả ngày sống với tâm chạy theo đó thì chúng ta đã mất tâm rồi. Gọi là tâm mà thật sự tâm đã mất. Sống với tâm sanh diệt thì có gì thật đâu. Hằng ngày chúng ta nói sống cho mình mà thật đã mất mình. Chỉ sống với ba cái tâm chết rất là đáng thương. Ba cái không có đó mà ráp lại thành cái có để sống, tuy nói sống mà thật ra không sống gì hết. Có gì mà hãnh diện.
Như vậy phải làm sao? Tôi nhắc lại muốn hưởng mùa Xuân bất diệt thì tâm mình cũng phải bất diệt. Mà muốn bất diệt thì phải bất sanh, tức không chạy theo cái sanh diệt thì tâm mình lặng lẽ thanh tịnh.
Thiền sư Thiền Lão diễn tả điều này rất rõ. Khi vua Lý Nhân Tông vào núi gặp Ngài, hỏi: Hòa thượng bao nhiêu tuổi? Ngài đáp:
Đản tri kim nhật nguyệt
Thùy thức cựu xuân thu.
Nghĩa là chỉ biết ngày nay thôi, còn bao nhiêu năm trước ai đâu nhớ. Như vậy Ngài không sống với tâm quá khứ, chỉ biết có ngày nay. Sống với ngày nay đó là sống với tâm lặng lẽ hiện tiền. Vua Lý Nhân Tông hỏi tiếp: Hòa thượng ở đây làm gì? Ngài trả lời:
Thúy trúc hoàng hoa phi ngoại cảnh
Bạch vân minh nguyệt lộ toàn chân.
Nghĩa là trúc biếc hoa vàng đều là cảnh chân thật, trăng trong mây bạc đều hiện chân thể hoàn toàn. Như vậy những gì hiện bày trước mắt Ngài đều là mùa Xuân miên viễn. Sống như thế mới thật là sống. Còn chúng ta hiện nay sống mà không thật sống. Chỉ khi nào không chạy theo cái suy tính phân biệt, sống với tâm thanh tịnh thản nhiên đó mới gọi là sống ngày nay biết ngày nay. Với tâm thanh thản lặng lẽ, nhìn muôn vật hiện có trước mắt đều là một màu chân thật, như như, không sanh không diệt, đó mới là mùa Xuân miên viễn, bất diệt, nhìn đâu cũng nên thơ, không thấy có lò lửa địa ngục, để than trách như chúng ta bây giờ. Thấy hoa cúc, thấy trăng, thấy mây, thấy cái gì cũng đều là Xuân rạng rỡ. Các Thiền sư nhìn đâu cũng thấy một mùa Xuân tràn trề, không cần tìm kiếm, không cần chờ đến tháng giêng mới có mùa Xuân.
Đức Di-lặc đã hưởng mùa Xuân đó rồi, cho nên Ngài cười hoài. Chúng ta tu hành cốt làm sao hưởng được mùa Xuân như thế, mùa Xuân thú vị, đẹp đẽ nhất mà người xưa đã hưởng.
Để kết thúc, tôi dẫn thêm Thiền sư Thiên Tùng, trong ngày đầu năm Ngài làm thơ dạy chúng, tựa là Tuế Triêu.
Kim tiêu tận đạo thiêm nhất tuế
Ngô đạo như kim giảm nhất niên
Tăng giảm khứ lai vô định số
Duy năng tiêu tận thế gian duyên
Tất tu thức đắc duyên trung chủ
Bách thiên vạn kiếp thường như nhiên
Vô tăng vô giảm như hà đạo
Nhất cú hà tu dụng khẩu truyền.
Dịch:
Sáng nay đều nói thêm một tuổi
Tôi bảo hôm nay bớt một năm
Thêm bớt lại qua số khôn tính
Chỉ hay dứt sạch duyên thế gian
Cốt là trong duyên biết được chủ
Trăm ngàn ức kiếp thường như nhiên
Không bớt không thêm làm sao nói
Một câu nào thiết dùng miệng truyền.
Ngài Thiên Tùng giải thích quá rõ ràng. Đến ngày mồng một Tết chúng ta đều nói chúc thầy cô thêm một tuổi thọ, chớ có ai chúc thầy cô mất một tuổi thọ đâu. Quả thật chúng ta đã mất một năm rồi. Nếu tuổi thọ chúng ta là sáu mươi, năm rồi năm mươi ba, năm nay năm mươi bốn, thì tuổi thọ đã bớt đi một năm. Qua một năm là bớt, tại sao lại nói thêm? Người đời chỉ nghĩ theo chiều thêm mà quên nghĩa bớt. Vì vậy Ngài nói “sáng nay đều nói thêm một tuổi, tôi bảo hôm nay bớt một năm”. Rõ ràng như vậy, nhưng có ai gan dạ thấy thế đâu. “Thêm bớt lại qua số khôn tính” là thêm bớt qua lại số không nhất định, nói thêm cũng được, nói bớt cũng được. Tính theo chiều sáu mươi để trừ lại thì thấy bớt, theo chiều năm mươi mấy cộng lại thì thấy thêm. Vì có cộng có trừ nên có thêm có bớt. Thật ra không biết nói thế nào cho đúng, nên Ngài nói con số không nhất định. Điều quan trọng là “chỉ hay dứt sạch duyên thế gian” tức là chỉ người tiêu sạch duyên thế gian giống như người tiêu chảy sạch hết, bụng trống rỗng. Nhưng chưa đủ còn phải thêm “cốt là trong duyên biết được chủ” tức là cần phải biết được Ông chủ trong các duyên đó, biết Ông chủ mới là điều tối thiết yếu. “Trăm ngàn ức kiếp thường như nhiên” tức biết được Ông chủ rồi thì trăm ngàn muôn kiếp đều như vậy. Chính đó là mùa Xuân bất diệt. Tất cả quá khứ hiện tại vị lai đều không biến chuyển. “Không bớt không thêm làm sao nói”, Ông chủ đó trăm ngàn muôn kiếp vẫn như nhiên, không thêm cũng không bớt. Thế gian có thêm có bớt nên nói được, còn đến chỗ không thêm không bớt thì nói cái gì? “Một câu nào thiết dùng miệng truyền”, một câu duy nhất đó đâu cần dùng miệng nói với nhau. Chỉ người nhận được, thấy được, sống được thì hưởng được mùa Xuân bất diệt. Chớ dùng lời thì nói không đến.
Thế nên đầu năm nay tôi không biết chúc câu gì, chỉ tạm chúc quí vị một mùa Xuân Di-lặc tùy theo nhận thức của mỗi người. Ráng hưởng cho được, đừng để ba tháng Xuân mất rồi tới Thu tới Đông, lại trông đến Xuân nữa, cực lắm. Phải luôn luôn hưởng mùa Xuân Di-lặc, lúc nào cũng là Xuân, dù sống trong cảnh nào gặp nhau chúng ta cũng cười. Như vậy là hạnh phúc ngay ở trần gian.
CÁI GÌ RỒI CŨNG ĐẾN,
ĐẾN RỒI QUA, QUA RỒI MẤT
Tất niên Kỷ Mùi - 1980
Ngày Tất niên năm nay, tôi nói một đề tài hết sức bình dân Cái gì rồi cũng đến, đến rồi qua, qua rồi mất.
Tất cả chúng ta ai cũng như ai, sáng sớm thức dậy, nhớ đây là sáng, nghĩ đến chiều thấy như xa. Nhưng rồi lụi hụi làm vài công tác là đến trưa, sau bữa cơm trưa loanh quanh đến chiều, rồi tối. Như vậy nhìn từ sáng đến chiều dường như xa, cái xa đó rồi cũng đến, đến rồi qua. Sáng hôm sau tìm lại ngày hôm qua đã mất. Mồng một chúng ta thấy cuối tháng dường như xa, nhưng loanh quanh tới rằm rồi tới ba mươi. Như vậy, ngày ba mươi thấy xa, nhưng rồi cũng đến, đến rồi qua, qua rồi mất. Đầu năm chúng ta nghĩ đến cuối năm thấy thời gian dường như rất dài, nhưng ngày qua ngày cuối năm cũng đến. Ngày cuối năm rồi sẽ qua, qua rồi mất. Đó là nói về thời gian.
Một ngày sáng trưa chiều tối, khi đã qua rồi không còn trở lại với chúng ta nữa. Nhưng trong ngày đó, nếu chúng ta đóng một cái bàn, trồng một luống rau, hoặc viết một trang sách, việc chúng ta làm vẫn còn. Một ngày qua, chúng ta đã làm cho nhiều người buồn, giận, dù ngày đó qua mất, hôm sau gặp lại những người ấy, họ có hết buồn chưa? Như vậy thời gian qua rồi mất không bao giờ trở lại, nhưng những gì chúng ta đã làm chưa mất hẳn, nó còn có mặt với chúng ta ở ngày mai. Nếu muốn ngày mai ai gặp chúng ta cũng vui vẻ, thân mật, thì hôm nay chúng ta phải làm sao? Nếu gặp người nào chúng ta cũng thách đố, mắng chửi, thì ngày mai khi gặp lại họ chúng ta sẽ thế nào?
Chúng ta đâu cần hỏi xem ngày mai tốt hay xấu, được nhiều người thương hay không? Chỉ cần nhớ ngày qua ta đã làm gì cho người, thì hôm nay những điều đó tự nhiên sẽ đến với chúng ta. Đó là một lẽ thật mà thế gian không chịu nhớ. Ngày hôm qua chửi người ta, mà ngày nay gặp lại muốn ai cũng vui vẻ với mình. Thật không bao giờ có. Chuyện một ngày như thế, chuyện một năm cũng vậy.
Nếu một năm chúng ta làm toàn những điều dở, điều xấu, rồi đến đầu năm lại đem ít tiền, nhang đèn, bánh trái tới chùa, cúng sao cúng hạn để cho trọn năm được bình an, sung sướng thì có được không? Tại sao chúng ta không đem sự an vui đến cho mình cho người, lại làm những điều xấu xa rồi hoảng sợ, cầu cạnh mong mỏi không muốn gặp đau khổ. Chúng ta không cố tránh nhân đau khổ lại mong khỏi quả đau khổ, thì không thể được.
Như vậy một năm qua nếu ngày nào chúng ta cũng làm cho người xung quanh được vui vẻ, ngày nào cũng giúp đỡ, đem lại sự an ổn cho mọi người thì năm tới những người ấy không thể nào trở nên thù địch muốn hại chúng ta được. Nếu qua một năm chúng ta được cảm tình, được thương mến thì năm tới chúng ta sẽ gặp điều tốt. Giả sử chúng ta bị bệnh hoặc gặp một bất hạnh nào, thì những người sẵn có cảm tình với chúng ta, có thể người thì lo thuốc men, kẻ thì mách bảo thầy, hoặc giúp đỡ gia quyến chúng ta trong lúc khó khăn, gánh vác những việc nặng nhọc giúp chúng ta. Những cái không may cho bản thân chúng ta không phải là không đến, nhưng khi được mọi người mến yêu, thì những bất hạnh cũng được nhẹ đi đôi phần.
Ngược lại, nếu trong một năm chúng ta gây toàn thù hận ác cảm, phiền toái phức tạp cho mọi người thì năm tới, dù không nói ai cũng biết, chỉ thấy toàn khổ đau và bực bội. Như vậy mỗi người chúng ta phải làm gì để sang năm mới gặp những điều tốt đẹp, chớ không thể mặc tình làm gì thì làm, rồi đợi đến đầu năm đi cúng sao cúng hạn để được một năm bình an. Chúng ta là những người biết đạo, biết lẽ thật, không chấp nhận những gì huyền hoặc không đâu. Nếu năm rồi chúng ta làm những gì tốt đẹp hay xấu xa thì năm tới chúng ta phải chịu một phần ảnh hưởng chớ không thể nào tránh khỏi. Đó là điều mà mọi người chúng ta đều ý thức được.
Lẽ thật của một ngày, một năm, đến cả một đời không khác nhau. Chúng ta biết được một ngày thì có thể biết được một năm, biết được một năm thì có thể biết được một đời. Nếu một đời tạo toàn những điều tốt lành, thì đời sau chúng ta trở lại, cũng trong hoàn cảnh tốt lành. Nếu một đời chúng ta gây toàn đau khổ, phiền hận, thì sau này tránh đâu cho khỏi phiền hận khổ đau. Cho nên chúng ta phải lợi dụng thời gian để tạo những tốt đẹp cho mình cho người, đó chính là sự bảo đảm an ổn vui vẻ cho chúng ta trong năm tới, và cho cả đời sau nữa.
Bằng không chúng ta sẽ hối hận vì đã để cuộc đời trôi qua một cách vô ích. Nói đến thời gian trôi qua rồi mất, tôi có thể tượng trưng thời gian là một xâu chuỗi, một ngày qua là một hạt chuỗi, chúng ta cứ lần, hạt này đến hạt khác, tay còn lần chuỗi thì không hạt nào dừng lại. Tràng chuỗi này không phải là một trăm lẻ tám mà là ba trăm sáu mươi lăm hạt. Như vậy năm này ngày này chúng ta đã lần hết ba trăm sáu mươi lăm hạt tức là đã qua một năm rồi.
Để rõ hơn tôi kể lại trường hợp của những người gần gũi tôi nhất. Như mẹ tôi chỉ lần được năm mươi sáu tràng rồi buông tay, chuỗi mất mà người cũng mất. Cha tôi chỉ lần được bảy mươi chín tràng rồi buông tay, chuỗi mất người cũng mất. Thầy tôi chỉ lần được năm mươi lăm tràng rồi buông tay, chuỗi mất người cũng mất. Sư ông tôi chỉ lần được sáu mươi mốt tràng rồi buông tay, chuỗi và người tìm lại không được nữa. Rồi đến phiên tôi, tôi chưa biết lần được mấy chục tràng!
Mỗi xâu chuỗi lần qua rồi mất, mất cả chuỗi lẫn người lần chuỗi. Xâu chuỗi đó gọi là xâu chuỗi mộng. Người lần chuỗi cũng là người mộng. Chuỗi mộng mất, người mộng không còn. Tất cả mọi người đang sống trong mộng mà không ai biết nên tranh nhau từ lời nói, hành động, đến miếng ăn, cái mặc, rồi dồn đau khổ cho nhau. Cuộc đời là mộng, mà không đánh thức cảnh tỉnh nhau, lại gây thêm đau khổ. Tự mình đã khổ, còn làm khổ cho người, thật là đáng thương!
Thời gian đã là mộng ảo, cuộc đời cũng là mộng ảo. Người trước, người đồng thời và cả bản thân chúng ta đều là mộng. Tại sao chúng ta không thức giấc mộng đó mà cứ hết mộng này tạo mộng khác, mộng mộng chập chùng? Nếu người nằm mộng khi tỉnh dậy, biết những hình ảnh, người, vật đã thấy chỉ là mộng. Biết như vậy rồi, giấc mộng đó không còn.
Tuy nhiên có người tỉnh rồi mà lại mộng nữa. Như ta đang ngủ, nằm mơ giật mình thức dậy biết hồi nãy là mộng, nhưng cứ nhắm mắt ngủ nữa. Mộng thứ nhất mất, mộng thứ hai tiếp, mộng thứ ba và nhiều mộng nữa. Chúng ta phải gan dạ, khi tỉnh mộng liền trỗi dậy đốt đèn lên, hoặc tọa thiền làm việc, thì không còn mộng nào tiếp nối. Nếu chúng ta biết là mộng mà cứ nằm dài nhắm mắt thì hết mộng này đến mộng kia, không phải tỉnh một cơn mộng là hết mộng.
Chúng ta nhận thức rõ ràng cuộc đời là ảo mộng, vì như tôi đã nói, đầu năm thấy cuối năm là xa, nhưng rồi cuối năm cũng sẽ đến. Rồi ngày mai nó qua, qua rồi mất. Đến cuối năm khác cũng qua rồi mất. Ông bà, cha mẹ chúng ta sống đó rồi mất đó, khi mất đi chúng ta không thấy hình bóng thân yêu đó trở lại. Đến lượt chúng ta, hiện có đây, nhưng rồi ngày đó sẽ đến với chúng ta, không còn xa nữa. Đến rồi qua, qua rồi mất. Sự hiện hữu của chúng ta ngày nay quả là mộng. Nếu là thật thì nó đâu bị qua, đâu bị mất. Vậy thì, trong khi chúng ta đang sống trong mộng, phải biết là mộng. Biết mộng tức là chúng ta đã tỉnh. Đó là điều thiết yếu của cuộc đời mà cũng chính là then chốt trong sự tu hành của chúng ta. Người xưa nói:
Tại mộng na tri mộng thị hư
Tỉnh lai phương giác mộng trung vô
Mê thời kháp tợ mộng trung sự
Giác liễu hoàn đồng thùy khởi phu.
Đang trong mộng ai biết mộng là hư dối. Như chúng ta bây giờ làm sao nói là hư dối được.
Tỉnh rồi mới biết rõ việc trong mộng là không.
Khi mê thấy thân cảnh là thật, cũng như trong mộng thấy mọi sự đều thật.
Giác ngộ rồi cũng giống như người ngủ đã thức giấc vậy thôi.
Người xưa đã nhắc nhở chúng ta biết rõ mình đang sống trong mộng. Nếu biết như thế thì đó là tỉnh cơn mộng, còn cho cảnh và người là thật, đó là mình đang say mê trong mộng. Như vậy biết rõ mộng là hư dối, không thật thì hoàn toàn thức tỉnh, tự nhiên chúng ta thoát khỏi cơn mộng. Mê và giác không xa, chẳng khác nào người ngủ mê và thức giấc. Chúng ta học đạo giác ngộ thì mỗi năm, mỗi ngày, mỗi lúc đều phải tỉnh giác, đừng để cơn mộng lôi kéo mà phải chịu khổ đau phiền muộn.
Thiền sư hiệu là Hổ Khưu Thiệu Long cũng nói về mộng:
Thoát thân dĩ hiểu Nam Kha mộng
Thử giác nhân gian vạn sự không
Xuy khứ hoàn hương vô không địch
Tịch dương tà chiếu bích vân hồng.
Câu đầu Ngài nói, khi mình thoát thân, tức là thoát khỏi mê chấp về thân, thì mới hiểu rằng cuộc đời là một giấc mộng, giấc Nam Kha mà thôi. Câu kế Ngài nói tất cả nhân gian này muôn việc trở về không, có đó rồi mất đó, không lâu dài không bền chắc. Biết rõ nhân gian vạn sự không, thì chúng ta làm gì đây? Chúng ta thành không luôn sao? Không phải như vậy. Ngài nói tiếp: Thổi lên khúc nhạc hoàn hương bằng ống sáo không lỗ. Nghe lạ tai quá, sáo không lỗ làm sao mà thổi? Đã biết cuộc đời là mộng là không thì chúng ta nên trở về quê, trở về cố hương mà lâu rồi chúng ta đã bỏ quên. Trở về bằng cách nào? Bằng khúc nhạc hoàn hương thổi từ ống sáo không lỗ. Đó là tiếng sáo của nhà Thiền, như bao nhiêu tiếng hét, bao nhiêu câu nói của Thiền sư. Nói mà không lưu dấu vết, không cho chấp nê.
Câu cuối là hình ảnh ánh nắng chiều xuyên qua những đám mây xanh biến thành ráng đỏ, một cảnh trời chiều đẹp vô cùng.
Qua bốn câu thơ đó, Thiền sư muốn nói gì với chúng ta?
Trước hết phải thấy cuộc đời là giấc mộng Nam Kha. Sau đó thấy thế gian muôn sự đều trở về không. Đó là bước đầu để chúng ta trở về quê hương cũ. Nếu chúng ta biết trở về quê hương cũ, thì vạn vật trở nên tươi đẹp, hạnh phúc an lành sẽ đến với chúng ta.
NHỮNG CÁI VUI TRONG ĐẠO PHẬT
Xuân Canh Thân - 1980
Trong nhà Phật ngày mồng một là ngày vía đức Di-lặc. Đức Di-lặc hiện tại là một vị Bồ-tát, nhưng mà tương lai sẽ là Phật. Cho nên khi nãy chúng ta lễ Ngài là “Đương lai hạ sanh Di-lặc Tôn Phật”. Chúng tôi gọi Ngài là Phật, vì là một vị Phật sẽ đến, sẽ thành, còn gọi Ngài là Bồ-tát vì là vị Bồ-tát hiện tại. Phần nhiều ở chùa đến ngày này đều cử lễ vía Ngài. Đó là một thông lệ nhưng mang nhiều ý nghĩa quan trọng. Người thế gian ai cũng quan trọng ngày đầu năm, cho đó là ngày chứa đựng đầy đủ ý nghĩa trong một năm. Vì vậy mọi hành động, ngôn ngữ ý niệm đều được dè dặt, dè dặt từ cử chỉ lời nói, việc làm, để giữ gìn một năm đầy tốt đẹp.
Ở đây trong nhà Phật, chúng ta gọi ngày đầu năm là ngày vía đức Di-lặc. Ngài là hình ảnh đẹp đẽ vui tươi mà ai cũng đều nhớ đều thấy. Nhìn gương mặt của Ngài, bao giờ cũng thấy Ngài nở một nụ cười, gọi là nụ cười Di-lặc. Nụ cười đó không bị thời gian giới hạn. Lúc nào quí vị nhìn thấy tượng Ngài đều là cười. Thuở bé quí vị thấy Ngài cười, đến già cũng thấy Ngài cười, cho đến chúng ta tắt thở cũng thấy Ngài cười. Nụ cười đó là nụ cười Di-lặc.
Đáng lý đề tài chúng tôi nói chuyện hôm nay lấy tên là “Nụ cười Di-lặc”, nhưng nói như vậy thì sợ e nó khuôn trong một hình thức nhỏ. Cho nên chúng tôi chọn đề tài tương xứng với ngày đầu Xuân, tức là ngày vui của dân tộc, của mọi cá nhân, cũng là ngày vui trong đạo, tức là ngày đón mừng một vị Bồ-tát sắp thành Phật ở mai sau.
Đón mừng Bồ-tát Di-lặc, một vị sẽ thành Phật, đó là hình ảnh bên ngoài. Còn hình ảnh bên trong tức là đón mừng những người Phật tử, những người con Phật mai kia cũng sẽ thành Phật. Đó là hi vọng tràn trề chứa đựng bao nhiêu cái đẹp đẽ của tương lai. Cho nên ngày đầu Xuân cũng là ngày vui của chúng ta, cũng là một ngày hứa hẹn chúng ta sẽ toàn giác thành Phật. Vì vậy đề tài hôm nay là Những cái vui trong đạo Phật. Nó hơi tầm thường một chút, nhưng nó rộng rãi để quí vị nghe cho rõ.
Người đời có quan niệm rằng đạo Phật chán đời yếm thế làm gì có cái vui. Không ngờ trong đạo Phật chứa tràn trề niềm vui, những niềm vui đó phát xuất từ cạn đến sâu.
1- Cái vui của người Phật tử đến chùa là tập cái vui “tùy hỉ”, hỉ là mừng, tùy là theo. Khi chúng ta nhìn thấy một người bạn hay một kẻ thân làm một điều lành, một việc phải thì chúng ta phát tâm vui theo. Người làm vui năm, chúng ta cũng vui được năm; người làm vui mười, chúng ta cũng vui mười. Vui theo việc làm lành làm phải của người bạn người thân, cho đến những người đồng đạo của chúng ta. Chúng ta phát được niềm vui đó, thì công đức cũng bằng của người làm việc phải, việc thiện. Nói như vậy quí vị không khỏi nghi ngờ. Thí dụ: Người ta đem mười đồng bạc tới chùa cúng Tăng hay cúng Tam Bảo, mình không có đồng xu nào hết, thấy người ta cúng Tam Bảo họ vui, mình cũng vui theo, thì công đức của người cúng mười đồng với công đức của người vui theo bằng nhau. Mới nghe qua như bất công bằng vì mình không tốn một xu nào mà lại công đức bằng. Nhưng đức Phật nói công đức bằng nhau. Có người hỏi: Bạch Thế Tôn, tại sao công đức tùy hỉ và công đức bố thí lại bằng nhau? Phật trả lời: Như một ngọn đèn, hay một cây đuốc đang cháy, có người cầm cây đuốc đến mồi. Khi mồi xong, cây đuốc này cháy, cây đuốc kia cháy, thử hỏi ánh sáng hai cây đuốc có thua nhau không? Cây đuốc bị mồi có mất ánh sáng không? Phật nói: Cũng vậy, người làm việc lành việc thiện, chính họ đã có công đức rồi. Người kia phát tâm tùy hỉ vui theo việc lành, việc thiện đó, công đức cũng ngang bằng với người làm lành làm thiện. Như vậy tốt quá, nhẹ nhàng quá, lựa là chúng ta có nhiều tiền mới làm việc công đức. Ai làm việc công đức chúng ta tùy hỉ tán dương thì chúng ta có công đức ngang bằng rồi.
Tại sao tùy hỉ có công đức lớn như vậy?
Người có của đem ra bố thí hay là có công đem ra giúp người, đó là họ xả được cái tâm ích kỷ, tham lam của họ để làm việc bố thí, làm việc cúng dường, làm việc cứu giúp. Còn người phát tâm tùy hỉ thì xả được cái tâm tật đố, vì thông thường thế gian thấy người ta làm cái gì hơn mình thì sanh tật đố.
Thí dụ hai huynh đệ đi chùa, người kia có mười đồng cúng, mình không có, thì cảm thấy buồn, rồi nói móc nói ngoéo, chớ không bao giờ có tâm tùy hỉ vui theo. Thấy người ta làm, mình làm không được thì có cái đố kỵ. Đó là tâm xấu. Bây giờ chúng ta phát tâm tùy hỉ là dẹp được cái tâm tật đố.
Người bố thí xả được cái tâm tham lam ích kỷ, người tùy hỉ xả được cái tâm tật đố, thì hai người công đức bằng nhau. Nhưng ở thế gian, chúng ta hằng thấy, cho đến em ruột trong nhà, khi thấy người anh làm được nhiều của giàu, còn mình không có của nghèo, thì tự nhiên có mặc cảm đố kỵ với anh rồi. Vì vậy tình anh em có hơi xa cách. Vì sao? Bởi cái tâm tật đố không muốn ai hơn mình. Thấy người hơn mình là sanh tâm đố kỵ. Đó là thông bệnh của con người. Cho nên ở đây chúng ta học đạo phải tập cái tâm tùy hỉ. Không phải đợi làm việc công đức mới tùy hỉ, mà thấy ai làm được cái gì an vui, hạnh phúc tốt đẹp, chúng ta đều tùy hỉ hết.
Một thí dụ nữa. Chúng ta nghèo ăn cơm hẩm với muối hột, người bạn chúng ta giàu, ăn cơm gạo lúa thơm, thịt cá đầy bàn. Thấy như vậy chúng ta vẫn tùy hỉ bảo: “Anh sung sướng quá, tôi mừng cho anh được đầy đủ sung túc.” Thấy mình tùy hỉ, người bạn giàu đó ghét mình không? Không ghét mà thương, có thể còn giúp đỡ mình nữa. Nhưng mà ở đời người ta chịu làm vậy không? Hay là nếu mình ăn cơm hẩm muối cục, bạn mình ăn cơm gạo lúa thơm, cá thịt đầy bàn, thì tự nhiên thấy không vui, rồi kiếm chuyện nói móc nói ngoéo. Do đó tình bạn bè tự nhiên xa cách. Mình đố kỵ người ta, người ta thương mình sao được. Từ cái đó mà sanh ra ngăn cách. Bạn trở thành thù, bởi đố kỵ mà ra. Từ hoàn cảnh ăn ở, cách xử sự, cho đến làm việc thiện v.v... tất cả chúng ta đều nên tập cái tâm tùy hỉ. Có người làm được việc mà chúng ta không đủ khả năng làm, chúng ta nên mừng theo.
Một thí dụ khác. Hồi thuở bé, chúng ta đi học ở trường, khi thầy giáo cô giáo kêu trả bài, hôm nào mình không thuộc bài bị điểm nhỏ, nếu bạn mình thuộc bài được điểm lớn thì mình có thương người được điểm lớn hay không? Mình lười biếng không học, nên thua người ta, người ta siêng học được điểm lớn, tại sao mình lại buồn ghét, lại đố kỵ.
Hoặc giả, trong đám học trò, đến cuối năm những đứa học giỏi được khen thưởng, được những món quà, còn mình là kẻ học dở đứng hạng chót, nhưng khi thấy người ta lãnh quà, thì mình có vui lây không? Hay là thấy ghét rồi kiếm chuyện này chuyện kia để thách đố. Cái tâm đó có từ thuở bé, chớ không phải bây giờ mới có. Chúng ta mang sẵn nó từ thơ ấu. Giờ đây biết tu chúng ta bỏ cái tật đó, nó tương đương với tham lam. Tham lam có thì tật đố cũng có. Người biết làm lành làm phước, họ xả được lòng tham, chúng ta biết tùy hỉ, thì bỏ được tâm tật đố. Như vậy cả hai đều bỏ được một tật cho nên đức Phật nói: “Công đức ngang nhau.”
Như vậy, mai mốt đi chùa, hai huynh đệ, người này có món đồ cúng Phật, cúng Tăng, mình không có mình cũng vui theo, mừng cho bạn có tiền để cúng chùa. Như vậy cả hai công đức đều như nhau. Đừng nghĩ mình nghèo không có gì cúng mà không muốn đi chung nữa. Đừng nghĩ như vậy, đó là trái với đạo lý. Hiểu ứng dụng cho đúng thì chúng ta mới thấy Phật pháp công bằng, không thiên người giàu, không bỏ người nghèo. Ai cũng có phước hết, chỉ cần có tâm lành, tâm thiện là được. Đó là cái vui nhỏ đầu tiên của người vào đạo.
Trong gia đình, anh em chúng ta ai giàu ai khá, ai được cái gì tốt hạnh phúc, chúng ta đều vui mừng như chính chúng ta được. Ngoài xã hội từ bạn bè cho đến mọi người, ai được cái gì hay cái gì tốt, cái gì sung sướng, chúng ta vui mừng như chính chúng ta được. Rồi đến trong đạo, huynh đệ chúng ta có cái gì hay cái gì tốt, chúng ta vui mừng như chính chúng ta được. Nếu được như vậy, chúng ta còn khổ hay không? Tự nhiên là vui rồi, lúc nào cũng có niềm vui, vui theo cái vui của người. Chúng ta không bị tật đố làm cho cách biệt, làm cho buồn bực, không để đố kỵ làm mất tình anh em ruột thịt trong nhà, mất cả bạn bè ngoài xã hội và mất cả tình đạo ở trong chùa. Được như vậy đi đến đâu chúng ta cũng có niềm vui, dù tay không, không giúp ai được cái gì. Trái lại mình nghèo mặc áo rách, thấy người ta mặc áo lành thì xụ mặt xuống rồi bươi móc. Như vậy làm gì có vui. Đi đâu cũng buồn hết vì thấy những người khác hơn mình. Cái buồn đó nó tràn trề, vì ở đời làm sao mình bằng tất cả được. Bây giờ chúng ta biết tùy hỉ, thấy ai có cái gì đẹp cái gì hơn, chúng ta đều vui hết, mừng cho họ. Tâm niệm của người Phật tử phải là tâm niệm làm cho mọi người hết khổ. Phật là vị cứu khổ chúng sanh, chúng ta đã là Phật tử, tức con Phật chúng ta phải mang cái quan niệm làm cho chúng sanh hết khổ. Nếu chưa hết khổ, ít ra cũng bớt khổ. Thấy một người bớt khổ về sự ăn, sự mặc, hoặc bớt khổ về cái gì, miễn thấy họ bớt khổ là chúng ta mừng. Nếu chúng ta đố kỵ là không phải con Phật rồi. Vì vậy muốn được niềm vui đầu tiên, chúng ta phải tập phát tâm tùy hỉ. Ai có điều gì hay, cái gì tốt mình đều vui theo chớ không đố kỵ. Đó là cái vui thứ nhất của người vào đạo.
2- Đến cái vui thứ hai sâu hơn, tế nhị hơn là cái vui “hỉ xả”. Hỉ là mừng, xả là buông bỏ.
Hỉ xả có hai mặt:
- Hỉ xả những tài vật bên ngoài.
- Hỉ xả những chấp chứa trong lòng.
Nếu chúng ta có tài vật dư dả, lúc nào cũng nên vui vẻ xả giúp cho những người thiếu đói bần cùng. Cái của mình làm do mồ hôi nước mắt mình tạo, mà mình cảm thấy no đủ hay dư rồi thì vui xả cho những người thiếu hay những người ít oi hơn. Đó là hỉ xả những vật bên ngoài. Cái đó chắc dễ, phải vậy không? Đó là cái xả bên ngoài. Tuy vậy cũng hơi khó làm, vì có nhiều người, kẻ khác thấy họ dư mà bản thân họ lại thấy thiếu. Có một đồng muốn hai đồng, có hai đồng muốn mười đồng, có mười đồng muốn ba mươi đồng, muốn cho đến ngày tắt thở mà vẫn chưa đủ. Như vậy làm sao xả được. Cho nên muốn có cái xả đó chúng ta phải học Phật. Phật dạy chúng ta tri túc, tức biết đủ. Chúng ta biết đủ thì mới xả được. Trong nhà Phật nói: “Người không biết đủ thì như cái túi không đáy.” Bỏ vào bao nhiêu nó tuột xuống hết bấy nhiêu. Dù bỏ bao nhiêu cũng không đầy vì cái bệnh không biết đủ, như vậy thì làm sao mà xả.
Thí dụ: Mỗi ngày buổi trưa chúng ta ăn ba chén cơm, dù bữa nào có đồ ăn ngon, chúng ta cũng ăn ba chén đủ rồi. Nếu dư thì giúp cho người nào đó, hoặc nói dễ hiểu hơn cho một con vật nào đó. Dù đó là phần dư của mình, nhưng cũng là một lối xả. Chớ nên, khi ăn ba chén vừa no rồi, thấy có đồ ăn ngon, muốn ăn thêm nữa. Như vậy là phí phạm, vì cái lượng của mình chừng đó là đủ, mà mình không ưng dừng ngang đó. Đó là nói về cái ăn, còn bao nhiêu cái khác, chẳng hạn như cái mặc. Chúng ta có ba bộ đồ đủ để mặc, giả sử chúng ta có bộ thứ tư tức dư rồi nhưng mà có đủ chưa? Có bộ thứ tư thấy đủ chưa? Đến bộ thứ năm cũng chưa đủ nữa. Như vậy chừng nào mới xả được. Cho nên muốn xả thì phải biết đủ. Biết đủ mới xả được, còn không biết đủ thì không bao giờ xả được hết.
Như vậy quí vị muốn tập hỉ xả về tài sản thì quí vị phải thấy đủ và biết đủ. Cái dư đó dùng để giúp người này người nọ không một chút luyến tiếc. Đó gọi là tâm hỉ xả, vui vẻ mà giúp chớ không bị bắt buộc, không đợi ai bắt buộc hết.
Hỉ xả tuy khó nhưng còn dễ hơn cái hỉ xả này: Hỉ xả ở tâm. Nếu có người nào làm mình phiền, mình buồn nhất là người mình thường gặp mặt, mà lại làm mình buồn. Khi buồn mình có vui được không? Nếu buồn thì gương mặt lúc nào cũng dàu dàu hoặc thêm vẻ nhăn nhó nữa. Vậy, muốn cho mình hết khổ, thì tập xả, vui vẻ mà xả. Xả này là tha thứ, là bỏ qua. Mỗi khi những người chung quanh mình có làm gì phiền là mình buồn. Phiền ở đây là phiền hận, phiền não và sân hận, hai cái đang chất trong lòng mình, mình phải buông xả nó đi. Người nào còn ôm lòng phiền hận, họ sẽ đau khổ, đau khổ từ hiện tại cho đến mai kia, chớ không phải ở một giai đoạn nào thôi. Vì vậy, khi biết rằng mình đang ôm lòng phiền hận người này kẻ khác, thì mình phải vui vẻ bỏ hết, nghĩa là hỉ xả, tức là bao nhiêu cái phiền muộn đang chứa chấp trong lòng phải bỏ hết.
Tại sao chúng ta phải bỏ hết?
Muốn bỏ của cải thì chúng ta phải biết đủ. Bây giờ muốn bỏ phiền hận, phải làm sao đây? Phải có lý do gì mình mới bỏ được chứ. Chớ nói bỏ đại thì làm sao mà bỏ. Phải bỏ làm sao? Bỏ cách nào?
Muốn bỏ được sự phiền muộn trong lòng, chúng ta phải thấy cuộc đời là vô thường, là ảo mộng. Nay chết, mai chết tới nơi, ôm hận mà làm gì. Đừng giận đừng hờn để lo tu hành. Do nghĩ cái chết sắp đến mà chúng ta buông xả được hết. Ai sống đời đây mà cứ giận hoài, buồn hoài. Cái buồn cái giận đó, chỉ làm khổ mình khổ người không lợi gì hết. Biết vậy chúng ta phải buông hết. Vì cái chết đến nơi, chúng ta phải ráng để cho tâm an ổn, đừng có buồn giận ai. Nghĩ đến vô thường mà hỉ xả.
Tiến hơn nữa, chúng ta thấy cuộc đời như ảo mộng, ngày nay có mặt đây, ngày mai đã mất rồi. Sống trong tạm bợ, mình tạm bợ, người tạm bợ, mọi người đều sống trong tạm bợ. Tại sao không thương nhau, nâng đỡ nhau?
Thí dụ: Nếu chúng ta biết rằng, chúng ta là người đang sắp bị kêu án tử hình, và những người chung quanh ta cũng bị kêu án tử hình hết, trong lúc mắc bận nghĩ đến cái chết, đâu ai có thì giờ để buồn giận nhau. Giả sử trong khi lẫn lộn chung chạ nhau đó, có giẫm lên nhau, hay có làm gì phiền toái nhau, cũng bỏ qua. Phải biết rằng cái chết là trên hết, chớ ở đó lo buồn giận làm gì.
Chính cái chết, nghĩ đến cái chết, chúng ta mới thấy cuộc đời là tạm bợ, sống không có cái gì bảo đảm hết. Như vậy chúng ta còn buồn giận nhau làm gì. Hãy buông xả hết những gì chứa chấp trong lòng. Ai ở đời đây mà giận với hờn.
Quí vị đã học Phật nhiều năm rồi, vậy có tập được cái tánh buông xả đó hay chưa? Đi chùa cúng Phật mà còn giận còn hờn bạn bè anh em huynh đệ hay không? Nếu ai còn chứa phiền giận gì đó, thì ngang đây hãy nguyện đức Phật chứng minh cho để xả hết, trong bụng trống rỗng không còn gì hết. Đừng thèm giận, đừng thèm buồn ai. Dù có cái giận cái buồn đó từ mười năm hay ba mươi năm rồi, ngày nay cũng xả. Dại gì chúng ta chứa rắn độc trong nhà. Phiền hận là rắn độc, có ai muốn chứa rắn độc trong nhà đâu. Nếu chứa rắn độc trong nhà thì sớm muộn gì cũng bị nó cắn. Cho nên khi biết là rắn độc rồi, thì xả, đuổi ra khỏi nhà, không bao giờ dung nó. Đó là cái thiết yếu. Nếu quí vị biết như vậy là quí vị tu rồi đó. Quí vị thấy hai cái rõ ràng: - Nếu phiền hận thì không vui. - Người nào hết phiền hận, tâm hồn rỗng rang trống trải thì người đó vui vẻ. Muốn cho được vui vẻ chúng ta phải tập hỉ xả những sự vật bên ngoài, hỉ xả những phiền muộn trong lòng, trong ngoài đều hỉ xả hết. Đó là cái vui tột độ của mình đó.
Sở dĩ đức Phật Ngài cười hoài, là vì Ngài hỉ xả, còn chúng ta quạu hoài là vì chúng ta còn phiền hận, chúng ta cố chấp. Đó là nguyên nhân của đau khổ của bệnh tật, nguyên nhân của xấu xa và cũng là nguyên nhân của đê hèn.
Người nào phiền hận thì người đó đau khổ, mặt mày xấu xa, tâm hồn không bao giờ được thơ thới, tâm hồn sầu não thì sanh bệnh hoạn chớ gì.
Vậy ai muốn mình xấu, ai muốn mình bệnh, ai muốn mình đê hèn?
Ai cũng muốn mình là người tươi đẹp, ai cũng muốn mình là người rất sung sướng. Mà tại sao mình lại chứa các nhân đau khổ như vậy? Có phải tự mình mâu thuẫn với mình hay không? Cho nên khi nào còn chút giận ai, buồn ai thì biết rằng mình muốn hại mình đó, muốn làm cho mình xấu, mình khổ, mình bệnh hoạn.
Như vậy quí vị có cần ngày mồng chín đi cúng sao hay không? Cúng sao là để cầu năm này mình khỏi tai nạn, mình được vui sướng. Bây giờ quí vị xả hết, không giận ai thì năm nay quí vị khỏi tai nạn, quí vị vui sướng rồi, cúng làm chi cho mất công. Nếu mình biết mình xả rồi, thì mình được an ổn, dù cho năm đó mình có gặp sao La Hầu, Kế Đô gì đó chẳng hạn, mình cũng an lành như thường. Mình không giận ai thì ai thù mình, không thù người thì ai hại mình. Đó là nguyên nhân an ổn thực tế. Còn cái kia là cái cầu mong huyền hoặc trên trời, chớ không chịu cái thực tế hiện tại.
Như vậy đức hỉ xả là cái hết sức quí báu cho cuộc sống hiện tại của chúng ta. Quí vị muốn được vui, muốn được tươi đẹp, sống lâu thì quí vị phải tập hỉ xả. Ba điều ấy có được đều do hỉ xả hết. Còn người nào không muốn hỉ xả là người đó muốn chết yểu, bệnh hoạn xấu xa. Như vậy quí vị hãy chọn lấy một cái ngày đầu năm này, chọn cái nào cho trọn năm đều vui như đức Di-lặc. Đó là cái vui thứ hai.
3- Cái vui thứ ba là vui “Pháp hỉ”.
Thông thường nhà Phật hay dùng: Đó là “Pháp hỉ thiền duyệt”, nghĩa là chúng ta nghe chánh pháp trong lòng thấy nhẹ nhàng thơ thới. Đó là vui pháp hỉ hay pháp lạc. Tại sao vậy? Vì chúng ta nghe kinh học đạo, chúng ta tìm được lẽ thật, chúng ta tìm được một nguồn an ủi vui tươi. Chính do tìm được, thấy được lẽ thật đó mà lòng chúng ta nhẹ nhàng thơ thới. Đó là cái vui của đạo. Người nào học đạo, nghe đạo mà thấy trong lòng vui tươi sung sướng, đó là người đã được pháp lạc hay pháp hỉ. Còn người nào nghe đạo mà gục lên gục xuống, nghiêng qua ngả lại, thì người đó khó tìm được pháp lạc. Nếu không có cái vui nghe pháp, dù có đi chùa nhưng khó tinh tấn nổi, có thích đâu mà tinh tấn. Bởi vì chúng ta cố gắng làm khi chúng ta thích thú làm, nếu không có sự thích thú thì không bao giờ có sự cố gắng nào hết. Người học đạo phải làm sao nghiền ngẫm thấy lẽ thật của đức Phật dạy tức là thấy được chân lý Phật đã chỉ dạy trong kinh. Nhận những lời chân thật cho rõ rồi, chúng ta mới thấy vui sướng, cái vui sướng đó gọi là pháp hỉ hay pháp lạc. Nhân nghe chánh pháp của Phật mà mình được vui thích, cái vui đó là cái vui chân thật. Có nhận được cái vui đó rồi thì tu hành mới tinh tấn được. Nếu không nhận được, có tu chăng, chẳng qua là cầu mong được cái này cái nọ, chớ không phải vui thích để mà tu. Người học đạo chân chánh là phải vui với đạo mà tu, chớ không phải là cầu mong cái gì khác. Như vậy khi nghe kinh hoặc đọc sách Phật phải ráng chịu khó đem tâm trí nghiền ngẫm tức là Chánh tư duy. Xét cho đúng đắn, cho tột cùng, thấy được lẽ thật trong đó thì mình vui thích lên. Cái vui thích đó làm cho mình có một sức mạnh tinh tấn trên con đường đạo.
Thí dụ: Ngoài đời, khi người ta vui quá người ta khóc, trong đạo cũng thế. Khi đọc kinh Phật, có một sự vui mừng lạ đời cảm động cũng rơi nước mắt. Đó là trường hợp của ngài Khuê Phong. Đi tu, được người tặng cho một quyển kinh Viên Giác, đọc qua Ngài vui mừng lạ đời, vui tới rơi nước mắt.
Cũng như vậy, chúng ta có thân nhân đi đâu xa hai mươi, ba mươi năm không gặp nhau, gặp lại mừng quá đến rơi nước mắt. Đó là cái vui sướng tột cùng khiến đến rơi nước mắt. Người học đạo mà vui đến mức đó thì không bao giờ thối chuyển. Khi nào đọc kinh mà thấy Phật nói hay quá cảm động sung sướng, rơi nước mắt, thì đó là duyên lành khá sâu rồi. Người được cái vui đó là người ít bị những sự khó khăn hay là chướng ngại làm cho họ phải lui sụt. Còn học đạo khi đọc kinh thì thấy buồn ngủ, tụng kinh ngáp lên ngáp xuống, thì đó là không tìm được cái vui trong đạo. Không có cái vui thì sự tu khó mà tiến bộ được. Đó là cái vui của Pháp hỉ hay là Pháp lạc.
4- Đến cái vui sâu hơn nữa là “Thiền duyệt”.
“Duyệt” là vui, vui nhè nhẹ, chớ không phải vui mừng hớn hở. Thường thường ở trong nhà Thiền có tả: Trong khi tọa thiền, đến giai đoạn thân tâm an ổn, hơi thở nhẹ nhàng, đến lúc đó có giai đoạn khinh an, nhẹ nhàng, thơ thới khác hơn bình thường. Cái vui lần lần chớ không phải cái vui mạnh đó gọi là Thiền duyệt. Chỉ khi nào chúng ta tọa Thiền hay tu Thiền, lúc đi sâu trong đó tâm hồn an ổn, thân thể điều hòa, rồi tự nhiên có cái vui an lành mà nhà Phật gọi là “Thiền duyệt vi thực” tức là lấy cái vui thiền định làm món ăn.
Quí Phật tử nào mới tập ngồi thiền thì thấy ngồi thiền vui hay khổ? Ngồi tay chân đau, thân thể mỏi mệt, mồ hôi chảy ướt áo, không thấy vui chút nào hết, ngồi mà khổ chớ không thấy vui. Như vậy tới giờ ngồi thiền là tới giờ hành phạt hay là giờ an ổn?
Lúc đầu, tới giờ ngồi thiền thấy như là một hành phạt nào đó, nhưng đến lúc tập quen rồi, ngồi thiền thấy nhẹ nhàng an ổn. Tới giờ đó không ngồi thì thấy như thiếu cái gì.
Thí dụ: Như mỗi buổi sáng, chúng ta ăn cơm hay là trưa chúng ta ăn cơm, khi đến giờ đó mà không được ăn cơm, chúng ta cảm thấy khó chịu. Chúng ta tu thiền cũng phải như vậy. Đến giờ ngồi thiền mà không ngồi được, chúng ta cảm thấy cái gì thiếu thốn, nó đòi hỏi không an. Đó là cái vui trong Thiền định. Nó như thức ăn rồi, thiếu nó như thiếu cơm, tức là Thiền duyệt vi thực. Ít người lấy cái vui trong Thiền định làm thức ăn, vì cần phải tu tập lâu dài mới tới trạng thái đó. Tới được trạng thái đó rồi mới thấy an vui, nhưng phải công phu kha khá một chút mới được. Không phải ngồi năm tháng ba tháng mà được, nhất là ngồi buổi đầu, khổ chớ không phải vui, nhọc nhằn khổ sở lắm. Qua cái nhọc nhằn khổ sở rồi, mình điều phục được thân tâm lúc đó mình mới được an vui, cái an vui đó gọi là Thiền duyệt. Bao giờ thấy cái vui Thiền định không thể thiếu được như là bữa cơm không thể thiếu được, gọi đó là “Thiền duyệt vi thực”. Đó là cái vui thứ tư.
5- Đến cái vui thứ năm khó hơn, là vui “Tịch lạc”. Cái vui này ít được nghe. Nó xuất xứ từ bốn câu kệ ở kinh Đại Bát Niết-bàn, trong đó nói rằng:
Chư hành vô thường
Thị sanh diệt pháp
Sanh diệt diệt dĩ
Tịch diệt vi lạc.
Tức là lấy chữ đầu Tịch và chữ cuối Lạc. Cho nên gọi là vui Tịch lạc. Cái vui đó là cái vui cứu kính của người tu. Hai cái vui đầu nó gần gũi với quí vị, nhưng mà người Phật tử làm chưa mấy được. Phải gắng từ cái vui thứ nhất đến cái vui thứ hai. Có được hai cái vui đó rồi mới đến cái vui thứ ba thứ tư, cuối cùng là cái vui thứ năm. Vui trong Tịch lạc. “Tịch” tức là tịch tịnh hay tịch diệt rồi được an lạc.
Cái vui này nó thế nào? Tôi dẫn mỗi câu của bài kệ để giải thích. “Chư hành vô thường”, hành ở đây là hành động, tức là thân miệng ý hoạt động. Thân miệng ý hành động thì thành nghiệp. Mọi hoạt động của thân miệng ý đều thành nghiệp hoặc nghiệp thiện hoặc nghiệp ác. Mọi nghiệp đều gốc từ thân miệng ý mà ra. Ý nghĩ miệng nói thân làm. Mọi hành động đó còn mãi mãi hay không. Nó qua rồi mất, ý nghĩ rồi mất, miệng nói rồi mất, thân hành động rồi mất. Tất cả những cái đó là chỗ tạo nghiệp mà thuộc về vô thường. Qua rồi mất qua rồi mất, nó không có lâu dài, nên nói “thị sanh diệt pháp”, tức là pháp sanh diệt, nó không có bền. Như vậy tất cả cái hành trên thế gian này, mọi hành động mọi tạo tác đều gọi là vô thường, nó không lâu dài bền bỉ. “Sanh diệt diệt dĩ”, cái sanh đó mà lặng rồi thì “tịch diệt vi lạc”. Cái lặng lẽ chân thật ấy mới là vui. Cái vui này quá sâu kín cũng gọi là cái vui Niết-bàn. Sau khi cái sanh diệt nó diệt hết rồi mới tới chỗ tịch diệt.
Nói sanh diệt là nói sanh diệt của ý, khẩu, và thân, nhưng chủ yếu là ý. Ý là chủ động cho nên ý lặng rồi dù có nói có làm cũng là tịch diệt. Như vậy sau khi vọng tưởng lặng hết rồi không còn dấy động nữa, đó là tịch diệt. Cái tịch diệt đó đi đến chỗ an ổn chân thật của cái bất sanh bất diệt. Cái bất sanh bất diệt đó là Niết-bàn. Đó là cái vui cứu kính chân thật ít người hưởng được.
Chúng ta học và tu Phật có cái vui gần, tới cái vui xa. Như cái vui Tùy hỉ thật là dễ làm không tốn công, chỉ xả tâm tật đố mình thì được rồi. Tới cái vui tốn công một chút, tức là của cải mình, mình xả và cái chứa chấp trong tâm niệm mình xả. Hai cái đó xả được là có cái vui Hỉ xả. Rồi cái vui thứ ba là Pháp hỉ hay Pháp lạc. Cái vui đó phải nghiền ngẫm, nghiên cứu có công phu với đạo lý, chúng ta mới thấy được niềm an vui ở trong đạo lý. Đến vui Thiền duyệt thì phải có công phu đậm nữa, phải nhiều năm nhiều tháng công phu tu hành mới được cái vui Thiền duyệt. Được cái vui Thiền duyệt rồi cuối cùng mới được cái vui Tịch lạc, tức là tâm lặng lẽ rỗng rang không còn một niệm dấy lên. Thấy tất cả sự vật cái gì cũng nên thơ, cái gì cũng đẹp đẽ. Không còn phân biệt đây là xấu, kia là tốt, đây là hay kia là dở, chỉ một niệm chân thật. Cho nên trong nhà thiền gọi là “xúc mục tức Bồ-đề”, tức là nhìn cái gì cũng là Bồ-đề, là giác ngộ hết. Không thấy có cái gì xấu, tất cả đều là vui, đều là đẹp. Tất cả là một mùa Xuân. Như vậy nếu chúng ta tới được chỗ vui đó, tức được một mùa Xuân vĩnh cửu, một mùa Xuân không bao giờ mất.
Tôi dẫn một Thiền sư đời nhà Tống, Thiền sư Phật Nhãn, một trong ba ông Phật: Phật Quả, Phật Nhãn, Phật Giám. Ba vị này là Thiền sư nổi tiếng đời Tống. Đây là Ngài Phật Nhãn hiệu là Thanh Viễn. Ngài có một bài thơ nói về Xuân như sau:
Xuân nhật xuân sơn lý
Xuân sự tận giai xuân
Xuân quang chiếu xuân thủy
Xuân khí kết xuân vân
Xuân khách xuân tình động
Xuân thi xuân cánh tân
Duy hữu thức xuân nhân
Vạn kiếp nguyên nhất xuân.
Tạm dịch:
Ngày xuân xuân trong núi
Việc xuân thảy đều xuân
Hồ xuân ánh xuân chiếu
Khí xuân kết mây xuân
Khách xuân lòng xuân động
Thi xuân xuân càng tươi
Chỉ có người biết xuân
Muôn kiếp một mùa xuân.
Tại sao câu nào cũng Xuân hết vậy?
Xuân nhật tức là ngày xuân, xuân sơn lý tức là Xuân trong núi. Ngày xuân trong núi giống hệt như Xuân hôm nay, tức là ngày vui, mà vui ở trong núi.
Xuân sự tận giai xuân, tức là việc xuân thảy đều Xuân, bởi vì thấy cái gì cũng là Xuân hết, đều là đẹp hết. Nếu trong lòng mình có nhẹ thênh thang không có buồn giận, hờn, phiền, không dấy niệm phân chia thì cái gì không phải là Xuân. Thấy ai cũng đẹp dễ thương hết. Sở dĩ chúng ta không vui được là vì thấy cái này xấu cái kia tốt, thấy người này dễ thương, người kia dễ ghét. Thấy người dễ ghét thì hết Xuân, mặt xụ xuống thì làm sao thấy Xuân được. Còn thấy ai cũng dễ thương, thì gặp ai mình cũng nở nụ cười, không phải Xuân là gì? Trên mặt mình luôn luôn là mùa Xuân, cho nên thấy cái gì cũng là Xuân, tất cả đều là Xuân.
Hồ xuân ánh xuân chiếu. Cái hồ thấy nó cũng tươi đẹp, thấy mặt trời soi sáng dưới đáy hồ cũng tươi đẹp luôn. Hồ xuân, rồi ánh nắng mặt trời cũng Xuân cái gì cũng đẹp hết.
Khí xuân kết mây xuân. Nhìn thấy mây nó mơ hồ lưa thưa ở chung quanh mấy ngôi nhà, cụm vườn tức là những mây mờ gọi là xuân khí, thấy cũng đẹp nên thơ. Rồi những cái đó kết thành những cụm mây. Những cụm mây đó cũng là mây xuân luôn. Như vậy nhìn người cũng là Xuân, nhìn vật cũng là Xuân, nhìn nước cũng là Xuân, nhìn trời cũng là Xuân. Xuân tất cả. Tại sao ta được Xuân như vậy? Tại trong lòng chứa đầy một mùa Xuân. Nếu trong lòng chứa đêm ba mươi, tức tối như mực thì cái gì cũng không Xuân hết, cái gì cũng đen như mực. Sở dĩ ở ngoài nó đẹp là do trong lòng mình đẹp.
Khách xuân xuân tình động. Tức là khách xuân rồi khởi tình xuân. Như người khách trong mùa Xuân, thấy cảnh đều vui theo nó, tức tình động theo mùa Xuân.
Xuân thi xuân cánh tân. Tức là mùa Xuân đã tươi rồi, thi nhân còn tô điểm cạo gọt, vuốt ve nó làm cho nó tươi đẹp thêm nữa.
Hai câu chót mới là tối quan trọng.
Duy hữu thức xuân nhân
Vạn kiếp nguyên nhất xuân.
Như vậy chỉ có người biết Xuân, muôn kiếp một mùa Xuân.
Cảnh xuân, khách xuân, tình xuân v.v... đó là cái bên ngoài. Chỉ có người biết được Xuân đó, mới vui muôn kiếp Xuân. Mùa Xuân đó là mùa Xuân Di-lặc cười hoài muôn kiếp, không bao giờ có vẻ mày sầu mặt héo gì hết. Đó là một mùa Xuân tươi đẹp, đầy cả một bầu trời, tràn trề cả nhân thế.
Quí vị có muốn hưởng một mùa Xuân đó hay không? Như vậy cái cạn đến cái sâu, quí vị từ từ bước. Cạn nhất là từ từ bỏ tật đố để phát tâm tùy hỉ vui theo tất cả việc tốt, việc lành của mọi người. Kế đó là cái vui hỉ xả tức là vui mừng bỏ hết tất cả những cái gì mình có thể bỏ được. Xả hết từ cái xả của cái bực bội, cố chấp, buông xả hết. Đó là tập xuân. Rồi tới hiểu giáo lý một cách đúng đắn, có niềm vui chân thật, tu hành tiến tới an ổn, đi đến cuối cùng mọi tâm niệm đều được an lành tự tại. Không có một chút gì dấy lên làm biến đổi tất cả sự kiện bên ngoài. Chỉ một tâm thênh thang trong trẻo thì nhìn đời bằng một mùa Xuân không đổi thay, không còn di dịch gì nữa hết. Xuân như thế mới là Xuân Di-lặc. Xuân như vậy mới là Xuân muôn đời muôn kiếp. Nếu mùa Xuân chỉ có ba tháng hoặc chỉ có mấy ngày Tết là Xuân thì Xuân đó hữu hạn quá. Ngày nay ráng mà gượng cười, rồi ngày mai gặp nhau quạu quọ tức tối thì không còn Xuân đâu. Nên phải cởi bỏ từ từ trong lòng những chướng ngại cho mùa Xuân muôn kiếp đó. Nếu chúng ta loại nó ra được thì cuối cùng chúng ta sẽ hưởng được một mùa Xuân muôn kiếp.
Mong rằng mùa Xuân muôn kiếp sẽ đến với quí vị.
SANH TỬ SỰ ĐẠI
Tất niên Canh Thân - 1981
Thiền sư Huyền Giác nói: “Sanh tử sự đại. Vô thường tấn tốc.” Ngài Từ Minh lại nói: “Sanh như đắp chăn đông, tử như cởi áo hạ.”
Là Phật tử, xuất gia cũng như tại gia, chúng ta phải sống như thế nào đối với hai quan niệm trên?
Thông thường có hai hạng người tu: chưa đạt đạo và đã đạt đạo. Hạng người chưa đạt đạo muốn tiến tu thì lúc nào cũng phải khắc trên trán bốn chữ “Sanh tử sự đại”. Đó là chủ đích của đức Thích-ca lúc xuất gia. Khi đi tu là cốt giải quyết vấn đề này. Bao nhiêu người từ trước đến giờ đành bó tay đối với vấn đề sanh tử. Vì thế đức Phật quyết định giải quyết vấn đề sanh tử, chớ không chấp nhận cách đầu hàng đó. Khi đạt đạo rồi, đó là Ngài thoát ly sanh tử. Thế nên tất cả người tu sau này khi phát tâm xuất gia hay quyết chí tu hành theo đạo Phật để giải thoát thì không ai coi thường vấn đề sanh tử. Đó là ý nghĩa của bốn chữ “Sanh tử sự đại” và cũng là bước đầu trên con đường tu của chúng ta.
Nhưng đối với người đạt đạo thấy rõ mình có cái chân thật bất biến. Cái chân thật đó trong kinh gọi là Pháp thân hay Chân tâm, cái đó không bị sanh tử lôi cuốn và cũng không lệ thuộc vào sanh tử. Sống với cái không sanh tử thì cuộc sống này chỉ là tùy duyên, đủ duyên hợp lại là sanh, thiếu duyên ly tán là tử. Sanh tử là vấn đề của duyên. Đối với Pháp thân hay Chân tâm, nó không dính dáng gì hết. Vì vậy nếu sống với Pháp thân thì sanh tử như trò chơi, như ảo mộng, như huyễn hóa không gì phải bận tâm. Cho nên có Thiền sư nói rằng “ư chư sanh tử bất quan hoài” nghĩa là đối với sanh tử không bận lòng. Cùng một ý này Thiền sư Từ Minh nói: “Sanh như đắp chăn đông, tử như cởi áo hạ.”
Người đạt đạo sống với cái không sanh tử, khi đó sanh cũng như mùa đông được chiếc chăn đắp lên cho ấm, có gì mà sợ. Còn khi bỏ thân tứ đại này để trở về Pháp thân thanh tịnh cũng như mùa nực cởi chiếc áo, mát mẻ có gì mà lo. Nhưng đối với chúng ta sanh tử là sự đại, nếu chúng ta chưa đạt đạo thì “sanh tử sự đại” có giá trị. Chúng ta thấy hai câu trên đều đúng. Người tu mà chưa đạt đạo thì sanh tử là việc lớn, khi đạt đạo rồi thấy sanh tử là trò chơi.
Khoảng giữa năm tôi có làm bài kệ:
Gá thân mộng, dạo cảnh mộng
Mộng tan rồi, cười vỡ mộng
Ghi lời mộng, nhắn khách mộng
Biết được mộng, tỉnh cơn mộng.
Nhiều vị không biết, nói tôi làm kệ là sắp từ giã. Có người đồn tôi sắp tịch nên mới để kệ lại, nhưng sự thật không phải vậy. Khi dạy Trung Quán, tôi thấy lẽ thật trong đó quá rõ ràng, cho nên làm bài kệ trên. Kệ đó có hai ý:
1- Chúng tôi ước định lại đời sống và ngày cuối cùng của chúng tôi.
2- Mong mỏi người sau nhận, hiểu những cái gì tôi đã hiểu.
Giờ đây tôi đi thẳng vào bài kệ. Gá thân mộng, dạo cảnh mộng. Hiện giờ, chúng ta thấy sự sống còn của thân này thật là quan trọng. Nhưng nếu dùng con mắt Trí tuệ Bát-nhã mà thấy thì chỉ là một mớ nhân duyên hòa hợp. Sự sống do duyên mà có, đủ duyên thì còn, thiếu duyên thì mất, không có gì bảo đảm lâu dài hết. Thân chúng ta gọi là nội tứ đại, bên ngoài là ngoại tứ đại. Hai phần này hỗ tương nhau mà tồn tại. Vì vậy cuộc sống chúng ta hiện nay là tạm bợ, vay mượn tứ đại bên ngoài hòa hợp với tứ đại bên trong. Sống bằng sự vay mượn tạm bợ như thế không phải mộng là gì, không phải huyễn hóa là gì? Nhưng chẳng lẽ chỉ có thân huyễn hóa tạm bợ này thôi sao? Ở đây chúng tôi dùng chữ “gá”. Ai “gá”? Không phải chỉ có thân tứ đại này là cứu kính duy nhất, mà còn có “chủ nhân ông”. Nói “chủ nhân ông” là khi nào chúng ta tỉnh giác. Nếu chưa tỉnh giác thì phải nói danh từ khác tức là “nghiệp thức”. Như vậy cái gá đó là Ông chủ. Chính cái thân tứ đại mới là cái tầm thường để cho Ông chủ nương tựa. Khi gá vào thân tứ đại mộng huyễn này thì cảnh mà thân tứ đại tới lui qua lại đó cũng là cảnh mộng. Thân là mộng, cảnh cũng là mộng, nên nói “gá thân mộng, dạo cảnh mộng”. Tổ Qui Sơn thường nhắc nhở: Người xuất gia phải coi mình như khách qua lại trong Tam giới. Ở đây tôi dùng câu dạo cảnh mộng vì đa số chúng ta mắc kẹt trong cảnh, thấy cảnh này là thật. Nhà của mình, đất của mình, tất cả cái gì cũng là của mình hết, cho nên được thì mừng mất thì khổ, bị ngoại cảnh lôi cuốn, sống trong bất an, bất ổn. Nếu chúng ta thấy thân và cảnh đều là mộng thì còn gì ràng buộc, còn gì lo sợ, được mất đối với chúng ta như trò chơi, không còn gì phải khổ đau nữa.
Đó là tôi diễn tả lại thân và cảnh. Khi cảnh và thân này tan rồi tức “mộng tan rồi” thì thế nào? Thì “cười vỡ mộng”. Như chúng ta đã biết một khi trả ra mà không mượn lại là thân tứ đại sắp hoại. Thở ra mà không hít vào là phong đại đã hết. Phong đại đã hết thì hỏa đại sẽ tan từ từ. Rồi tới thủy đại, địa đại sẽ tan rã sau. Như vậy một khi thở ra không hít vào thì thân tứ đại chúng ta không còn hoạt động như trước nữa, đôi mắt cũng nhắm nghiền, lúc đó ngoại cảnh không còn gì với chúng ta nữa. Thân thiếu phong đại thì thân sắp tan, mắt không còn mở thì cảnh đời đối với chúng ta cũng vắng. Thân và cảnh tan hoại nên nói rằng “mộng tan rồi”. Khi đó người đời sẽ làm sao? Hoặc là khóc biệt ly, thương cha mẹ, thương anh em, thương tất cả người chung quanh… coi đó như là một chuyến đi không bao giờ gặp lại. Hoặc là bản thân người đó sẽ khổ đau vì “tiền lộ mang mang vị tri hà vãng”, nghĩa là đường trước mờ mờ không biết về đâu. Khi sắp tắt thở nhớ lại mình không có đức hạnh gì, không biết rồi sẽ ra sao, không biết mình đi đâu? Thật là đau khổ. Như vậy có hai nỗi khổ: khổ khóc vĩnh biệt và khổ không biết thân phận mình ra sao! Hai cái đó làm cho người sắp ra đi đau khổ tràn trề. Đó là thân phận những người không biết đạo.
Nhưng ở đây tôi nói: “Mộng tan rồi, cười vỡ mộng.” Tại sao chúng ta lại cười vỡ mộng? Bởi vì mình biết đó là một giấc mộng. Đã biết là một giấc mộng thì khi hết mộng chúng ta trở về thật. Đang mộng mà chúng ta chợt tỉnh là hết mộng. Khi hết mộng chúng ta còn sợ hay không? Khi biết đó là một cơn mộng thì dù đẹp, dù xấu, dù khổ, dù vui, chúng ta đâu có gì phải sợ. Khi mộng tan chúng ta nở một nụ cười từ biệt mọi người, an lành trở về quê cũ, tức trở về cái chân thật muôn đời. Đó là “cười vỡ mộng”.
Nói như vậy mà chúng tôi đã được như vậy chưa? Đó là một vấn đề ước định. Chúng tôi tự nhắc mình phải sống thế nào? Nghĩa là đối với thân và cảnh này chúng tôi phải luôn luôn thấy nó là mộng, để khi thân này sắp hoại chúng tôi thấy đó là tan cơn mộng, chỉ “cười vỡ mộng” thôi, không có gì quan trọng. Đó là một ước định cho ngày ra đi của chúng tôi.
“Ghi lời mộng, nhắn khách mộng”, nghĩa là chúng tôi tự thấy mình sống trong cõi đời tạm bợ hư ảo không có gì thật, không lẽ biết nó hư ảo rồi an ổn vui vẻ, mặc cho người khác chìm lịm trong cơn mộng đó để than khóc, chịu đủ thứ đau khổ. Chúng tôi không nỡ nên buộc lòng phải ghi lại ít lời, nhắc những người đồng hành với mình trong cơn mộng đó. Đây là tấm lòng nghĩ đến người sau, muốn cho mọi người khi ra đi đều nở một nụ cười, chớ không phải rơi lệ dầm dề.
Nhưng “ghi” và “nhắn” cái gì đây? Nhắn rằng “biết được mộng, tỉnh cơn mộng”, nghĩa là một khi biết rõ sự sống này là mộng thì tỉnh được cơn mộng. Chủ yếu là chúng ta phải thấy rõ lẽ thật, chớ đừng lầm lẫn tưởng cuộc đời là thật rồi chìm đắm, hết cơn mộng này đến cơn mộng khác. Tỉnh được cơn mộng thì mọi khổ vui trong cuộc đời không còn chi phối được chúng ta. Cho nên sau khi tôi vỡ mộng rồi, khỏi cần họa hình họa tượng gì cả, chỉ cần biên bài kệ đó, hoặc tám câu một câu ba chữ, hoặc bốn câu một câu sáu chữ để nơi nào quí vị dễ thấy, cốt nhắc nhở lấy mình, có lợi hơn là họa hình to thờ mà không nhớ cũng vô ích. Đó là sở nguyện của tôi. Nếu được, thì tôi mãn nguyện, ngược lại thì tôi chưa hài lòng.
Bao năm qua ở Thiền đường này, tôi là người hay giảng, quí vị là người nghe giảng, hình như chúng ta đều là kẻ tỉnh hết. Nhưng sau buổi giảng, có lẽ người giảng hay quên, người nghe lại càng quên hơn nữa. Như vậy là có tỉnh nhưng lại mê. Tỉnh thì ít, mê thì quá dài. Nếu chúng ta gặp cơn ngủ quá mê, vừa mãn mộng thứ nhất, là vừa hơi tỉnh. Tỉnh rồi mà chưa có sức ngồi dậy, rửa mặt và cũng còn ham ngủ nữa thì sao? Một cơn mộng thứ hai tiếp nối, và cứ thế tiếp nối tiếp nối, không biết tới lúc nào mới hết. Chỉ khi nào chúng ta biết đó là mộng, mặc cho mộng vui hay mộng buồn, chúng ta nhất định trỗi dậy rửa mặt, đi ra ngoài hoạt động thì khả dĩ hết mộng.
Đây nói tới việc tu. Nếu chúng ta biết điều nào dở, điều nào tạo nghiệp khổ, cái nào giả cái nào thật, cái biết đó chưa đủ làm cho chúng ta giải thoát và hết khổ. Biết rồi chúng ta còn phải hành. Cho nên Phật dạy người học đạo phải đủ văn tư tu. Văn là nghe, tư là suy nghĩ, nhận định đúng. Cái biết mà chúng tôi vừa nói chính là văn và tư vậy. Nhưng chưa đủ, chúng ta còn phải tu tức là hành, cái hành đó mới là thiết yếu. Như chúng tôi thường nói: Chủ động trong cuộc luân hồi, sanh tử là ba nghiệp, chủ động trong ba nghiệp là ý nghiệp. Ý nghiệp trong nhà Thiền gọi là vọng tưởng. Vọng tưởng là động cơ chánh yếu khiến ta luân hồi sanh tử. Bây giờ muốn thoát ly sanh tử không gì hơn là chận đứng hay dừng lại vọng tưởng. Nói chận nói dừng chỉ là một lối nói, đúng ra chúng ta nhè nhẹ buông thôi. Biết rõ bộ mặt nó là không thật, buông nó rồi sẽ hết. Như vậy công phu buông xả đó tuy nhẹ nhàng đơn giản nhưng đòi hỏi phải bền bỉ lâu dài. Thuở xưa, các Thiền sư muốn buông hết phải trải qua mấy mươi năm. Như ngài Triệu Châu bậc kiệt xuất trong nhà thiền ở Trung Quốc còn nói: Ngót ba mươi năm phải buông hết mới thành một khối. Huống chi chúng ta mới buông sơ sài làm sao hết được. Như vậy chúng tôi nói rằng người quyết chí tu đạt đến kết quả viên mãn, thì phải khẳng định lập trường của mình trước mọi hoàn cảnh, nhất là về tình cảm. Ở đây chúng tôi chỉ đề cập đến tình cảm của người xuất gia. Người xuất gia trước tiên phải cắt đứt tình cảm gia đình, chính nó làm chúng ta rối ren, lo sợ, khó xử. Nói đi tu mà ít bữa nhớ nhà, lo ở nhà không có cơm ăn, áo mặc. Như vậy thì làm sao thực hiện được bản nguyện của mình. Nếu chúng ta không có thái độ dứt khoát, không can đảm như đức Phật thì khó mà giải quyết nổi. Đức Phật một phen ra đi, đến khi thành đạo mới trở về. Đó là hình ảnh một con người dứt khoát, không có thái độ chần chờ. Ngài chỉ trở về thăm vua cha, độ thân quyến là sau khi đã đạt đạo. Nhờ thái độ khẳng định đó mà Ngài thành công.
Đến đây tôi dẫn Thiền sư Lương Giới, Tổ của tông Tào Động ở Trung Hoa. Khi đi tu Ngài có viết mấy lá thư cho cha mẹ. Đọc thư Ngài, ta mới thấy ý chí người xưa.
Lá thư thứ nhất:
Được nghe, chư Phật ra đời đều do cha mẹ mà có thân, muôn loài sanh trưởng thảy nhờ trời đất che chở. Cho nên, không có cha mẹ thì chẳng sanh, không có trời đất thì chẳng trưởng, thảy nhờ ân dưỡng dục, đều thọ đức chở che.
Song, tất cả hàm thức, vạn tượng hình nghi đều thuộc vô thường chưa lìa sanh diệt. Ân bú xú nặng nề, công nuôi dưỡng sâu thẳm, dù đem của cải thế gian phụng dưỡng trọn khó đáp đền, dùng máu thịt dâng hiến cũng không được bền lâu. Trong Hiếu kinh nói: “Dù một ngày giết đôi ba con vật để cung hiến cha mẹ vẫn là bất hiếu, vì sẽ lôi nhau vào vòng trầm luân chịu muôn kiếp luân hồi.” Muốn đền ân sâu dày của cha mẹ đâu bằng công đức xuất gia, cắt đứt dòng sông ái sanh tử, vượt qua khỏi biển khổ phiền não, đáp ân cha mẹ ngàn đời, đền công từ thân muôn kiếp, bốn ân ba cõi thảy đều đền đáp. Kinh nói: “Một đứa con xuất gia chín họ đều sanh lên cõi trời.” Con thệ bỏ thân mạng đời này, chẳng trở về nhà, đem căn trần muôn kiếp chóng tỏ sáng Bát-nhã.
Cúi mong cha mẹ mở lòng hỉ xả, ý chớ trông mong, học theo gương Quốc vương Tịnh Phạn và Thánh hậu Ma-da. Hẹn đến sau kia sẽ gặp nhau trong hội Phật, còn hiện nay cam chịu lìa nhau. Con chẳng phải quên ơn dưỡng dục, chỉ vì: “Thời giờ chẳng đợi người.” Cho nên nói: “Thân này chẳng thẳng đời này độ, lại đợi đời nào độ thân này.”
Xin cha mẹ lòng chớ nhớ mong.
Tụng rằng:
Vị liễu tâm nguyên độ sổ xuân
Phiên ta tịnh thế mạn thuân tuần
Kỷ nhân đắc đạo không môn lý
Độc ngã yêm lưu tại thế trần
Cẩn cụ xích thư từ quyến ái
Nguyện minh đại pháp báo từ thân
Bất tu sái lệ tần tương ức
Thí tợ đương sơ vô ngã thân.
Dịch:
Chưa rõ nguồn tâm quá mấy năm
Thương thay mê mải luống trì trầm
Cửa không đã lắm người đắc đạo
Riêng ta trì trệ ở trong trần
Xin viết lá thư từ quyến thuộc
Nguyện thông đại pháp đáp từ thân
Không nên rơi lệ thường thương nhớ
Xem tợ buổi đầu không thân con.
Qua lá thư này chúng ta thấy Ngài cố tình nhắc cha mẹ đừng buồn, đừng khóc, coi như buổi đầu không có thân Ngài. Đó là lá thư thứ nhất gởi cha mẹ.
Lá thư thứ hai:
Con từ lìa cha mẹ chống tích trượng dạo phương Nam, tháng ngày trôi qua tính đã mười năm, trên đường con đã trải qua muôn dặm.
Cúi mong mẹ đem hết tâm ý hướng về Phật pháp, đừng ôm ấp tình ly biệt, chớ đứng tựa cửa trông con. Mọi việc trong nhà tùy thời sắp đặt, việc nhiều thì phiền não thêm nhiều. Phần anh Hai thì nên tận tâm hiếu thuận, học đòi gương Vương Tường nằm giá, còn em nhỏ thì hết sức bắt chước theo Mạnh Tông khóc măng. Phàm người ở đời phải biết tu thân hiếu đễ mới hợp lòng trời. Kẻ làm Tăng trong cửa Không thì mộ đạo tham thiền để đáp ân cha mẹ.
Ngày nay hai đường xa cách muôn sông ngàn núi, mượn giấy mực viết vài hàng để bày tỏ tấc dạ.
Tụng rằng:
Bất cầu danh lợi bất cầu Nho
Nguyện nhạo không môn xả tục đồ
Phiền não tận thời sầu hỏa diệt
Ân tình đoạn xứ ái hà khô
Lục căn giới định hương phong dẫn
Nhất niệm vô sanh huệ lực phò
Vị báo bắc đường hưu trướng vọng
Thí như tử liễu thí như vô.
Dịch:
Chẳng cầu danh lợi chẳng cầu Nho
Ưa thích cửa Không bỏ thế đồ
Phiền não hết rồi lửa sầu tắt
Ân tình dứt bặt, sông ái khô
Sáu căn giới định gió thơm cuốn
Một niệm vô sanh sức huệ phò
Xin nhắc mẹ già thôi đứng ngóng
Ví như đã chết, ví như không.
Trên đây là hai lá thư của Ngài.
Bây giờ đến lá thư của bà mẹ gởi cho Ngài:
Mẹ cùng con đời trước có nhân duyên mới kết thành tình mẹ con. Kể từ ôm thai trong lòng, sớm chiều cầu thần khấn Phật nguyện sanh được con trai. Thai bào đủ tháng mạng sống như chỉ mành, sanh con được toại nguyện quí như châu bảo. Không nề sự hôi hám của phẩn uế, chẳng ngại sự bú xú nhọc nhằn. Con vừa thành người dắt đến trường lo học tập. Hoặc khi con đi chơi về trễ, mẹ đứng tựa cửa trông mong.
Con viết thư về quyết xin xuất gia. Cha đã mất, mẹ già, anh yếu, em nghèo nàn, mẹ trông cậy vào ai? Con có ý bỏ mẹ, chớ mẹ nào có tâm quên con. Từ khi con cất bước tha phương, ngày đêm mẹ thường rơi lệ! Khổ thay! Khổ thay!
Nay con lại thệ chẳng về quê, mẹ cũng tùy chí nguyện của con. Mẹ không dám mong con như Vương Tường nằm giá, Đinh Lan khắc cây, chỉ mong con như Tôn giả Mục-liên độ mẹ thoát khỏi trầm luân tiến lên Phật quả. Nếu mẹ không như vậy e phải có tội. Con cần phải giải quyết cho xong.
Người mẹ trả lời cho con như vậy, chúng ta thấy dường như mẹ Ngài trách người đi tu là kẻ quên ơn bội nghĩa, không biết gì tới cha mẹ. Thật ra trọng trách người tu là làm sao đạt đạo để giải quyết vấn đề sanh tử cho mình, cho cha mẹ và cho tất cả chúng sanh, chớ không phải muốn bỏ cha mẹ để tìm chỗ an ổn vui chơi qua ngày hết tháng. Chí cương quyết của người tu không phải là ý bất hiếu, bỏ cha mẹ phiêu bạt để tìm chỗ an ổn cho chính mình. Vì vậy khi thực hiện bản hoài cao cả đó chúng ta phải gan dạ ngay từ buổi đầu, không thể chần chờ nửa tiến nửa lùi, nay thì quả quyết mai thì do dự, như vậy không thể nào tiến xa được. Dù biết rằng việc làm đó là bất hiếu trong hiện tại nhưng có thể cứu cha mẹ và mọi người ở ngày mai. Cho nên ngài Động Sơn nhờ lòng cương quyết mà được thành đạo.
Sau khi ngộ đạo, Ngài làm Trụ trì ngót ba mươi năm. Một hôm đi xuống bếp, Ngài thấy những người trong nhà trù làm đổ tháo thức ăn nào bún, nào gạo, nào cơm vương vãi khắp nơi. Ngài quở: “Của đàn-na thí chủ không nên hủy hoại.” Vừa nói như vậy thì thấy một vị thần quì trước mặt. Ngài hỏi:
- Ông là ai?
- Tôi là thần Thổ địa, ba mươi năm rồi tìm yết kiến Ngài mà không gặp, hôm nay mới được gặp.
Do ý chí cương quyết đó mà Ngài làm Tổ tông Tào Động truyền mãi cho đến bây giờ. Nếu người xưa chần chờ hay yếu đuối thì không bao giờ có đạo hạnh để chúng ta bắt chước theo. Vì vậy tôi mong rằng người xuất gia hay tại gia, đã quyết chí tu thì phải có lập trường vững chắc. Việc làm này không phải là việc tầm thường đơn giản, mà là việc làm cả một đời người. Nếu không bền vững, chúng ta đang tu tiến, gặp chuyện gì bận bịu của gia đình thì chúng ta bị lùi, đã không cứu được mình, huống nữa là cứu được ai. Sự tu hành chánh yếu là để thoát ly sanh tử. Muốn thoát ly sanh tử phải bền chí mới được.
Trên đây, tôi đã dẫn những lá thư của ngài Động Sơn viết về cho mẹ và thư trả lời của mẹ Ngài. Người mẹ như bà thân của ngài Động Sơn rất là hiếm. Dù thương con tràn trề nhưng không nỡ ngăn ý chí xuất gia của con nên bà tùy thuận và hi vọng con mình thành tựu đạo quả. Lời nói đó chính là một sức mạnh giúp người con nỗ lực sao cho đạt đạo mới thôi. Nhờ vậy ngài Động Sơn đã làm tròn bổn phận tu hành của mình cũng như đối với tất cả những người trong gia đình, tức quyết tâm đạt đạo để đền ơn cha mẹ, đền ơn tất cả. Do đó chúng ta khi đã phát tâm học đạo đều phải cố gắng nỗ lực và quyết chí tiến lên, chớ không tu với tánh cách lưng chừng được.
Gần đây tôi thấy người phát tâm xuất gia thì đông, mà người giữ được ý chí xuất gia thì ít, nghĩa là tuy thân ở chùa, nhưng tâm cứ nghĩ việc nhà, không buông được. Như vậy tuy có tinh thần phát tâm xuất gia, nhưng chí người xuất gia đạt đạo thì quá ít. Vì vậy tôi mong những vị đã được có phước duyên sâu dày, xuất gia học đạo nên nhớ ý chí của người xuất gia, phải làm được việc mình đã nguyện làm.
Ngài Động Sơn đã nói: “Thân này chẳng thẳng đời này độ, lại đợi đời nào độ thân này”, nghĩa là nay được thân này thì hiện đời phải giải quyết cho xong, đừng đợi đời khác, đừng quan niệm rằng tôi tu để có phước, đời sau tiếp tục tu nữa. Cái lối đợi đời khác là lối ỷ lại ngu si, để rồi tu một cách lơ mơ chớ không đi tới nơi tới chốn. Đừng nghĩ rằng mình đang ở đời mạt pháp, có cố gắng cũng không tới đâu. Dù ở thời chánh pháp, tượng pháp hay mạt pháp, nếu chúng ta nỗ lực tu đều có kết quả tốt như nhau. Chỉ vì chúng ta không cố gắng nên không giống như thời trước. Hai bài kệ trong hai lá thư của Ngài có tác dụng cảnh tỉnh mạnh mẽ đối với chúng ta. Tôi nhắc lại những câu kết của hai bài kệ trên.
Bài kệ trước:
Bất tu sái lệ tần tương ức
Thí tợ đương sơ vô ngã thân.
Tạm dịch:
Không nên rơi lệ thường thương nhớ
Xem tợ buổi đầu không thân con.
Bài kệ sau:
Vị báo bắc đường hưu trướng vọng
Thí như tử liễu thí như vô.
Tạm dịch:
Xin nhắc mẹ già thôi đứng ngóng
Ví như đã chết ví như không.
Chúng ta thấy đầy đủ ý chí của Ngài qua mấy lời khẳng định: Xin thưa với cha mẹ coi như con đã chết, coi như không có con. Có thái độ dứt khoát như vậy mới mong làm tròn được nhiệm vụ của mình. Chúng ta khi đã xuất gia, đối với gia đình phải xem như mình đã chết. Có như thế mình mới thật sống. Đó là điều hết sức quan trọng đối với người tu.
Phiền não tận thời sầu hỏa diệt, ân tình đoạn xứ ái hà khô, nghĩa là phiền não hết rồi lửa sầu tắt, ân tình dứt bặt sông ái khô. Khi chúng ta hết phiền não thì lửa sầu mới tắt, khi ân tình bặt thì sông ái mới khô. Như vậy, người tu nếu để tình cảm gia đình ràng buộc mãi, thì sông ái không biết chừng nào mới khô. Trái lại, sông ái tràn đầy thì chúng ta sẽ bị cuốn trôi, không thể dừng nổi.
Còn tinh thần của người mẹ, tôi chỉ cần nhắc câu cuối: “Nếu mẹ không như vậy e phải có tội. Con cần phải giải quyết cho xong.” Quả là bà mẹ biết dạy con. Còn nghĩ rằng sao con đi lâu quá không về, hoặc giả làm món gì ngon nhắn con về đãi. Cứ như vậy hoài thì đi tu một trăm năm cũng chẳng được gì. Thế nên người tu có hai điều kiện hệ trọng: thứ nhất là tinh thần dứt khoát của mình, thứ hai là sự giúp đỡ của cha mẹ bằng cách hiểu đạo khuyên con. Có nhiều người thương con mà không hiểu đạo, cho xuất gia nhưng không dạy ý chí xuất gia, cần phải tập cho con ý chí xuất gia nữa, đó là điều cao cả của bậc làm cha mẹ. Cho nên bà chỉ nói rằng mẹ không mong con như Vương Tường nằm giá, Đinh Lan khắc cây mà chỉ mong con như Tôn giả Mục-liên độ mẹ thoát khỏi trầm luân tiến lên Phật quả. Đó là điều mẹ Ngài mong mỏi và cũng là điều rất quan trọng cho tinh thần tu tiến của hàng xuất gia.
Năm nay quí Phật tử học Phật pháp tương đối kỹ rồi, chỉ cần có ý chí thực hành nữa mới đưa chúng ta đến giải thoát sanh tử. Vì vậy tôi mong muốn tất cả đều lập chí vững chắc trên đường đạo. Nếu là người tại gia khi biết đạo rồi chúng ta phải nỗ lực dùng mọi phương tiện để sống hợp với đạo, còn người xuất gia thì phải ứng dụng sự hiểu biết của mình cho đúng và tự tháo gỡ hết những ràng buộc do bản ngã, do tình lưu luyến gia đình để mạnh dạn tiến tu. Làm sao cho đời tu chúng ta xứng đáng, không hổ thẹn khi nhắm mắt, tiếc một đời không đi tới đâu. Ngày nào còn sống thì xứng đáng là người xuất gia, đến khi nhắm mắt chỉ nở một nụ cười, thanh thản ra đi. Có như thế sự tu hành mới có ý nghĩa. Đó là điều chúng tôi mong mỏi nhất.
Cuộc đời là ảo mộng, đã là ảo mộng thì còn gì quan trọng nữa để lôi cuốn chúng ta chìm trong mê muội. Điều thiết yếu chúng ta phải gan dạ, mạnh dạn vượt qua ảo mộng. Có một sự tích liên quan đến đến việc gá thân mộng, tôi sẽ kể cho quí vị nghe để biết cái hay của người xưa. Thiền sư “Đả Táo Đọa”, do đập bể ông táo rơi xuống đất mà thành danh. Ngài tu ở vùng núi Xuân Sơn bên Trung Hoa với một số đồ chúng. Một hôm Ngài dẫn chúng đi dạo núi, đến gần thung lũng thấy một miếu thờ, dân chúng làm thịt bò, trâu, heo, gà dâng cúng liên miên. Hỏi ra được biết vị thần Táo ở miếu này rất linh, cầu gì được nấy. Nghe rồi, Ngài cầm gậy vô miếu, thấy trên bàn thờ có để ba viên gạch, Ngài lấy gậy gõ vào đó nói: “Đây là do gạch đất hợp thành, linh từ đâu lại, thiêng ở chỗ nào?” Nói xong, Ngài đập một gậy, ba viên gạch bể nát rơi xuống đất. Lát sau trên đường đi, gặp một vị áo xanh mũ xanh quì trước mặt. Ngài hỏi:
- Ông là ai?
- Con là thần Táo trong miếu đến tạ ơn Hòa thượng.
Ngài nói:
- Ta đã làm gì mà ngươi tạ ơn?
- Nhờ ơn Hòa thượng nói lý vô sanh mà con tỉnh ngộ, thác sanh lên cõi trời, bỏ thân đọa đày trong bao nhiêu đời ở tại miếu này.
Nói xong ông đảnh lễ rồi biến mất. Thị giả thấy vậy mới thưa:
- Bạch Hòa thượng, con hầu Ngài đã lâu mà không được nghe nói lý vô sanh, thần Táo này có phước gì mà Hòa thượng mới nói một câu ông liền ngộ?
Ngài lặp lại câu nói trên cho Thị giả nghe và hỏi:
- Ông hội không?
- Dạ con không hội.
Ngài nói:
- Bể rồi! Bể rồi! Rơi rồi! Rơi rồi!
Thị giả liền ngộ.
Kể chuyện này để quí vị hiểu chỗ chúng tôi dùng chữ gá. Thần Táo gá vào đất gạch mà phải ở đó bao nhiêu năm. Còn chúng ta gá vào cái gì? Gá vào đất nước gió lửa, rồi chấp đó cho là mình, có đau khổ chưa? Cho là mình rồi thì giành hơn giành thua, chấp phải chấp quấy. Bao nhiêu tội nghiệp cũng từ đó mà ra. Nếu bây giờ nhớ thân này là cái mình gá, không có gì quan trọng hết, biết như vậy là biết được lý vô sanh. Thân này là giả tạm, là mộng, mộng thì có gì thật đâu. Trong khi mộng, sanh cũng mộng, tử cũng mộng, sanh không thật sanh, tử không thật tử. Nhận được như vậy thì lý vô sanh hiện tiền. Ngay thân này, nhận được lẽ thật thì thấy đạo, thấy đạo thì thoát ly sanh tử. Ngược lại, chúng ta cứ bám vào thân này cho là thật, là quí rồi xem cái khổ vui, hơn thua của nó là quan trọng, tức nhiên mình bị nó chi phối, không những trong hiện đời, mà cả lúc thọ thân sau. Cho nên ngay thân này chúng ta thức tỉnh, biết được nó là mộng thì tự nhiên có thể lần lần thoát ly, không bị nó cuốn lôi nữa. Do đó thần Táo chỉ nhờ nghe câu: “đây là do gạch đất hợp thành, linh từ đâu lại, thiêng ở chỗ nào”, ông giựt mình thức tỉnh liền buông được cái gạch đất và sanh lên cõi trời.
Còn chúng ta, khi biết rõ thân này do đất nước gió lửa hợp thành, không phải thật mình thì sao? Thật nhẹ nhàng biết mấy, nhưng không chịu buông, cứ bám vào đó mà hơn thua phải quấy. Có những đêm tôi ngồi ở ngoài, đuổi muỗi cắn, tôi rờ thấy xương, thấy thịt, một hồi tôi tức cười quá. Thân này thật không ra gì, gá vào nó cực quá. Gá từng khúc từng mảnh, mà cứ cho là mình, từ đó bao nhiêu cái dở phát sanh, kể không thể hết. Vậy mà cứ hài lòng, động đến là phản đối chống trả mãnh liệt.
Chúng ta chỉ cần thức tỉnh thân này tạm gá mượn, lấy đó làm bè qua sông, đừng nghĩ nó là thật, cứ lo bồi bổ tô điểm đủ thứ mà chìm đắm, không qua sông được. Những điều tôi nói trên đây nhằm nhắc nhở cho cả Tăng Ni và cư sĩ. Nếu chúng ta thức tỉnh được điều đó thì chuyện thoát ly sanh tử không khó, còn nếu chúng ta mê hoài thì không biết chừng nào ra khỏi biển sanh tử. Cho nên chủ yếu Phật dạy lý vô ngã là như vậy. Thấy rõ thân này không phải thật ngã thì tự nhiên thoát ly sanh tử. Nếu thấy là thật ngã thì ngàn đời không bao giờ ra khỏi sanh tử, dù tu hạnh gì cũng thế. Đó là một lẽ thật.
Năm cũ sắp tàn, bước qua năm mới, chúng tôi mong rằng quí vị tại gia nỗ lực làm đúng tinh thần học hiểu của mình. Còn giới xuất gia lập chí đúng tinh thần người xuất gia, để chúng ta chuẩn bị cho năm mới, cương quyết tiến tới mục đích mình đã định.
Mong tất cả chuẩn bị cho năm mới đẹp đẽ hơn, mạnh mẽ hơn, cứng cỏi hơn để đạt được sở nguyện của mình. Đó là niềm mong ước của tôi.
XUÂN TINH TẤN
Xuân Tân Dậu - 1981
Tất cả chúng ta, mọi người tin Phật đều tin đức Di-lặc là một vị Bồ-tát hiện giờ còn ở trên cung trời Đâu-suất. Khi đủ duyên thì Ngài sẽ xuống cõi Ta-bà. Khi đó Ngài ngồi dưới cội cây Long Hoa mà thành Phật hiệu là Di-lặc. Hội thuyết pháp đó gọi là hội Long Hoa. Khi nãy lạy Phật chúng ta có câu: Nam-mô Long Hoa Giáo chủ, tức là Giáo chủ ở Long Hoa. Long Hoa là tên cây như cây bồ-đề của Phật Thích-ca ngồi vậy. Như vậy đức Phật Di-lặc chừng nào mới ra đời? Đó là câu hỏi mà Phật tử thắc mắc, vì thỉnh thoảng nghe người ta đồn đại hoặc ở nơi này có đức Phật Di-lặc hiện thân, ở nơi kia có đức Di-lặc hóa thân hoặc là sẽ ra đời làm Phật v.v... Những lời đồn đại đó nghe tưởng chừng như năm mười năm nữa Ngài ra đời. Nhưng trong kinh Phật nói thế nào? Điều đó tôi nhắc lại một lần nữa để cho quí vị nhớ kỹ để chúng ta khỏi lầm lẫn. Kinh Di-lặc Thượng Sanh kể lại đức Di-lặc từ khi Ngài còn làm Bồ-tát ở thời Phật Thích-ca tu hành, nhập diệt sẽ sanh lên cung trời Đâu-suất ở trong nội điện. Đó là kinh kể lại hành tung công hạnh tu hành của Ngài. Trong kinh Di-lặc Hạ Sanh, Phật Thích-ca nói rằng: Sau thời gian ở trên cung trời Đâu-suất tu hành đến khi mãn duyên thì được gọi là Bồ-tát Nhất sanh bổ xứ tức là vị Bồ-tát chỉ còn một đời nữa thì được bổ làm Phật. Khi mãn duyên ở cung trời Đâu-suất, Ngài mới giáng sanh nơi cõi Ta-bà để rồi tu hành như đức Thích-ca thành Phật hiệu là Di-lặc ở dưới cội Long Hoa.
Bao giờ Ngài ra đời? Đó là điều mà chúng tôi sẽ nhắc lại sau này. Theo trong kinh kể thì thế giới chúng ta đang ở trong thời kỳ giảm. Cứ một trăm năm, con người giảm đi một tuổi, giảm như vậy bao giờ tuổi thọ con người còn mười tuổi. Sau thời kỳ giảm đó rồi tới thời kỳ tăng, cứ mỗi một trăm năm thì tăng một tuổi. Bao giờ tuổi thọ khá cao thì đức Phật Di-lặc mới ra đời. Cho nên trong nhà Phật có câu quở chúng ta: Tu hành thế ấy cho tới đức Phật Di-lặc ra đời cũng chưa gặp được Ngài. Ý nói thời gian xa xôi thật là xa xôi cũng chưa có thể tiến được. Như vậy mà người ta hẹn nay hẹn mai đức Phật Di-lặc ra đời thì sao? Quí vị thấy hẹn đó đúng hay sai? Chẳng qua người ta nghe danh từ trong nhà Phật rồi bắt chước hoặc lợi dụng đó để làm một cái tựa cho người ta tin rồi hướng người về mê tín. Vì vậy người Phật tử chân chánh phải hiểu rõ điều đó, đức Di-lặc không ra đời sớm đâu, ngày ấy còn xa lắm! Bởi vì Ngài còn sanh trên cung trời Đâu-suất, và trong nội điện Đâu-suất một ngày bằng một ngàn năm ở dưới mình. Trên cung trời Đâu-suất, Ngài tu cho tới mãn đời thì biết là bao xa. Vì một ngày cung trời Đao-lợi bằng dưới mình năm trăm năm, một ngày cung trời Đâu-suất bằng một ngàn năm. Ngài tu hết cuộc đời của Ngài khoảng một trăm tuổi thì ở dưới này là bao xa? Khi sự tu hành của Ngài đầy đủ, Ngài mới sanh vào cõi Ta-bà này. Như vậy tại sao chúng ta đến ngày mùng một Tết, đi chùa lễ Phật cho đó là ngày vía đức Phật Di-lặc. Tại sao vậy?
Bồ-tát đâu phải sanh một đời thành Phật. Chưa thành Phật thì cứ chết rồi sanh đời khác tu nữa. Cứ như thế cho tới khi thành Phật, chẳng biết là bao nhiêu đời. Tại sao chúng ta lấy ngày mùng một Tết làm ngày vía Bồ-tát Di-lặc? Việc ấy vẫn có ý nghĩa. Có lẽ rằng chư vị Tổ sư của chúng ta đã thông minh sáng suốt cho nên mới đặt ngày này là ngày vía đức Di-lặc. Bởi vì tất cả hàng Phật tử xuất gia cũng như tại gia ai cũng nghĩ rằng chúng ta tu để đạt đến cái kết quả cuối cùng là thành Phật. Nhưng chừng nào thì chưa biết. Nghĩa là hi vọng cuối cùng của chúng ta là sẽ thành Phật. Như vậy là nhắm tương lai về sau, đó là cái hi vọng về sau này chúng ta sẽ thành Phật.
Ngày Tết Nguyên Đán tức là ngày đầu của một năm. Cũng là ngày hi vọng của toàn dân Việt Nam. Ai cũng nghĩ rằng ngày Tết là ngày hệ trọng phải làm sao tạo điều kiện tốt, hành động tốt, ngôn ngữ tốt, làm toàn việc tốt để rồi có một năm toàn vẹn tốt. Ai cũng mơ ước như vậy. Người Phật tử chúng ta, cũng mong cái tốt đẹp ấy là mai sau sẽ thành Phật như Ngài đương lai hạ sanh Di-lặc Tôn Phật. Mỗi đầu năm chúng ta đều hi vọng tương lai sẽ thành Phật. Chúng ta mong như thế, từ năm này sang năm khác, từ đời này đến đời sau, tới bao giờ thành Phật mới thôi.
Cái mong đó là cái ước mơ chung của toàn thể. Vì vậy mà ngày đầu năm được coi như là ngày vía đức Di-lặc để chúng ta hi vọng, chúng ta tin tưởng ở mai sau chúng ta sẽ thành Phật. Lạy Ngài không phải cầu Ngài ban ơn cho chúng ta, mà với tất cả niềm tin rằng Ngài sẽ thành Phật và chúng ta sẽ thành Phật. Đó là niềm tin căn bản của tất cả người Phật tử vào ngày đầu năm. Giờ đây tôi đi qua đề tài như đã nói là, năm nay dành buổi chúc Xuân cho tất cả quí vị Tăng Ni và Phật tử tức là chúc “Một mùa Xuân tinh tấn”.
Tại sao tôi nói một mùa Xuân tinh tấn?
Đây tôi kể sơ ảnh hưởng về đức Di-lặc cho quí vị nghe. Trong kinh có một đoạn Phật Thích-ca Ngài kể lại rằng: Bồ-tát Di-lặc và đức Thích-ca hai vị đồng phát tâm Bồ-đề một lượt, nhưng khi phát tâm rồi thì Phật Thích-ca chuyên cần tinh tấn tiến tu cho nên Ngài thành Phật đến giờ đã hơn hai ngàn năm trăm năm rồi. Còn đức Di-lặc dù đã phát Bồ-đề tâm Ngài lại thích đi viếng thăm những nhà quyền quí, thích đi chơi chỗ này chỗ kia, thăm người này viếng người nọ, cho nên trong kinh gọi Ngài là Cầu Danh. Bởi Ngài thích rong Nam tẩu Bắc, nên đức Phật đã thành Phật hơn hai ngàn năm trăm năm rồi mà tới sau thăm thẳm kia Ngài mới thành Phật. Mình nghĩ rằng đồng thời tu mà người bạn mình thành Phật trước mình mười năm, mình còn buồn huống nữa là thành Phật đã lâu xa như thế. Cái lỗi đó do đâu? Tại thiếu tinh tấn. Bởi thiếu tinh tấn cho nên phát tâm thì đồng thời mà thành quả thì sai biệt, kẻ trước người sau quá xa. Cho nên trên phương diện tu hành chúng ta đừng có đặt thời gian. Cứ nghĩ rằng tôi tu ba năm người kia tu bốn năm, người nọ tu hai năm thì người tu bốn năm coi như nhiều hơn người ba năm, người ba năm coi như tu nhiều hơn người hai năm. Đặt thời gian như vậy e không đúng. Người tinh tấn tu một năm bằng người thiếu tinh tấn tu hai năm, bằng người giải đãi tu ba năm. Người giải đãi là người làm biếng, chỉ tu cho có chừng thì người đó chắc phải chừng gấp hai gấp ba. Như vậy thời gian không phải là cố định cho người tu là phải mấy mươi năm, mà chỉ giá trị ở sự tinh tấn. Cho nên trong kinh đức Phật Thích-ca nhiều lần Ngài nói rằng: Có những kiếp Ngài tu hạnh Bồ-tát chỉ một đời tinh tấn mà vượt qua bao nhiêu kiếp. Vì vậy tinh tấn là yếu tố then chốt trên đường tu hành. Tôi xin tổng kê những phương pháp tu của đạo Phật để quí vị thấy cái hạnh tinh tấn quan trọng như thế nào.
Nếu nói về giáo lý Thanh văn Tiểu thừa thì Ba mươi bảy phẩm trợ đạo là yếu tố then chốt tu hành thành A-la-hán. Bắt đầu là Tứ niệm xứ, Tứ chánh cần, Tứ như ý túc, Ngũ căn, Ngũ lực, Thất giác chi hay Thất bồ-đề phần, Bát chánh đạo. Tứ niệm xứ thì không có chữ tinh tấn, nhưng qua Tứ chánh cần là bốn điều chuyên cần tức là phải tinh tấn. Tôi nói trong ba mươi bảy pháp tu thì trước hết là Tứ niệm xứ, kế đến pháp thứ hai là Tứ chánh cần. Như vậy cái thứ hai là cái tinh tấn. Đó là nói chung cho ba mươi bảy pháp. Còn nói riêng thì tới Tứ như ý túc tức là bốn cái làm cho mình được như ý, trong đó có Dục như ý túc, kế là Tinh tấn như ý túc. Rồi Ngũ căn, trước là Tín căn, kế là Tấn căn (tinh tấn). Ngũ lực cũng vậy, Tín lực rồi đến Tinh tấn lực. Thất giác chi hay Thất bồ-đề phần thì Niệm giác chi, Trạch pháp giác chi rồi đến Tinh tấn giác chi. Còn Bát chánh đạo thì sau Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng rồi tới Chánh tinh tấn. Như vậy quí vị thấy trong pháp tu không thể thiếu tinh tấn được. Thiếu tinh tấn thì không thành công. Đó là tôi nói Ba mươi bảy phẩm trợ đạo, chỗ nào cũng có tinh tấn đó hết, thiếu thì không đạt kết quả. Rồi đến pháp Bồ-tát thì sao?
Bồ-tát thì tu pháp Lục độ. Lục độ gồm có: 1- Bố thí, 2- Trì giới, 3- Nhẫn nhục, 4- Tinh tấn. Như vậy cũng có tinh tấn. Do có tinh tấn rồi Thiền định mới tới Trí tuệ.
Như vậy trong pháp tu của Phật, tinh tấn không thể thiếu được. Nhờ trí tuệ nhận xét, chúng ta biết được giáo lý của đức Phật dạy, nói theo danh từ chuyên môn là chân lý. Biết được chân lý rồi thì phải nỗ lực tiến hành, chớ không phải biết rồi thả trôi rề rề được, mà phải nỗ lực. Nỗ lực đó gọi là tinh tấn. Tinh tấn là một đức tánh rất là thiết yếu trên phương diện tu hành. Vì vậy đức Thích-ca nhờ tinh tấn mà thành đạo được sớm, còn ngài Di-lặc vì thiếu tinh tấn cho nên phải kéo dài đến mấy muôn năm so với thời gian trong cõi mình. Đó là điều mà chúng tôi thấy mọi người chúng ta cần phải tu tinh tấn. Như vậy hạnh tinh tấn phải tu cách nào? Chia tổng quát ra làm bốn giai đoạn tu tinh tấn.
1- Lấy Tứ chánh cần.
2- Để trừ tam độc.
3- Tinh tấn để trừ hai con quỉ tán loạn và hôn trầm.
4- Đại tinh tấn.
Đó là đường lối tôi phác họa ra nói về đề tài tinh tấn.
1. Tu Tứ chánh cần.
Có nhiều người nghe nói siêng năng tưởng là cuốc rẫy trồng khoai hay siêng năng cái gì? Nhưng không phải. Siêng năng của nhà Phật chia ra làm bốn thứ:
- Điều ác chưa sanh thì cố gắng đừng cho nó sanh.
- Điều ác đã sanh thì nỗ lực bỏ nó làm cho nó tiêu diệt đi.
- Điều thiện chưa sanh phải kích phát cho nó sanh.
- Điều thiện đã sanh phải làm sao cho nó tăng trưởng.
Như vậy quí vị thấy chúng ta phải tinh tấn chuyên cần: chuyên cần ngăn chận những điều ác, chuyên cần phá hoại cái ác đã lỡ làm, chuyên cần gây dựng cho điều thiện phát sanh, chuyên cần làm cho điều thiện được tăng trưởng. Đó là tôi kể tên của Tứ chánh cần để quí vị nhớ bốn điều chuyên cần chân chánh của người Phật tử.
Người nào là Phật tử phải nhớ như vậy.
- Điều ác chưa sanh.
Thí dụ mình chưa biết cờ bạc tức là điều ác chưa sanh. Có người rủ thì mình phải làm sao? Nhất định từ chối. Không làm để khỏi mắc kẹt trong tội lỗi đó. Như vậy điều ác chưa có thì phải giữ trọn vẹn cho nó được tốt luôn. Còn như mình chưa biết uống rượu, nhưng có ai mời, bạn bè rủ mình, mình cũng ráng đừng cho nhiễm trong đường đó. Có nhiều người không biết uống rượu, bị người ta rủ thì uống liền. Như vậy chưa có điều xấu, lại tạo thành điều xấu, chưa có tội lỗi gây thành tội lỗi, chưa phải là chánh cần. Cho nên ngăn ngừa là một sức cố gắng, phải nỗ lực chớ không phải là ngừa suông. Ở thế gian có những cái khổ, mình không có những tật xấu, người có tật xấu họ muốn mình giống họ. Nghĩa là mình không có say rượu, không bị ngã bờ ngã bụi họ muốn làm sao cho mình giống họ. Nếu mình không chịu ngồi chung bàn với họ thì họ sẽ nói làm sao? Hoặc giả họ nói mình keo kiệt sợ tốn tiền, hoặc giả sợ về bà xã rầy, làm cho mình tức lên. Họ làm nhiều cái làm cho mình tức, rồi nghĩ trong bụng nếu mình không làm như vậy nó khi dễ mình đi. Đó là họ làm cách thả câu, nếu mình đớp mồi là mắc câu. Cho nên mình phải gan dạ, dù cho họ nói xấu mình, họ nói nhục mình, mình vẫn gan dạ, không bao giờ sợ, không bao giờ để bị kích động mà sanh ra cái dở. Đó là một sức cố gắng chớ không phải thường, phải gan dạ lắm mới được. Có một người Phật tử kể câu chuyện sau khiến tôi rơi nước mắt.
Một ông Phật tử quê cách Cai Lậy năm, sáu cây số, ông qui y tại chùa Thiên Phước. Mấy năm khoảng một ngàn chín trăm năm mươi mấy, đồn bót còn nhiều lắm, thuộc về Pháp, cho nên mấy chú lính là oai lắm. Muốn giết là giết, muốn bắn ai là bắn. Người Phật tử đó đã qui y thọ năm giới rồi. Ông khoảng năm mươi tuổi. Khi đó nhằm chiều mười bốn, hay rằm gì đó, ông đi chùa sám hối. Ông đi về ngang bót, trong bót có một người lính cũng quen ở gần nhà. Chú lính quen chào và hỏi ông đi đâu, ông trả lời tôi đi chùa về. Chú xếp bót uống rượu ngà ngà, chú thấy mới kêu vô ngồi uống rượu. Kêu không vô sợ bắt lỗi, đã lỡ rồi ông Phật tử đành bước lại. Mấy người trong tiệc bảo uống rượu. Ông từ chối, thưa: “Dạ tôi không biết uống rượu.” - “Cứ uống đi, chết tôi chịu cho.” Ông túng quá phải nói thật: “Thưa ông xếp tôi đã qui y thọ năm giới, tôi giữ giới không uống rượu.” - “Uống đại đi, Phật quở tôi chịu cho.” Cùng quá ông nói thầm trong bụng, giả sử bắn thì bắn chớ không uống rượu. Ông tìm cách năn nỉ: “Tôi đã lỡ thọ giới rồi xếp thương tha cho tôi. Tôi uống phạm tội nghiệp.” Chúng nó ép uống nếu không uống thì nó bắn. Năn nỉ quá mà nó cũng không chịu, nó đòi bắn. Bảo uống chớ không uống thì bắn, nó không cho đi. Có một người quen ở gần lối xóm biết ông là người lương thiện, mới xô bảo: “Anh đi đi, anh này dốt lắm. Thôi xếp đừng ép ảnh. Ảnh ngu không biết ăn chơi gì hết.”
Ông đi rồi, ông nghĩ giả sử bị bắn thì chịu bắn chớ nhất định không uống.
Mình thấy người Phật tử gan dạ như vậy thật là hiếm có. Chớ còn đa số thì làm sao? - Thôi uống để nó cho đi cho rồi. Cái lối say ba ngầu có biết gì phải quấy.
Một câu chuyện khác cũng nói về giới uống rượu.
Ngày xưa có một vị làm quan lớn biết Phật pháp. Có người phạm tội. Ông nói: “Bây giờ tôi bắt anh làm ba việc, anh xem coi anh nên làm việc nào? Một là anh uống rượu, hai là anh đốt nhà, ba là anh giết người. Trong ba tội ác ấy, anh thích tội nào và chọn tội nào anh cho rằng nhẹ nhất.” Anh chàng suy nghĩ một hồi rồi nói: “Thôi tôi xin lãnh uống rượu.” Không ngờ anh uống rượu say, anh nổi điên đốt nhà người ta, người ta cự anh, anh giết người ta luôn.
Như vậy tội hết sức nhẹ mà nó trùm luôn tất cả tội nặng. Cho nên hiểu rằng uống rượu mà Phật cấm không phải là vô lý. Chính nó làm cho người ta cuồng dại, khi cuồng dại rồi thì tội nào cũng dám làm hết. Vì vậy người Phật tử chân chánh, phải ngừa phải đón đừng để cho mình mắc kẹt vào cái lỗi đó. Phải có ý chí như vậy, sự tu mới tiến được. Đó là tôi nói về điều ác chưa sanh. Trong những buổi tiệc nhất là tuổi trẻ, phải nỗ lực lắm, chiến đấu ghê gớm. Chỗ đó chính là Chánh cần vậy. Nỗ lực lắm mới chận được tội lỗi chưa sanh, nếu không cố gắng thì cái chưa sanh dễ phát sanh lắm.
- Điều ác đã sanh.
Người Phật tử đã thọ giới qui y, mà giới thứ năm lỡ ghiền rượu rồi bây giờ không thể bỏ được, nên chỉ thọ bốn giới, còn chừa một giới. Vì lỡ ghiền rượu rồi, bỏ thì bỏ không nổi. Bây giờ mình cần giữ bốn giới suốt đời sao? Năm nay thọ bốn giới, năm tới nhất định phải giữ năm giới. Như vậy là điều ác đã sanh rồi, mà phải ráng bỏ dù ghiền mà bỏ có phải ụa thì ụa, mửa thì mửa. Chừng nào bỏ được thì thọ thêm một giới. Như vậy điều ác đã sanh mình phải nỗ lực tiêu diệt, chớ đừng để nó kéo dài mãi. Đó là một cố gắng phi thường. Thí dụ như người quen uống rượu, những người quen làm tổn thương người, họ quen làm rồi, bây giờ bỏ cái đó thì họ coi như khó sống hay là khó chung chạ với bạn bè. Cần phải nỗ lực can đảm mới làm được, vì vậy mà nói là “cần”. Cần là cố gắng. Đó là điểm thứ hai, điều ác đã sanh chúng ta phải nỗ lực cố gắng mà tiêu diệt nó.
- Điều thiện chưa sanh.
Con người thông thường vô tình, thấy một người đi đường vấp té, mình cứ tỉnh bơ mà đi. Đáng lẽ mình phải tới đỡ người ta lên xem họ có thương tích gì không, băng bó cho họ, nếu cần thì đưa họ về nhà. Đó là điều thiện mà mình không chịu làm. Điều đó làm được đâu đến nỗi nào, mà chưa có trong lòng mình. Mình quen lơ là vô tình, vô nghĩa như vậy. Bây giờ mình biết đạo lý, mình phải có lòng từ bi, phải thương phải giúp những người khổ hoạn nạn. Đó là tôi nói người gặp tai nạn té, còn những trường hợp khác cũng vậy. Nếu gặp ai khổ, nhiều khi mình ngó lơ, không thèm để ý gì tới. Bây giờ trong cảnh đó mình có thể làm được mình ráng kích động cho lòng mình thương xót để cố gắng mà làm. Cái thói quen lơ là, là một điều tiêu cực. Muốn cho tích cực thì phải cố gắng thúc đẩy thì nó mới phát lên, vì vậy cần phải nỗ lực mới có thể làm điều thiện được.
- Điều thiện đã sanh phải làm cho tăng trưởng.
Trên đường tu nếu chúng ta chưa thành Phật thì chưa bao giờ hài lòng, ngày nào thành Phật mới thoả nguyện. Những phước đức chúng ta đã tạo hoặc nhiều hoặc ít cũng chớ nên hài lòng. Trong kinh Tăng Nhất A-hàm, đức Phật có dạy chúng ta đừng bao giờ sợ phước mà luôn luôn sợ tội. Tội là chướng khổ làm cho ta lui sụt, cần phải sợ phải tránh. Phước là duyên tốt giúp ta tiến tu dễ dàng nên lúc nào cũng phải làm. Vì vậy chúng ta không nên thỏa mãn với việc làm phước. Chính đức Phật còn bòn mót từ phước xỏ kim. Trong kinh kể ngài A-na-luật-đà do tinh tấn tu hành mà mù cả hai mắt. Một hôm muốn vá lại chiếc y, nhưng xỏ kim không được, Ngài mới than: “Ai làm phước xỏ kim giùm tôi.” Đức Phật đi ngang nghe được, bảo: “A-na-luật-đà, đưa ta xỏ cho.” Ngài giật mình thưa: “Bạch Thế Tôn, Như Lai là bậc phước đức trên tất cả mà còn làm phước chi nữa?” Phật dạy: “Chính ta đã đầy đủ phước đức mà còn bòn mót từ phước xỏ kim.”
Đức Phật còn như thế, huống là chúng ta mới làm được chút ít phước mà đã hài lòng tự mãn. Chúng ta phải luôn nhớ hình ảnh này của đức Phật để khi làm được điều tốt không nên hài lòng, phải nỗ lực hết khả năng. Đối với phước đức đừng bao giờ thấy đủ.
Một số Phật tử làm việc từ thiện than có những điều thật khó làm. Ví dụ đi cứu trợ nạn lụt, ban tổ chức chỉ đem theo một trăm gói gạo, thế mà họ tới một trăm mười người. Những người không được quà họ chửi mình. Như vậy làm sao không chán! Muốn không chán cần phải nỗ lực lắm mới được. Khi làm những điều lành, điều tốt, vẫn có những chướng ngại làm cho chúng ta dễ chán nản. Do đó phải bền chí, nỗ lực mới viên mãn được việc làm phước của mình.
Tôi nhắc lại tinh tấn bước đầu có bốn điều:
- Tinh tấn ngăn ngừa những điều ác chưa sanh đừng cho sanh.
- Tinh tấn tiêu diệt những điều ác đã sanh.
- Tinh tấn kích phát những điều lành chưa sanh khiến cho sanh.
- Tinh tấn làm tăng trưởng những điều lành đã sanh.
Bốn điều tinh tấn căn bản trên đây, Tăng Ni và Phật tử đều phải tu tập.
2. Trừ tam độc.
Tam độc là tham, sân và si. Muốn tiêu diệt nó phải có từ bi và trí tuệ. Tập hạnh từ để diệt lòng tham. Tham là muốn gom của thiên hạ đem về mình, dùng mọi thủ đoạn để thỏa mãn lòng tham làm cho kẻ khác đau khổ. Từ là lòng thương ban vui cho tất cả. Thấy ai chúng ta cũng thương xót muốn cho họ được vui, thì lòng tham không thể khởi được. Đó là dùng hạnh từ để diệt lòng tham.
Muốn lòng bi để trừ sân hận. Bi là nhổ hết gốc khổ của chúng sanh. Bởi có lòng bi không nỡ làm cho ai đau khổ. Sợ người đau khổ, khi nổi giận chúng ta không thể mắng chửi đánh đập họ, nên vừa dấy niệm giận liền nhớ điều này thì cơn giận lắng dịu.
Như vậy do từ mà diệt được lòng tham, do bi mà diệt được sân hận. Cho nên điều căn bản tu hành là chúng ta phải có lòng từ bi. Làm sao đối với mọi người, chúng ta thương như người thân của mình. Không nỡ làm khổ người thân tức nhiên không nỡ làm cho tất cả chúng sanh khổ. Đó là lòng từ bi. Lòng từ bi giúp chúng ta dẹp dần tâm tham lam và sân hận. Người nào mình thương có làm điều gì bực tức, mình cũng dễ tha thứ. Còn người mình ghét, có sơ hở một chút thì nổi giận liền. Thương thì lỗi mười giảm còn hai ba, ghét thì hai ba tăng lên bảy tám. Người mình thương thì muốn chia sẻ cho họ được đầy đủ. Ngược lại, người mình ghét thì muốn họ thua thấp hơn mình. Cho nên lòng thương giúp chúng ta bớt nóng giận, bớt tham lam, bỏn sẻn. Vì vậy mà phải tập từ bi đối với mọi người.
Trong đạo Phật, lý luân hồi giúp chúng ta dễ khởi từ bi. Tất cả chúng sanh, ai sanh ra đây cũng không phải mới một lần, mà đã trải qua vô số đời rồi. Đời nào sanh ra cũng có ông bà, cha mẹ, anh em, con cháu, bà con quyến thuộc để mình thương, ít nhất cũng được vài chục người. Ngoài ra còn thầy bạn v.v… đáng cho mình lo, ít nhất cũng vài chục người nữa. Vô số đời như vậy thì trên thế gian này đâu còn ai xa lạ, tất cả chúng sanh đều là thân thuộc của mình. Tỉ như hai gia đình bà con chú bác ruột xa nhau, mười năm không gặp, thì không thể biết được những đứa cháu mới ra đời sau này. Ngay cả những đứa cháu gần mình thuở năm ba tuổi, bây giờ gặp lại chúng ta cũng không nhận ra. Như vậy bà con trong một đời lâu ngày không gặp còn quên thay, huống là bà con nhiều đời. Cho nên chúng ta dùng tâm quán tất cả người thế gian nếu không phải bà con ruột thịt đời này, cũng là bà con ruột thịt đời trước hoặc nhiều đời trước nữa. Nếu mình thương bà con ruột thịt bây giờ, tại sao không thương bà con ruột thịt trước kia? Vì tất cả đều là bà con ruột thịt hết, đâu nỡ hại ai, do đó khởi tâm từ bi. Nhờ trí quán xét ấy mà lòng từ bi tăng trưởng, tham và sân giảm dần đi.
Kế đến là si. Si mê thì dùng Trí tuệ Bát-nhã quán chiếu để dẹp. Si mê có hai: si mê về thân, si mê về cảnh. Thân này do duyên hợp mà tưởng lầm là thật, là cố định nên ngã mạn, chấp trước, hơn thua phải quấy. Lúc nào cũng thấy mình là quan trọng, nếu mọi người không để ý tới thì buồn giận, tức tối. Trong đạo, ai cho ta tu lơ là không ra gì ta cũng giận. Vì bản ngã mà mình tạo ra không biết bao nhiêu tội lỗi. Bản ngã có, là vì mình lầm nhận thân thật cố định. Nếu thân thật cố định thì ông bà cha mẹ mình cũng còn hoài, nhưng ông bà cha mẹ mình đã chết hoặc sẽ chết, thì mình cũng thế. Như vậy tất cả chúng ta đều là tướng duyên hợp, còn mất tùy duyên. Dùng trí Bát-nhã quán xét như vậy thì phá được si mê. Phá được si mê thì dứt được ngã mạn, tức là dứt được giận hờn tật đố xấu xa.
Người học Phật cần tu tập hai hạnh căn bản từ bi và trí tuệ, tức là phước trí song tu. Phước là từ bi, tuệ là trí tuệ. Muốn thành Phật phước và trí không thể thiếu, cho nên đức Phật được gọi là bậc Lưỡng túc tôn. Chúng ta tu phải nỗ lực tinh tấn, để lòng từ bi ngày càng tăng trưởng, cố gắng dùng trí tuệ quán sát thân này để đừng lầm. Thân không lầm thì đối cảnh chúng ta cũng hết lầm. Thấy rõ thân cảnh là duyên hợp, thì tất cả sanh tử được mất, cả thế gian không còn chi phối chúng ta được nữa. Đó là điều tinh tấn thứ hai.
3. Trừ tán loạn và hôn trầm.
Tinh tấn thứ ba là tinh tấn của người chuyên tu, để trừ hai loại ma hôn trầm và tán loạn. Khi ngồi thiền nếu tâm không nghĩ chuyện này chuyện nọ thì gục lên gục xuống, đó là ma hôn trầm nhập rồi. Nếu chấn chỉnh qua được hôn trầm thì tới tán loạn, nhớ chuyện này chuyện nọ, cái hay cái dở. Hết nói chuyện thì hình ảnh, hết hình ảnh thì nói chuyện. Ngồi một mình mà nói chuyện hoài, nhớ người này nhớ người nọ, không cho một niệm dừng. Bị hai con ma này nhập rồi thì nó dẫn chạy hoài, một giờ ngồi thiền rốt cuộc không còn được bao nhiêu.
Làm sao trị hôn trầm? Loại ma này nguy hiểm lắm. Người mới tu ít sợ hôn trầm mà sợ tán loạn. Người tu khá ít sợ tán loạn mà sợ hôn trầm. Người tu khá, tâm hơi yên thì bắt đầu buồn ngủ, tức là hôn trầm. Người mới tu, ngồi lại thì lo đau chân, nhớ những việc xảy ra trong ngày, nhớ hoài không bỏ được, nên bị tán loạn. Ma tán loạn thấy nó khó mà dễ trị. Vì tán loạn là tâm chạy đầu này đầu nọ, khi tu hơi thuần thục, dùng trí quán biết nó là bóng dáng không thật, chúng ta buông, dần dần nó lặng. Trị ma hôn trầm mới thật là cay đắng. Vừa ngồi yên yên gục hồi nào không hay, giật mình thì việc đã rồi. Chúng ta chống không được, cũng không biết đâu mà chống. Ma tán loạn quán chiếu thì lặng, còn ma này không biết đâu mà ngừa. Trong A-hàm có bài kinh Trưởng lão Thùy Miên, Trưởng lão là người đã đắc đạo mà ngồi thiền vẫn gục như thường, huống là phàm phu chúng ta làm sao khỏi gục. Ngủ gục rất khó trị chớ không phải thường, muốn trị phải làm sao?
Có vị Thiền sư ngồi thiền ngủ gục, không có cách nào trị nổi, Ngài mới nghĩ nếu như vầy thà chết còn hơn. Ngài lên núi, tìm một nhánh cây gie ra ngoài vực thẳm, rồi leo lên đó ngồi thiền, thầm nghĩ cho mầy gục. Mầy gục cắm đầu rơi xuống dưới nát thây cho rồi. Chính nhờ sợ nát thây nên không dám gục. Hết gục Ngài được chứng đạo. Phương tiện này thật là thù thắng, phải gan dạ lắm mới làm được, gan vừa không làm nổi đâu.
Người xưa cũng khổ sở như mình, nhưng nhờ sức cố gắng nên các ngài thắng được. Trong kinh có dạy nhiều cách điều trị hôn trầm. Ngồi thiền con mắt nhìn xuống nên dễ ngủ gục. Khi lỡ gục thì phải chấn chỉnh, mở mắt to lên. Khi ngồi thiền cần để đèn sáng vừa phải, mắt mở vừa chừng. Vì để tối và nhắm mắt dễ buồn ngủ. Mở mắt lớn dễ bị tán loạn, mở vừa chừng mà gục thì mở lớn, trợn mắt, chấn chỉnh lại. Nếu còn gục thì đứng dậy lễ Phật đi kinh hành, kinh hành mà chưa hết thì rửa mặt. Rửa mặt mà không hết nữa thì đến trước Phật tha thiết lạy sám hối. Phải thay đổi luôn luôn như vậy khả dĩ mới trị được nó. Chúng ta tu mà tán loạn và hôn trầm là tại thiếu sức tinh tấn. Muốn tinh tấn thì lúc nào cũng khắc chữ “tử” trên trán. Thà chết chớ không để cho tán loạn và hôn trầm xâm nhập. Do sức tinh tấn liên tục mà qua được cơn ngủ và tán loạn. Như vậy muốn thắng được buồn ngủ và tán loạn phải dùng sức mạnh tinh tấn mà trong nhà thiền gọi là phát tâm tha thiết, thà chết chớ không để cho ma dẫn. Đó là tinh tấn để trị ma hôn tán.
4. Niệm khởi liền biết.
Đến tinh tấn thứ tư, không phải chỉ ngồi thiền mà đây là phần chuyên môn trong Thiền tông. Chúng ta phải tập làm sao trong bốn oai nghi đi đứng nằm ngồi lúc nào cũng tu, nghĩa là đi đứng nằm ngồi luôn luôn tỉnh giác. Một niệm khởi lên liền biết, không cho niệm nào dẫn đi. Như vậy cả ngày trong bốn oai nghi đi đứng nằm ngồi đều làm chủ, không mất một phút giây nào, đó là đại tinh tấn. Nếu chúng ta tinh tấn như thế, thì không còn dụng công bằng hình thức lễ bái, mà trong bất cứ hoạt động nào cũng vẫn làm chủ được mình. Người được như vậy đối với đạo không còn xa, chắc chắn sẽ thoát ly sanh tử.
Để kết thúc buổi nói chuyện về mùa Xuân tinh tấn này, tôi đọc lại bài kệ của Thiền sư Hoàng Bá:
Trần lao quýnh thoát sự phi thường
Hệ bả thằng đầu tố nhất trường
Bất thị nhất phiên hàn triệt cốt
Tranh đắc mai hoa phốc tỹ hương.
Dịch:
Vượt khỏi trần lao việc chẳng thường
Nắm chặt đầu dây giữ lập trường
Chẳng phải một phen xương lạnh buốt
Hoa mai đâu dễ ngửi mùi hương.
Thoát khỏi trần lao là việc phi thường. Như người leo núi phải nắm dây cho thật vững. Đây cũng vậy, muốn thoát khỏi trần lao phải nắm chặt mối dây. Mối dây ở đây là mối dây buông hết vọng tưởng, phải hằng tỉnh giác, giữ lập trường không lay chuyển, dù gặp hoàn cảnh nào. Đó là đức tinh tấn.
Cũng như muốn ngửi được mùi hương ngạt ngào của hoa mai thì phải chịu một phen lạnh thấu xương.
Chúng ta muốn đạt được kết quả viên mãn của người tu, thì phải hết sức nỗ lực, cam chịu mọi khó khăn nguy khốn. Như vậy phải nỗ lực tinh tấn không lúc nào dám lười biếng, không lúc nào dám giải đãi thì sự tu hành của chúng ta sẽ được như nguyện, đúng theo những gì chúng ta phát tâm mong cầu.
Năm nay là năm Tân Dậu chúng tôi mong rằng tất cả Tăng Ni và toàn thể Phật tử khởi đầu năm tinh tấn này, trọn năm sẽ là ngày Xuân tinh tấn. Phải cố gắng như chúng tôi đã nói, dù căn cơ khác nhau, nhưng lúc nào cũng phải cố gắng. Như vậy mới xứng đáng là người Phật tử chân chánh. Như vậy mới mong thoát ly sanh tử được.
NIỀM VUI ĐẦU XUÂN
Năm Quí Hợi - 1983
Hôm nay là Tết Nguyên Đán, năm Quí Hợi, 1983 DL, chư Tăng Ni và Phật tử đến đây chúc mừng năm mới và cầu tuổi thọ cho tôi. Vì tôi có một chút niềm vui, nên muốn nói chuyện nhiều với quí vị nhân buổi đầu xuân.
Một hôm, đang ngồi nghỉ, bỗng dưng tôi nhớ đến câu chuyện Thiền sư Huệ Hải đến hỏi đạo với Mã Tổ. Khi Huệ Hải đến, Mã Tổ hỏi: “Ông đến đây cầu việc gì?” Huệ Hải thưa: “Con đến đây cầu Phật pháp.” Mã Tổ bảo: “Kho báu nhà mình chẳng đoái hoài, bỏ nhà chạy đi tìm cái gì?” Huệ Hải thưa: “Cái gì là kho báu của Huệ Hải?” Mã Tổ nói: “Chính cái ngươi hỏi ta, đó là kho báu của ngươi, đâu nhờ tìm cầu bên ngoài.” Ngay câu này, ngài Huệ Hải liền nhận ra kho báu nhà mình, vui mừng lễ tạ. Về sau, khi giáo hóa đồ đệ, Ngài bảo: “Từ khi ta đến Mã Tổ, nhận được kho báu nhà mình đến giờ sử dụng tự tại, không bao giờ thiếu thốn.” Khi ấy bỗng dưng tôi tự hỏi: “mình thiếu thốn cái gì”, rồi tôi cười…
Tôi lại nhớ đến hai thí dụ trong kinh Pháp Hoa: thí dụ Cùng tử và thí dụ Hệ châu.
Các đệ tử lớn của đức Phật, sau khi ngộ được Tri kiến Phật, mới trình lên thí dụ “Cùng tử”, để đức Phật ấn chứng. Cùng tử từ thuở nhỏ, đã bỏ cha trốn đi lang thang ở xứ người, sống chật vật nghèo khổ. Khi tuổi đã lớn, chàng tình cờ về đến cố hương. Gặp lại cha sống trong cảnh giàu sang quyền quí, chàng không dám nhìn cha. Vì không nhận ra ông Trưởng giả đầy thế lực kia là cha mình, nên cùng tử hoảng sợ bỏ chạy, khiến ông Trưởng giả phải khổ nhọc sai ngưởi đi dụ dỗ. Sau cùng chàng chịu trở về với tư cách làm thuê cho ông Trưởng giả, chớ không dám tự nhận mình là con. Lần lần về sau, nhờ sự khôn ngoan khéo léo, nên đến giờ sắp chết, ông gọi người con đến và hội cả thân tộc lại, mới tuyên bố rằng: “ngươi thật là con ta, ta thật là cha ngươi…” và trao cả sự nghiệp cho chàng. Từ đó cùng tử mới thấy mình thật là con ông Trưởng giả và thừa hưởng sự nghiệp của cha.
Qua thí dụ trên, chúng ta nhận thấy chàng cùng tử đi lang thang, khi trở về không dám nhận ông Trưởng giả là cha, nên hoảng sợ bỏ chạy. Và khi được dụ dỗ mới trở lại. Nếu chàng cùng tử ấy ngay khi trở về liền tự nhận mình là con thì chắc khỏi bận tâm người cha.
Đến thí dụ “Hệ châu”. Đây là hình ảnh một người cùng khổ đói rét về thăm bạn thân, rồi say rượu nằm ngủ. Người bạn thương, cột trong chéo áo của anh một hạt châu quí nhưng vì say nên anh không hay biết. Người bạn bận việc phải đi, anh chàng say khi tỉnh dậy bèn đi lang thang xứ này xứ khác, vì việc ăn mặc mà phải gắng sức cầu tìm rất là khổ nhọc. Một hôm, người bạn thân gặp lại anh bèn nói: “Ngày xưa tôi đã tặng anh một hạt châu quí, giá trị vô luợng, cột trong chéo áo của anh, nếu anh đem ra dùng thì sẽ thành một cự phú, đâu phải sống lang thang đói rét đến thế này.” Người bạn mới chỉ thẳng hạt châu cho anh. Nhận ra hạt châu, anh chàng kia liền hết thiếu thốn, nghèo khổ.
Qua thí dụ trên chúng ta thấy chỉ cần một phen nhận lại mình có hạt châu thì hết nghèo; nếu quên mình có hạt châu thì đói khổ, nhớ mình có hạt châu thì giàu có.
Như vậy cái giàu có và nghèo khổ cách nhau bao nhiêu. Chỉ giữa tỉnh và mê. Ví như cùng tử khi gặp lại cha, nhận ngay cha mình là ông Trưởng giả, lúc ấy tuy chưa thay đổi y phục nhưng còn thấy mình là cùng tử hay không? Và anh chàng có sẵn hạt châu trong chéo áo, vừa nhớ lại mình có hạt châu, lúc ấy tuy còn đội nón lá, mặc áo rách, nhưng anh còn thấy mình nghèo chăng? Cái nghèo của cùng tử và của gã say, lỗi tại chỗ nào? Chỉ tại quên mình là con ông Trưởng gia, chỉ tại quên mình là người có hạt châu.
Kinh Pháp Hoa rất cao siêu, thuộc về Đại thừa đốn giáo, đốn nghĩa là nhanh. Nhớ mình là con ông Trưởng giả, nhớ mình có hạt châu, liền thấy mình giàu. Quên mình là con Trưởng giả, quên mình có hạt châu, là kẻ bần cùng. Chỉ trong tích tắc đồng hồ bỏ nghèo thành giàu, chỉ trong tích tắc đồng hồ chuyển mê thành ngộ. Đó là chỗ cao siêu đốn ngộ của kinh Pháp Hoa. Đó cũng chính là chỗ nhận ra kho báu nhà mình của Thiền sư Huệ Hải. Chỉ ngay câu nói của Mã Tổ, ngài Huệ Hải liền nhận ra kho báu nhà mình vốn tự đầy đủ, chưa từng thiếu thốn, không phải đi lang thang cầu pháp nơi này nơi khác. Chỉ một phen nhận ra một cách nhanh chóng kho báu nhà mình liền trở thành người giàu có, đó gọi là đốn ngộ. Còn quên gọi là mê, mê lộ là quên đường. Chỉ vì quên kho báu của chính mình nên chúng ta lang thang đi trong luân hồi sanh tử không biết bao nhiêu kiếp. Cho đến ngày nay, tuy đôi lúc tỉnh giác trở về với đạo, nhưng vẫn còn thấy mình nghèo thiếu, nên đi học hỏi nơi này nơi kia, tìm cầu bên ngoài, nếu nhớ lại thì hết đói khát thiếu thốn. Đó là tinh thần đốn ngộ của Thiền tông, là tinh thần “truyền đốn pháp” trong bài kệ của Lục Tổ, cũng là tinh thần đốn ngộ của kinh điển Đại thừa.
Pháp đốn ngộ này không có thời gian, như câu chuyện Long nữ thành Phật trong kinh Pháp Hoa. Long nữ là con gái của vua rồng, mới tám tuổi mà căn tánh lanh lẹ, có trí tuệ thấy rõ các pháp, được ngài Văn-thù-sư-lợi hóa độ nên chứng được quả Vô thượng Bồ-đề mau chóng. Ngài Xá-lợi-phất không tin việc này. Vô lý, thân nữ lại thuộc loài súc sanh, mà được thành Phật, việc này khó tin. Long nữ có một hạt châu quí báu, đem dâng lên đức Phật. Phật liền nhận lấy. Long nữ nói với Tôn giả Xá-lợi-phất: Tôi dâng châu báu, đức Thế Tôn nhận lấy, việc này trong khoảng bao lâu? Đáp: Trong chốc lát. Long nữ nói: Tôi thành Phật cũng nhanh như vậy.
Thật vậy, nếu chúng ta nhận mình là con ông Trưởng giả thì trong chớp mắt mình không còn là kẻ lang thang đói rách nữa. Nếu chúng ta biết mình có hạt châu trong chéo áo, dù có ai chê cười mình là kẻ ăn mày nghèo khổ, mình vẫn thản nhiên vì biết mình là cự phú. Nhận rõ được điều này, chúng ta không còn lo sợ thiếu thốn. Nghĩ như vậy tôi cảm thấy vui vì năm nay chúng ta đều là những người giàu có, là những cự phú ngày mai.
Kinh điển Đại thừa thường hay nói mê và ngộ nhanh như trở bàn tay. Vì sao? Vì mê là chúng sanh, ngộ là Phật. Hạt châu đã sẵn trong túi áo, chỉ cần nhớ lại mình có hạt châu là thành kẻ giàu, cái nhớ lại chỉ trong khoảnh khắc, không thể nói thời gian được. Tuy chúng ta chưa bán hạt châu để sắm xe cộ, nhà cửa v.v… nhưng chúng ta chắc chắn không phải kẻ nghèo khổ. Cũng như vậy, một phen ngộ rồi chúng ta là Phật tương lai không nghi ngờ gì, ngộ rồi chúng ta không còn là chúng sanh lang thang nữa. Trong nhà thiền thường nói mê là chúng sanh, ngộ là Phật. Chỉ mê và ngộ thôi, cũng như chỉ nhớ và quên thôi. Nhớ và quên còn mau hơn cả cái tích tắc đồng hồ, không thể định thời gian được. Đó gọi là đốn ngộ, nghĩa là ngộ nhanh không tưởng được. Mê thì Phật là chúng sanh, quên mình có hạt châu, thấy mình là kẻ ăn mày. Ngộ thì chúng sanh là Phật, chính kẻ ăn mày nhận ra hạt châu trong chéo áo, thấy mình là tay cự phú.
Nhưng thử hỏi, vì sao chúng ta không giác ngộ, mà cứ mãi si mê như vậy? Đó là câu hỏi mà người tu hành vẫn thường thắc mắc. Lỗi tại đâu mà chúng ta không ngộ, mà cứ mê hoài? Sau đây là câu chuyện của ngài Sa-di Cao. Sa-di Cao đến với Thiền sư Dược Sơn. Dược Sơn hỏi: “Ta nghe nói ở Trường An ồn ào lắm phải chăng?” Sa-di Cao trả lời : “Xứ con an ổn.” Qua câu trả lời, chúng ta thấy ngài Sa-di Cao là kẻ giàu phải không? Và tại sao giàu? Ngài Dược Sơn hỏi tiếp: “Ngươi do đọc kinh mà được hay do thưa hỏi được?” Sa-di Cao thưa: “Không do đọc kinh cũng không do thưa hỏi.” Dược Sơn bảo: “Những người khác không đọc kinh, không thưa hỏi, tại sao họ không được?” Sa-di Cao thưa: “Không phải họ không có, tại vì họ không chịu nhận thôi.” Chính vì những người khác không nhận cái ấy sẵn có nơi mình, nên làm kẻ nghèo lang thang. Chỉ một phen nhận ra, từ đó về sau đi đứng nằm ngồi không bao giờ quên, không bao giờ thấy mình là kẻ nghèo đói thiếu thốn nữa.
Khi nghe hỏi Trường An ồn ào lắm phải chăng, ngài Sa-di Cao trả lời: Xứ con an ổn. Vậy xứ Ngài là xứ nào? Vì Trường An là kinh đô ồn náo, xứ của Ngài có phải ở trong đồng hoang rừng vắng chăng? Nếu ai chỉ được chỗ ấy là biết xứ của Ngài. Để chỉ người dám chỉ, chúng tôi xin dẫn câu chuyện của ngài Qui Chơn. Qui Chơn đến với Tổ Qui Sơn. Tổ hỏi: “Ngươi tên gì?” Đáp: “Dạ con tên Qui Chơn.” Tổ hỏi: “Qui Chơn ở chỗ nào?” Ngài trả lời không được, rồi từ giã Tổ xuống núi, và gặp ngài Ngưỡng Sơn đang chăn trâu. Ngưỡng Sơn hỏi: “Sao Thượng tọa lên núi xuống mau vậy?” Qui Chơn đáp: ‘Tại vì cơ duyên không hợp.” Hỏi: “Vậy Hoà thượng hỏi gì?” Đáp: “Hoà thuợng hỏi tôi tên gì, tôi nói Qui Chơn, rồi Hoà thượng hỏi Qui Chơn ở đâu, tôi trả lời không được nên xuống núi.” Ngưỡng Sơn nói: “Thôi Thượng tọa trở lên thưa: Con nói được. Hoà thượng hỏi ở đâu, Thượng tọa chỉ đáp “trong mắt, tai, mũi…” Qui Chơn vội vã trở lên thưa: “Con trả lời được.” Tổ hỏi: “Qui Chơn ở đâu?” Ngài liền đáp: “Trong mắt, tai, mũi…” Tổ Qui Sơn liền bảo: “Kẻ nói dối, nói rỗng, đó là lời của thiện tri thức năm trăm người.” Như vậy “Qui Chơn” là trở về chỗ ấy, trở về cái chân thật. Chỗ an ổn của ngài Sa-di Cao cũng là ở chỗ đó, chỗ đó lúc nào cũng an ổn. Sở dĩ chúng ta không an ổn là tại trong tâm ta lăng xăng, còn ở mắt, ở tai đâu có lăng xăng. Tai nghe tiếng rồi tâm chạy theo tiếng, mắt thấy sắc tâm liền duyên theo sắc, nên chúng ta mới lăng xăng dao động, còn ở tai ở mắt có bao giờ lăng xăng đâu. Sống với cái không động tịnh bao giờ, nên ngài Sa-di Cao được luôn luôn an ổn. Như vậy, khi nhận ra được kho báu nhà mình thì sung sướng suốt đời, không còn nghèo khổ. Nếu không nhận ra được thì khi nghe ai nói nơi nào có Phật, chúng ta liền chạy đến tìm cầu, không ngờ mình đã vác Phật đi cầu Phật.
Khi nhớ lại những câu chuyện vừa kể trên, chúng tôi nhận thấy pháp tu thiền của chúng ta theo hai cách thức, tạm dùng danh từ là tu toàn phần và tu cục bộ. Đó là điều quan trọng chúng tôi cần phải nói rõ.
Thế nào là tu toàn phần? Chúng tôi dẫn lời của ngài Đại An nói với môn đệ: “Tất cả các ngươi đều có viên ngọc quí thường phóng quang ra sáu cửa gọi là phóng quang tam-muội.” Như vậy nếu chúng ta trong các động tác hằng ngày đi đứng nằm ngồi nói nín trông nghe đều nhớ được viên ngọc quí của chính mình thường phóng quang ra sáu cửa, đó gọi là tu toàn phần. Tu toàn phần là sống với ánh sáng do viên ngọc quí phóng ra, không lệ thuộc vào sáu trần, ánh sáng ấy không phải động, không phải tịnh vì vượt ngoài vòng đối đãi động tịnh. Trong quyển “Yếu Chỉ Thiền Tông”, chúng tôi gọi lối tu toàn phần này là tu nhớ Ông chủ, nghĩa là trong mọi hoạt động đi đứng nằm ngồi, chúng ta hằng nhớ ánh sáng của viên ngọc quí phóng ra sáu cửa, không bao giờ quên việc ấy. Trong nhà thiền gọi đó là trưởng dưỡng Thánh thai hay là nuôi lớn Thánh thai của chính mình.
Tổ Lâm Tế có nói:
Tùy duyên tiêu cựu nghiệp
Nhậm vận trước y xiêm.
Dịch:
Tùy duyên tiêu nghiệp cũ
Hồn nhiên mặc áo xiêm.
Chúng ta vẫn sống bình thường như bao nhiêu người, những nghiệp cũ lần lần lặng bớt. Ăn cơm, mặc áo đều hồn nhiên, không có những suy nghĩ lăng xăng chen vào, đó gọi là sống với Ông chủ. Sống được như vậy gọi là người nhớ, người tỉnh. Còn những ai sống chạy theo sáu trần, phân biệt sáu trần, gọi là người quên, người mê. Tỉnh với mê chỉ là sống được với Ông chủ, hay chạy theo sáu trần.
Đó là lối tu toàn phần, nói một cách tổng quát, nếu muốn thực hành chúng ta phải tu như thế nào? Vọng tưởng chúng ta còn quá nhiều, tâm ý cứ mãi lăng xăng, không hằng sống được với Ông chủ, chúng ta muốn tu toàn phần phải làm sao? Như khi chúng ta đang đi, bỗng nhớ lại chuyện năm trước, chúng ta chỉ cần nhắc lại một câu: “Đi chỉ là đi.” Những ý tưởng lăng xăng liền dừng lại. Khi chúng ta đang ngồi chơi, vọng niệm vừa khởi, chúng ta liền nhắc lại “ngồi chơi chỉ là ngồi chơi”. Hoặc khi chúng ta đang làm việc gì như bửa củi hay nấu cơm, những ý nghĩ lăng xăng vừa mống lên, liền tự nhắc: “bửa củi chỉ là bửa củi”, “nấu cơm chỉ là nấu cơm” v.v… nghĩa là nhắc lại những việc mình đang làm, tự nhiên những ý nghĩ lăng xăng sẽ dứt hết.
Thật ra, người tu toàn phần phải gan dạ vô cùng vì không thấy ngồi thiền, coi như là ở không, biếng nhác, bê trễ. Nhưng đúng ra các Tổ khi xưa, ít khi ngồi thiền vì các ngài sống trong hành động nào cũng là nhớ, cũng là tỉnh, cần gì phải ngồi thiền. Nhưng riêng chúng tôi vẫn ngồi thiền, vì ngồi thiền có lợi, tránh được sương gió, bệnh hoạn, nhất là vào buổi khuya hay đầu hôm khi khí trời lành lạnh. Ngồi thiền phải như thế nào? Chúng ta ngồi đúng phương pháp đàng hoàng, mắt nhìn xuống vừa tầm, hơi thở điều hòa, tâm trí lặng lẽ tỉnh táo, vừa dấy niệm liền nhắc: “ngồi thiền chỉ là ngồi thiền”, thì tự nhiên sẽ được thảnh thơi. Ngồi thiền chỉ chừng ấy việc thôi, không thêm cái gì khác nữa. Pháp tu này thật là nhàn hạ.
Ngoài giờ ngồi thiền, trong các hoạt động đi đứng nằm ngồi cho đến vào nhà vệ sinh, vào nhà tắm chúng ta cũng hằng nhớ “đi cầu chỉ là đi cầu, đi tắm chỉ là đi tắm v.v…” không thêm cái gì khác nữa. Tu như vậy cả ngày, chúng ta sẽ thấy thảnh thơi, nhàn nhã. Chủ yếu của việc tu này chỉ nhớ đừng quên, nhớ lại là mình giàu, quên đi thành kẻ nghèo, chỉ chừng ấy việc để ứng dụng tu trong mọi trường hợp.
Thế nào là tu cục bộ? Tu cục bộ tức là tu một bộ phận. Chúng tôi xin dẫn ra đây một thí dụ. Trong kinh Lăng Nghiêm, đức Phật chủ yếu dạy ngài A-nan ngộ đạo. Đến phần đức Phật giải thích về thất đại, ngài A-nan liền ngộ và phát thệ nguyện. Sau đó Ngài thưa với đức Phật: “Con cũng như kẻ nghèo nàn, bỗng dưng được nhà vua tặng cho một ngôi nhà lầu đẹp, mà không biết làm sao vào, cúi xin Thế Tôn chỉ cho con cửa vào trong ngôi nhà ấy.” Đức Phật liền hỏi pháp môn tu của hai mươi lăm vị Thánh và cuối cùng Phật bảo ngài Văn-thù tuyển chọn pháp nào phù hợp với căn cơ chúng sanh cõi này. Ngài chọn pháp môn “Phản văn văn tự tánh” của Bồ-tát Quán Thế Âm làm cửa vào. Đây là một phương tiện rất phù hợp với chúng sanh ở cõi Ta-bà, và ngài Văn-thù dùng pháp môn này chỉ cho ngài A-nan tu. Việc chủ yếu là sau khi ngộ đạo rồi phải tu, ở đây là tu một bộ phận trong sáu bộ phận, nghĩa là trong sáu căn chỉ lấy Tánh nghe để trở về. Vì vậy mà chúng tôi tạm gọi là tu cục bộ.
Từ trước đến nay những vị tu theo pháp Phản văn văn tự tánh thường hay lầm, mà chính chúng tôi cũng bị lầm. Chúng ta cứ nghĩ nghe lại Tánh nghe thì nghe làm sao? Chúng tôi kinh nghiệm nhiều lần, nếu ngồi lại nghe cái mình hay nghe, một lúc sau lỗ tai bắt đầu nhức. Có vị nghe trở vô trong, về sau bị ran ngực, lâu ngày thổ huyết thành bệnh. Tu lối phản văn như vậy là một lầm lẫn quá lớn.
Vậy muốn tu pháp Phản văn phải tu làm sao cho đúng? Muốn dạy tu pháp Phản văn phải dạy những người nào? Không phải những ai vừa học kinh Lăng Nghiêm sơ qua đều tu được pháp “Phản văn văn tự tánh”. Chính ngài A-nan sau khi ngộ rồi, đức Phật mới dạy tu pháp ấy. Ngài A-nan ngộ rồi, thấy được tánh mình trùm khắp mười phương. Nhưng nếu một lúc ứng dụng cả sáu căn thì hơi khó, nên dùng một phương tiện thôi, tức là Tánh nghe để tỉnh và nhớ mãi. Vì vậy Phật mới dạy Phản văn văn tự tánh.
Phản văn nghĩa là gì? Từ trước đến nay, cái nghe của chúng ta là theo âm thanh bên ngoài, gọi đó là tùy lưu. Nếu chúng ta không trôi theo thanh trần mà chỉ nhớ lại tánh nghe, gọi đó là phản văn. Tánh nghe như thế nào và ở đâu? Khi nói nghe lại Tánh nghe, chúng ta nghĩ là Tánh nghe ở tại lỗ tai, rồi chúng ta nghe một lúc lâu, lỗ tai bắt đầu nhức. Phải nhớ Tánh nghe trùm khắp mười phương, không kẹt ở lỗ tai mới không bị nhức, không sanh bệnh. Tánh nghe không có tướng mạo nên nó không bị hạn chế hay ngăn cách. Chúng ta luôn luôn nhớ thẳng Tánh nghe của mình trùm khắp mười phương, đó gọi là tu Phản văn văn tự tánh.
Tu toàn phần hay tu cục bộ đều là lối tu chung của thiền giáo. Trong kinh dạy Bồ-tát Quán Thế Âm đã tu phản văn, mà chính tông Tào Động hiện nay đã tu lối Phản văn này. Khi học kinh Lăng Nghiêm chúng ta cố gắng nhận ra lối tu này, do đó mới biết rõ rằng đường lối tu thiền đã được dạy trong kinh. Nhưng muốn tu như vậy là phải ngộ trước, sau mới tu. Tu toàn phần hay tu cục bộ chủ yếu ở một chữ nhớ. Nhớ thì mình là con ông Trưởng giả, nhớ thì mình là người giàu có; còn quên thì mình là gã cùng tử, quên thì mình là kẻ ăn mày. Chỉ nhớ và quên, đó là tinh thần đốn ngộ của Thiền tông cũng là của Đại thừa. Chỉ một chữ nhớ thôi là chuyển phàm thành Thánh, còn quên là đem Thánh vào phàm. Đốn ngộ là như vậy.
Dù tu toàn phần hay tu cục bộ, chúng ta phải đủ lòng tin, như ngài Đại Mai trong câu chuyện sau đây: Ngài Đại Mai, sau khi ngộ đạo với Mã Tổ liền lên núi Đại Mai ở ẩn. Mã Tổ nghe Ngài ở núi bèn sai một vị Tăng đến thăm dò. Vị Tăng hỏi: “Hoà thượng đến Mã Tổ được cái gì mà về ở núi này?” Ngài đáp: “Ta nghe Mã Tổ nói tức tâm tức Phật, ta liền về ở núi.” Tăng nói: “Gần đây Mã Tổ lại dạy phi tâm phi Phật.” Ngài bảo: “Ông già mê hoặc người không có ngày thôi, mặc ông nói phi tâm phi Phật, ta chỉ biết tức tâm tức Phật!” Vị Tăng trở về thuật lại, Mã Tổ nói: “Trái mai đã chín”, tức là ngài Đại Mai đã nhận ra cái tức tâm tức Phật ấy.
Tin như ngài Đại Mai gọi là xác tín, nghĩa là tin một cách không lung lay. Chính vị thầy đã dạy mình ngộ đạo, cũng chính vị thầy ấy ngày sau dạy khác đi, mà niềm tin của Ngài vẫn vững chắc không bị lung lay, huống nữa là người nào khác.
Còn chúng ta, vì không đủ niềm tin, nên hôm nay nghe ai bảo pháp tu này hay, ngày mai nghe người khác bảo pháp tu kia hay, chúng ta liền hưởng ứng theo, thật ra chúng ta có tin chi đâu. Chúng ta phải tin, phải nhận ra cho đúng, không ai lay chuyển được, mới có thể tu toàn phần hay cục bộ. Muốn ứng dụng hai pháp tu này, phải có lòng tin không lung lay như ngài Đại Mai, phải ngộ đạo rồi tin như ngài A-nan nhận ra Pháp thân trùm khắp mười phương.
Nếu chưa được như ngài A-nan và ngài Đại Mai, chúng ta phải tu cách nào? Đó là điều chúng tôi thấy cần chỉ cho quí vị biết rõ đường lối tu hành từ trước đến nay của Thiền viện.
Các Tăng Ni đến đây nhận sự hướng dẫn tu hành của chúng tôi ít nhất phải học ba năm. Học ba năm để làm gì? Chủ trương của tôi y theo đường lối chư Tổ dạy là “Kiến tánh khởi tu”, tức là nhận ra Bản tánh của mình, rồi sau đó ứng dụng tu. Như phần trước chúng tôi đã nói, nhận ra nơi mình có viên ngọc quí phóng ánh sáng ra sáu cửa. Nhận ra như vậy rồi mới tu toàn phần hay cục bộ, tức là nhận ra được Bản tánh bất sanh bất diệt của chính mình, rồi mới ứng dụng tu.
Muốn nhận ra Bản tánh bất sanh bất diệt phải làm sao? Khi xưa chư Tổ cho đồ đệ đi tham vấn các nơi, gọi là đi tham thiền để một ngày nào phát minh, phát ngộ. Nhưng ngày nay chúng ta không có phương tiện như vậy, nên chúng tôi dùng phương pháp giảng kinh, luận và sử các Thiền sư. Khi nghe giảng lâu ngày quí vị tự thầm nhận, thầm nhận là tự ngộ một cách nhẹ nhàng, nhận ra nơi mình có viên ngọc quí hằng phóng quang ra sáu cửa. Khi nhận được như vậy tạm gọi là kiến tánh, kiến tánh này là lóe thấy thôi chớ không phải là hằng sống. Lóe thấy rồi bắt đầu ứng dụng tu hằng nhớ, hằng nhớ chúng ta có viên ngọc quí luôn luôn, hoặc tu toàn phần, hoặc tu cục bộ. Vì vậy chúng tôi chủ trương phải học ba năm.
Nếu chưa nhận ra được Bản tánh bất sanh bất diệt của chính mình, chúng ta phải tu bằng cách nào? Chúng tôi chỉ quí vị ứng dụng lối tu của Tổ Huệ Khả trong câu chuyện sau đây:
Ngài Huệ Khả hỏi Tổ Bồ-đề-đạt-ma: “Tâm con không an, xin Thầy dạy con phương pháp an tâm.”
Tổ Đạt-ma bảo: “Đem tâm ra ta an cho.”
Ngài Huệ Khả xoay lại tìm, tìm một lúc không được, Ngài thưa: “Con tìm tâm không được.”
Tổ bảo: “Ta đã an tâm cho ngươi rồi.”
Ngay nơi đó ngài Huệ Khả biết cách an tâm. Đây là biết cách an tâm chớ chưa phải ngộ.
Qua câu chuyện trên, chúng ta nhận rõ rằng sở dĩ chúng ta bất an vì lầm vọng tưởng là tâm, các vọng tưởng ấy làm chúng ta xao xuyến âu lo mãi, nên gọi đó là tâm bất an. Để giải cái lầm này, chúng ta phải nhớ các tư tưởng lăng xăng là vọng tưởng chớ không phải tâm. Vì vậy đầu tiên chúng tôi chủ trương lối tu biết vọng. Thay vì ngày xưa cho đó là tâm, ngày nay chúng ta biết đó là vọng. Như vậy chúng ta đã tỉnh được một chút trong cơn mê, mê là vì cho vọng tưởng là tâm mình, tỉnh là vì biết đó là vọng tưởng chớ không phải tâm.
Tại sao chúng tôi quả quyết như vậy? Vì chúng tôi thấy rõ vọng tưởng mà chúng ta đang chạy theo chỉ là bóng dáng của sáu trần. Tỉ dụ: Ban sáng khi xuống chợ, chúng tôi thấy một người ăn mày đáng thương và chú ý đến họ. Chiều về khi ngồi chơi, bỗng nhiên hình ảnh người ăn mày hiện ra khiến chúng tôi suy nghĩ về họ. Như vậy, hình ảnh người ăn mày là sẵn nơi mình hay từ đâu đến? Đó là cái bóng ở bên ngoài, cái bóng của khi sáng. Duyên theo cái bóng ấy, chúng ta suy nghĩ, thành ra suy nghĩ những gì chúng ta đã nghe, đã thấy là suy nghĩ theo bóng, nó đâu phải là mình. Cho đó là tâm mình là lầm, mà tất cả chúng ta lâu nay đều lầm như vậy.
Chúng ta phải nhớ những suy nghĩ duyên theo bóng dáng sáu trần là vọng, vừa dấy niệm suy nghĩ liền biết đó là vọng. Biết như vậy vừa tránh khỏi lầm, vừa dừng được vọng, tức là dừng được động. Động dừng gọi là định. Đường lối tu như vậy rất đơn giản, không có gì phiền phức. Đó là đường lối của Tổ sư đã dạy cho người chưa ngộ.
Khi chúng ta biết được vọng mà vọng quá mạnh cứ chạy lung tung kéo lôi mình không dừng, chúng ta phải làm sao đây? Tỉ dụ chúng ta có một số tiền để dành, mà quên không nhớ cất nó ở đâu, tìm mãi chưa ra. Đến khi ngồi thiền, cứ nhớ không biết tiền để ở đâu. Chính khi nhớ đó, biết là vọng mà dừng không được, vì vọng quá mạnh lôi kéo mình hoài. Để dừng được loại vọng này, chúng ta phải áp dụng lối tu mạnh hơn, là tìm lại xem vọng này xuất phát từ chỗ nào. Tìm một lúc mới nhận thấy chúng không cội rễ, và tự chúng mất đi. Đây cũng là trường hợp ngài Huệ Khả tìm tâm mình ở đâu, khi tìm lại thì thấy nó không có, đó gọi là an tâm. Và chúng tôi đã ứng dụng tu theo phương pháp an tâm của Tổ Huệ Khả ngay từ buổi đầu. Hai lối tu biết vọng và tìm vọng được áp dụng hỗ tương cho nhau trong lúc chúng ta ngồi thiền. Đây cũng là lối tu cục bộ xoay trở lại Tánh biết của ý. Sự diễn tiến của lối tu này cụ thể hóa bằng mười bức họa chăn trâu. Vì thế lối tu này cũng gọi là Chăn trâu.
Ngoài giờ ngồi thiền, chúng ta phải tu như thế nào? Chúng ta phải ứng dụng tinh thần Bát-nhã trong hai phép quán: một là quán thân năm uẩn không thật, hai là quán sáu trần không thật. Tất cả trần cảnh đều là tướng duyên hợp như huyễn, thân này cũng là duyên hợp như huyễn. Chúng ta phải hằng quán như vậy, thấy các pháp như huyễn để phá tan những mê chấp về thân, tâm và cảnh giới.
Phép tu quán các pháp như huyễn đều được dạy trong các kinh điển Đại thừa. Càng học kinh chúng ta càng thấy rõ ý nghĩa tu như vậy. Trong kinh, Phật dạy các Bồ-tát đem thân như huyễn cứu độ hữu tình như huyễn v.v… Vì sao Phật dạy như vậy? Tại vì, như chúng ta nhận xét, phàm những gì do duyên hợp đều như huyễn. Những hiểu biết của chúng ta và những lời Phật dạy đều rất phù hợp có thể ứng dụng ngay trong cuộc sống. Càng học kinh càng sáng tỏ việc tu. Vì vậy mà chúng tôi chủ trương đường lối tu ở đây là Thiền Giáo đồng hành. Giáo là kinh, Thiền là ứng dụng tu thiền, hai việc đồng hành. Học kinh để chúng ta biết rõ đường lối tu thiền, tu thiền để chúng ta sáng tỏ được ý kinh, Thiền và Giáo hỗ tương cho nhau là như vậy.
Trong phần thực hành, chúng ta phải biết ứng dụng linh động ba phép tu: biết vọng, tìm vọng và quán các pháp như huyễn. Khi ngồi thiền chúng ta dùng phương pháp nhẹ là biết vọng thường xuyên, phương pháp mạnh hơn là tìm vọng xem nó xuất phát từ đâu. Dùng lối tu biết vọng lâu ngày, nhất là khi nhập thất đôi ba tháng, do tu chăm quá chúng ta bị đau đầu, mặt mày buồn xo, tánh tình dễ cau có, nhìn qua là biết ngay người này đang cố gắng thái quá trong khi tu biết vọng. Đến giai đoạn này, chúng ta phải chuyển lại dùng phép quán thân như huyễn, quán cảnh như huyễn, nhìn trời nhìn nước đều như huyễn, chúng ta cười nhẹ nhàng thoải mái. Do nhìn ra ngoại cảnh biết các pháp như huyễn như hóa, chúng ta bớt cố gắng kềm ở bên trong, tinh thần thư giãn, lần lần không kềm nữa. Đi đứng nằm ngồi lúc nào cũng biết các pháp như huyễn nên tâm trí chúng ta sẽ được thảnh thơi.
Nhìn ra ngoại cảnh biết như huyễn, đến một lúc tâm bắt đầu loạn, bị ngoại cảnh lôi cuốn, chúng ta phải xoay vào bên trong biết đó là vọng, tâm sẽ an ổn trở lại. Ứng dụng linh động các phép tu như vậy sẽ không bệnh hoạn, buồn bực và cáu kỉnh nữa. Đó là kinh nghiệm chúng tôi đã thấy rõ trong khi tu hành.
Đối với người sơ cơ chưa nhận ra Ông chủ, chúng tôi ứng dụng tinh thần Bát-nhã vào việc tu. Vì vậy mở đầu chúng tôi giảng kinh Bát-nhã và kinh Kim Cang, dùng Trí tuệ Bát- nhã làm cửa vào nhà thiền. Dùng trí tuệ ấy mãi đến bao giờ khi nghe kinh Phật dạy, hoặc học sử các Thiền sư, chúng ta tin chắc rằng nơi mình có viên ngọc quí, không còn nghi ngờ gì nữa. Sau khi nhận ra Ông chủ rồi, từ đó về sau chúng ta sẽ tu hoặc toàn phần hoặc cục bộ.
Theo tinh thần Bát-nhã, đức Phật dạy chúng ta phá tất cả chấp, chấp về thân và tâm v.v… mà không chỉ ra cái chân thật. Đó gọi là tinh thần giá thuyên, một danh từ chuyên môn trong nhà Phật. Giá là ngăn, thuyên là nói, tức là dạy bằng cách ngăn không cho chấp trước, danh từ hiện nay gọi là phủ định. Còn dùng lối tu toàn phần hay cục bộ là theo tinh thần biểu thuyên, tức là nói rõ ra, hay cũng gọi là khẳng định. Nghĩa là chỉ thẳng nơi mình có Ông chủ, và quyết định rằng Ông chủ đó là mình, không còn nghi ngờ gì nữa.
Phần tu phá các chấp trước thuộc về hệ thống các kinh Bát-nhã. Phần tu chỉ thẳng cái chân thật nơi mình thuộc về hệ thống các kinh Lăng Nghiêm, kinh Pháp Hoa và kinh Hoa Nghiêm. Nhân theo các lối tu, giáo lý đức Phật được chia thành thời Bát-nhã, gọi là trung kỳ Phật giáo, và thời Pháp Hoa, Lăng Nghiêm, gọi là hậu kỳ Phật giáo.
Nhân đây, chúng tôi thấy rõ Thiền Giáo không hai. Bên kinh nói rộng, bên thiền chỉ tắt nên thấy dường như có khác. Bởi chỉ tắt nên quá cô đọng, khi nói rộng nên rất thênh thang, chúng ta phải học suốt năm này qua năm khác. Nhưng thật ra cái thênh thang của Giáo, các Thiền sư cô đọng lại trong một hai câu thôi. Nếu một hai câu nhận ra thì biết cái thênh thang này, cũng như nhờ học cái thênh thang mà biết cái cô đọng kia, hai bên Thiền Giáo hỗ tương cho nhau.
Tóm lại, ở Thiền viện chúng tôi ứng dụng tu thiền theo hai lối: một là tu biết vọng hay tìm vọng, đồng thời quán các pháp như huyễn, lối tu này dành cho người sơ cơ; hai là tu toàn phần hay cục bộ dành cho người đã nhận ra Ông chủ hay viên ngọc quí hằng phóng quang ra sáu cửa, người này phải đủ lòng tin vững chắc không lay chuyển. Đường lối tu của Thiền viện đã rõ ràng, y cứ theo kinh điển làm bằng, không phải đặt suông.
Chúng tôi nhận thấy một cách chắc chắn không nghi ngờ rằng: Tất cả chúng ta có sẵn viên ngọc quí hằng phóng quang ở sáu cửa. Nhận ra điều này và nhờ một thời gian dài tĩnh tu, chúng tôi đã ứng dụng và có kinh nghiệm chín chắn. Vì vậy chúng tôi cảm thấy vui, vui vì có viên ngọc quí mà mình dùng được nên trở thành giàu có. Chúng tôi giàu và tin rằng mọi người cũng đều giàu như vậy nên năm nay tôi lạc quan muốn nói nhiều với quí vị.
Để kết thúc, không gì hơn chúng tôi chúc tất cả Tăng Ni và Phật tử sang năm mới sẽ là người nhận ra kho báu nhà mình, là con ông Trưởng giả, là người có viên ngọc quí vô giá, trở thành người cự phú để từ đây về sau khỏi lang thang vất vả nữa.
TÙY DUYÊN BẤT BIẾN
Tất niên năm Quí Hợi - 1984
Sáng mai là ngày đầu của năm Giáp Tý.
Đêm nay chúng ta chờ đón Giao thừa, tôi sẽ giải thích hai bài kệ của Thiền sư Thiện Chiêu ở Phần Dương thuộc đời thứ năm tông Lâm Tế, vì hai bài này có liên hệ đến tuổi Giáp Tý của tôi một chút.
Trước hết tôi xin nói về ngài Thiện Chiêu, Ngài là một Thiền sư đặc sắc, người đương thời gọi Ngài là Sư tử Phần Dương. Ngài có những hành động mà thiên hạ khó chấp nhận nổi. Dưới hội của Ngài có năm trăm chúng. Một hôm đến ngày giỗ mẹ, Ngài sai đệ tử mua ít thịt cá và rượu về cúng. Cúng xong, Ngài mời chúng cùng ăn. Toàn chúng đều ngẩn ngơ, một vị đức hạnh nổi tiếng như thế mà nay lại mời người ăn thịt, uống rượu! Không ai dám dự, chỉ một mình Ngài điềm nhiên ngồi ăn. Sau bữa giỗ, năm trăm chúng bỏ đi gần hết chỉ còn lại tám người, trong đó có ngài Từ Minh. Ngài bảo: “Ta chỉ tốn một bữa rượu thịt mà tống được mấy trăm người.” Ngài biết chúng nghe danh Ngài mà đến chớ không hiểu Ngài, nên thí nghiệm một lần thử xem. Vừa thí nghiệm là chúng bỏ đi hết, người hiểu Ngài mới ở lại và sau mới kế thừa được. Ngài kỳ đặc như thế nên có được người đệ tử xuất sắc là ngài Từ Minh. Sau này nối pháp Từ Minh có hai vị lỗi lạc là Dương Kỳ Phượng Hội và Hoàng Long Huệ Nam. Tông Lâm Tế từ đó chia làm hai nhánh Hoàng Long và Dương Kỳ tức Lâm Tế Chánh Tông và Lâm Tế Gia Phổ.
Về sau, Ngài được một vị thuộc hàng vương tước nhà Tống mời về kinh đô trụ trì. Ngài từ chối, Sứ giả thưa: “Ngài không đi thì con ở đây luôn, nếu về sẽ bị tội.” Ngài nói: “Chi mà khổ vậy! Thôi về trước, ta có đường đi sau.”
Sứ vừa đi, Ngài họp chúng lại bảo: “Nay ta phải đi, trong chúng có ai theo ta được không?” Có một vị Tăng đứng ra thưa: “Con theo Hòa thượng được.” Ngài hỏi: “Ông đi một ngày bao nhiêu dặm?” Thưa: “Con đi một ngày năm mươi dặm.” Ngài nói: “Chưa theo ta được.” Người thứ hai thưa: “Con xin theo Hòa thượng.” Hỏi: “Ngươi đi một ngày bao nhiêu dặm?” Thưa: “Con đi ngày bảy mươi dặm.” Ngài bảo: “Ngươi cũng chưa đủ sức theo ta.” Cuối cùng Thị giả bước ra thưa: “Con xin theo Hòa thượng.” Hỏi: “Ngươi đi một ngày được bao nhiêu dặm?” Thị giả thưa: “Hòa thượng đến đâu con đến đó.” Ngài bảo: “Ngươi theo ta được.” Ngài liền ngồi kiết-già, bảo: “ta đi đây”, rồi tịch. Thị giả đứng khoanh tay tịch theo.
Đó là những chuyện đặc biệt của ngài Phần Dương. Sau đây là hai bài kệ Ngài làm vào Tết Nguyên Đán.
Bài thứ nhất:
Như kim châu giáp tý
Thục khả tri sanh tử
Tứ đại mộng trung âu
Nhất thân diệp thượng thủy
Phù vân bất cửu đình
Cam giá khởi trường mỹ
Duy hữu nhất linh quang
Khoáng kiếp hà tằng trụy.
Dịch:
Nay tôi tròn một giáp
Ai biết được sanh tử
Bốn đại bọt trong mơ,
Một thân lá trên nước
Mây nổi chẳng dừng lâu
Cây mía nào ngọt mãi
Chỉ có một linh quang
Nhiều kiếp đâu từng mất.
Như kim châu giáp tý, nay tôi tròn một giáp. Tròn một giáp là sáu mươi năm. Thục khả tri sanh tử là ai có thể biết được sự sanh tử. Tứ đại mộng trung âu, thân tứ đại này chẳng khác bọt nước trong giấc mơ. Mơ đã là hư dối rồi, bọt nước trong mơ còn hư dối tới bậc nào? Như chúng ta đang thức, thấy bọt nước, chạm vào nó vỡ ngay. Thế mà Ngài nói thân tứ đại này là bọt nước trong giấc mơ thì nó như thế nào? Vậy mà chúng ta chấp nó, xem nó là tối thượng. Nhất thân diệp thượng thủy, một thân như chiếc lá trôi trên dòng nước. Chúng ta đi qua những dòng sông, con suối, thấy những chiếc lá theo gió bay rơi trên mặt nước, trôi dạt nơi này, tắp nơi kia rồi rã ngoài cồn, ngoài bãi. Thân này cũng vậy chẳng nghĩa lý gì cả. Phù vân bất cửu đình, thân này chẳng khác đám mây nổi, không dừng lâu, tạm bợ lúc hợp, lúc tan. Cam giá khởi trường mỹ, cam giá là mía mà cũng có nghĩa là đường. Đường đâu có ngon ngọt mãi, như ngậm một viên kẹo hay nhai một miếng mứt, ngọt trong vòng năm ba phút thôi chớ không ngọt hoài. Duy hữu nhất linh quang, khoáng kiếp hà tằng trụy, linh là linh tri, quang là sáng suốt, khoáng kiếp là muôn kiếp. Chỉ có một linh tri sáng suốt, nhiều kiếp đâu từng bị rơi mất.
Đầu tiên Ngài cho biết tuổi Ngài đã tròn một giáp tức là được sáu mươi hay sáu mươi mốt tuổi. Thế mà mấy ai ở tuổi này biết được rõ ràng lẽ sanh tử. Thân tứ đại này thật như hòn bọt trong giấc mơ, như chiếc lá trôi giữa dòng sông không có nghĩa lý gì, như một đám mây nổi trong hư không, như một miếng đường nhai nuốt rồi mất không có gì bền lâu. Cuộc sanh tử vô thường, tạm bợ không có gì quí báu, nhưng chúng ta lại thấy nó quí, nó bền nên sân si chấp ngã đủ thứ... Vậy cái quí báu lâu bền là cái gì? Chỉ có một linh tri sáng suốt, tức là cái biết rất thanh tịnh sáng suốt, muôn kiếp chưa bao giờ bị mất, bị tan hoại. Một cái như hòn bọt trong giấc mơ hay như chiếc lá rơi trên mặt nước và một cái sáng suốt linh hoạt muôn đời, muôn kiếp chưa từng hoại, chưa từng mất, chúng ta chọn cái nào? Giữ một hòn bọt trong giấc mơ là khôn hay không khôn? Việc sanh tử tạm bợ không bền lâu mà bám vào đó để sân si, để tạo nghiệp, thật không biết phải nói sao! Trong khi chúng ta lại có một cái linh tri hằng sáng suốt muôn đời không bao giờ mất, tại sao không sống với cái đó mà lại bám vào cái kia? Thế nên giữ gìn thân tứ đại cho là quí báu, Phật gọi là vô minh. Biết rõ thân tứ đại như bọt nước, như chiếc lá rơi v.v... đó là tỉnh, là giác và sống được với cái không bao giờ bị suy hao, không bao giờ bị tan rã, đó mới là người được thoát khỏi sanh tử. Mục đích chúng ta tu là để làm gì? Có người nào nói tôi vào chùa tu để có cơm ăn, áo mặc, ấm no khỏi cực không? Chúng ta tu là cốt để giác ngộ, để thoát ly sanh tử. Tức là phải thấy rõ thân này như hòn bọt, như chiếc lá rơi, như áng mây nổi không bền, không trường cửu và phải thấy rõ nơi mình có một cái trường cửu bất sanh bất diệt, sống với cái đó, đừng chấp lấy thân. Trái lại nếu quên cái đó mà chấp lấy thân bọt nước này thì thật là chưa thoát khỏi vô minh.
Tóm lại bài kệ này Ngài dạy chúng ta phải tỉnh giác biết cái nào tạm bợ, cái nào lâu dài để chọn lấy mà sống. Biết chọn như thế, sống như thế là chúng ta tu. Việc tu rất đơn giản không có gì lạ, xưa nay chúng ta cứ nghĩ tu là tụng kinh nhiều, bái sám lắm, niệm Phật phải đủ mấy trăm chuỗi v.v... nhưng sự thật tu là có trí tuệ thấy rõ cái giả đừng lầm, biết cái thật để sống. Cái thật không hoại, không hoại tức là không sanh tử; trái lại cái giả thì nát, giờ này nát rồi tụ lại giờ sau, giờ kia nát tụ lại giờ khác, cứ như thế mà tụ tán... Bám vào cái tụ tán đó thì luân hồi muôn kiếp không cùng. Thế nên bài kệ này là một lời nhắc nhở quí giá của Ngài vào đầu năm.
Đến bài thứ hai:
Như kim lục thập nhất,
Bạch phát tương thôi xuất,
Huyễn chất tỉ phù vân,
Không tâm đồng Tổ Phật,
Xuân lai bất tiện hoa,
Thu khứ khởi hiềm vật,
Cánh dữ tam thập niên,
Miết nhiên như điện phất.
Dịch :
Nay tôi sáu mươi mốt,
Tóc bạc đuổi nhau điểm,
Chất huyễn dường mây trôi,
Tâm không đồng Tổ Phật,
Xuân đến chẳng chê hoa,
Thu về nào ghét vật,
Lại cùng năm ba mươi,
Bỗng nhiên như điện chớp.
Như kim lục thập nhất là nay tôi sáu mươi mốt. Bạch phát tương thôi xuất là tóc bạc đẩy nhau trồi ra. Chúng ta thấy Ngài dùng chữ rất hay, chữ thôi là đẩy, xuất là trồi ra. Ngày hôm qua chúng ta cạo tóc sạch rồi, hôm nay chúng đẩy nhau trồi ra nữa, cũng bạc trắng!
Huyễn chất tỉ phù vân, không tâm đồng Tổ Phật, thân huyễn chất này giống như mây nổi, không có gì thật cả, nếu được không tâm thì đồng với Tổ Phật. Ngài luôn luôn nêu cho chúng ta thấy cái giả rồi đưa đến cái thật. Nếu chúng ta bám vào thân huyễn chất như mây nổi thì không có gì là lâu bền. Không tâm tức là không tất cả những tâm thị phi, thiện ác, hay dở, tốt xấu v.v..., được như thế thì đồng với Tổ Phật.
Xuân lai bất tiện hoa, thu khứ khởi hiềm vật. Nếu được không tâm rồi thì mùa xuân đến chúng ta không chê hoa này đẹp, hoa kia xấu; mùa thu về cũng không khởi niệm trách cây này lá vàng, cây kia khô héo...
Cánh dữ tam thập niên, miết nhiên như điện phất, nhớ lại năm ba mươi tuổi, bỗng dưng như điện chớp. Sáu mươi mốt tuổi nhớ lại thuở ba mươi tuổi như là điện chớp, không có gì lâu dài. Ngài nhắc cho chúng ta thấy cái già của Ngài, khi Ngài sáu mươi mốt tuổi, bao nhiêu tóc bạc ở trong đẩy ra từ từ. Tóc bạc đã trồi ra tức nhiên biết thân này không bền nên nói thân chất huyễn như mây nổi. Phải không tâm mới đồng với Phật Tổ. Không tâm là bao nhiêu vọng tưởng đều buông sạch, khi ấy chúng ta đồng với Phật Tổ, chớ không có gì khác. Nếu không tâm rồi thì không còn thích vật này, ghét vật kia nữa, nếu còn ưa ghét thì chưa phải là không tâm. Chợt nhớ lại thuở nào ba mươi tuổi và hiện nay sáu mươi mốt tuổi, thật ra như một luồng điện chớp. Trên quãng đường sống thì thấy dài, nhưng qua rồi nhớ lại thì quá ngắn.
Ngài Phần Dương nhân làm hai bài kệ nhắc cho chúng ta thấy rõ mục đích của người học đạo là thoát khỏi sanh tử luân hồi. Mỗi khi năm cũ qua, năm mới đến thiên hạ vui mừng chào xuân, còn chúng ta vui mừng chào cái gì? Chào cái sắp chết. Mỗi một năm đến là cái chết đến gần, cái chết đến gần thì vui mừng chào ta sắp chết! Nếu chúng ta biết rõ thời gian trôi mau, năm cũ qua năm mới đến cứ thế mà chồng chất đến một ngày chúng ta phải ra đi, thân tứ đại phải tan nát thì mừng khi thấy đạo, còn chưa thấy đạo thì phải tủi rằng một năm trôi qua suông mà cái chết gần kề. Người xưa một ngày qua chưa thấy đạo còn khóc thay, huống nữa là chúng ta một năm qua chưa thấy đạo lại mừng cái gì? Thế nên nhìn trên phương diện đạo lý, một năm qua nhưng công phu tu hành của mình chưa ra gì thì thật là một điều đáng hổ thẹn buồn tủi. Song không lẽ cuối năm chúng ta lại khóc nên phải gượng vui, vui với một niềm hứa hẹn: Thôi năm qua đã lỡ, có hối cũng không làm gì được, hãy chuẩn bị cho năm tới, hứa hẹn rằng trong năm tới mọi việc sẽ đẹp hơn, sáng sủa hơn. Chúng ta đặt mục đích: thứ nhất là chúng ta sẽ tiến hơn năm cũ về đạo đức, thứ hai là chúng ta phải nỗ lực hơn năm cũ, thứ ba là có thể chúng ta sẽ sáng được đạo. Đó là nguồn vui, là hi vọng của năm mới. Đừng nghĩ rằng năm tới cũng như năm nay vì như thế thì thật là đáng buồn. Nếu cứ nghĩ năm tới cũng như năm nay và năm tới nữa cũng như thế thì cuộc đời là một con số không, thật là uổng một kiếp! Thế nên, lý đáng chúng ta phải buồn vì chúng ta đã mất một năm rồi mà công phu chưa đến đâu, song chúng ta hi vọng để tự an ủi, hi vọng năm tới chúng ta sẽ tiến bộ hơn, nỗ lực hơn và thành công hơn trên đường tu. Đó là ý nghĩa thâm trầm của việc tiễn năm cũ và chào đón năm mới. Nếu không như thế thì tiễn năm cũ trở thành vô nghĩa, chào đón năm mới cũng không lợi ích gì. Đấy là tôi nhắc để chúng ta đồng tu đồng tiến.
*
Đến phần thứ hai là phần tôi đã từng nói chuyện với một số ít Tăng Ni và cư sĩ trong những ngày trước, hôm nay tôi nói rộng cho tất cả nghe để chúng ta có con đường tu hành, khiến năm tới chúng ta được nhiều an vui. Đề mục là y cứ vào hai câu thơ của ngài Lâm Tế:
Tùy duyên tiêu cựu nghiệp,
Nhậm vận trước y xiêm.
Khi Ngài thấy đạo rồi, Ngài không tu lăng xăng như chúng ta, Ngài chỉ nói tùy duyên để những nghiệp cũ hết, hồn nhiên mặc áo xiêm, nghĩa là trong khi ăn cơm, mặc áo tâm vẫn rỗng rang hồn nhiên. Như vậy suốt đời Ngài chỉ tu chừng ấy. Một hôm Vương Thường Thị tức như quận trưởng ở địa phương, cũng là một Phật tử thấm nhuần giáo lý của Ngài, đến thăm Thiền viện. Thấy Tăng chúng đông quá, Vương Thường Thị mới hỏi:
- Bạch Hòa thượng, Tăng chúng đông như vậy có tọa thiền không?
Ngài đáp:
- Không.
Hỏi:
- Có xem kinh không?
Đáp:
- Không.
Vương Thường Thị hỏi:
- Không xem kinh, không tọa thiền, vậy làm gì?
Ngài đáp:
- Làm Phật, làm Tổ!
Sống tùy duyên và hồn nhiên, hai điểm đó là then chốt. Tại sao tùy duyên? Tại sao hồn nhiên? Giáo lý Đại thừa luôn nhắc nhở chúng ta “tùy duyên mà bất biến”. Lý tùy duyên bất biến nằm trong hai câu của Tổ Lâm Tế. “Tùy duyên” thì Ngài nói thêm “tùy duyên tiêu cựu nghiệp”, “bất biến” thì Ngài nói là “nhậm vận trước y xiêm”.
Nay tôi nói trước về lý tùy duyên. Đó là một thuật sống và cũng là lẽ thật của con người và vũ trụ. Trong cuộc sống tất cả chúng ta nhìn đời, nhìn sự vật với đôi mắt tùy duyên hay chấp nê? Tỉ dụ có một tách nước lã để trên bàn, tôi đặt câu hỏi tách nước này sẽ thế nào? Có nhiều câu trả lời. Nếu có người nói tách nước này sẽ thành hơi hay có người nói tách nước này sẽ thành thuốc v.v... thì những câu nói đó chưa đúng, câu đáp khôn ngoan nhất là tách nước này tùy duyên. Tùy duyên là nếu tách nước này để trong nồi nấu thì nó bốc thành hơi, nếu để trong tủ lạnh thì nó thành khối, nếu vắt một miếng chanh, để chút đường vào thì nó thành nước chanh, hoặc hòa tan vào đó một ít thuốc thì nó thành thuốc v.v... Như vậy cùng một tách nước tùy duyên sử dụng, không cố định. Nếu chúng ta nói trước nó thành cái gì cũng đều sai cả. “Tùy duyên” là một lẽ thật, còn nói cố định là cái gì, đều sai. Cuộc sống của chúng ta liên hệ đến lẽ “tùy duyên” đó. Tất cả sự vật chuyển biến theo duyên, nghĩa là duyên tụ tán hoặc nóng lạnh v.v... sự vật cũng chuyển biến theo duyên chớ không dừng trụ một chỗ nào. Từ cổ chí kim không một sự vật nào an ở mãi một chỗ mà luôn luôn chuyển theo duyên, một cách linh động, bây giờ khoa học cũng xác nhận như thế, thế mà chúng ta nhìn sự vật bằng đôi mắt chấp nê thì đúng hay sai? Thấy tất cả sự vật là một dòng biến chuyển tùy duyên, chúng ta phải sống cách nào cho phù hợp, đó là điều cần phải biết. Vì thế với nhà Phật trong tùy duyên còn có bất biến, chính bất biến mới quan trọng. Tôi dùng ví dụ nước để quí vị thấy đâu là tùy duyên, đâu là bất biến. Như từ nước lã có thể biến thành hơi, thành khối v.v..., đó là lý tùy duyên. Nhưng dù biến thành hơi, thành khối, thành chi đi nữa, nước cũng vẫn là nước. Nước đá cũng ướt, hơi nước cũng ướt, nước gì cũng ướt... thành ra hình dáng đổi thay nhưng tánh ướt không đổi, đó là “bất biến”. Tánh ướt không đổi nhưng trên hình tướng, tùy theo cách sử dụng mà hình tướng nước có đổi thay, đó là tùy duyên. Tùy duyên mà bất biến. Tất cả sự vật đều luôn luôn về hình tướng là tùy duyên, về bản tánh là bất biến. Hiểu như thế chúng ta mới thấy lý tùy duyên của đạo Phật, nghĩa là không phải tùy duyên rồi như ngọn cỏ, gió thổi phía nào ngả phía ấy, không có chủ đích, hay như những cánh bèo trôi sông, theo gió thổi tấp bên này, tấp bên kia... Tùy duyên của đạo Phật khác hơn, vì có cái bất biến ở trong. Như cây tre bị gió thổi ngả nghiêng, nhưng gió dừng nó đứng lại như cũ, chớ không ngả nghiêng mãi. Cũng như thế, người biết tu trong lý tùy duyên phải ứng dụng cả bất biến, chớ chỉ nói tùy duyên là thiếu sót.
Trong cuộc sống nếu ứng dụng lý tùy duyên thì chúng ta không cố chấp cuộc sống của chúng ta phải thế này, phải thế kia, chúng ta nhìn sự vật, nhìn cuộc sống tùy duyên linh động, nay thế này, mai thế kia, không bị chấp chặt vào một nơi, một việc. Chúng ta thường có nhiều bệnh, bệnh chấp theo phong tục tập quán, bệnh chấp những ý kiến riêng tư, bệnh chấp của mình, của người v.v... vì bệnh chấp mà chúng ta khổ mãi. Về tập quán, ông bà chúng ta làm thế nào, chúng ta quen theo thế ấy, nay ai làm khác đi, chúng ta không chấp nhận, nhưng sự vật luôn chuyển biến, mỗi thời mỗi khác, do đó chúng ta khổ. Ví dụ như sự trang sức, năm trước kiểu này, năm sau đổi kiểu khác, luôn luôn thay đổi, người thợ phải học những kiểu mới lạ, mới theo kịp thời đại. Chữ thời trang là chỉ cho mỗi thời có mỗi trang sức khác nhau. Trang sức thời ông bà chúng ta khác, trang sức thời cha mẹ chúng ta khác, trang sức của chúng ta hiện nay cũng khác, đến trang sức của con cháu chúng ta sau này lại sẽ khác nữa. Nếu chúng ta giữ theo nếp cũ, ông bà chúng ta làm thế nào, chúng ta làm thế ấy, chúng ta làm thế nào thì bắt con cháu làm thế ấy, cuộc sống sẽ ra sao? Người đồng thời sẽ cho chúng ta là lạc hậu và con cháu chúng ta sẽ bị bạn bè chê lạc hậu! Như vậy thời nào, chúng ta phải tùy duyên sống theo thời ấy. Thời con cháu chúng ta đổi khác thì nó phải sống khác, tại sao mình bắt nó sống như mình? Nếu ông bà chúng ta bắt chúng ta sống như ông bà, chúng ta chấp nhận không? Như vậy thấy được lý tùy duyên, chúng ta cởi mở những cố chấp về phong tục, về tập quán, về những tư kiến v.v... không còn những cố chấp đó nữa, chúng ta không còn khổ. Cái buồn của chúng ta là tại chúng ta cố chấp, muốn những gì mình đang làm người khác cũng làm theo mình, khi người ta không giống mình thì buồn giận. Tu trong phiền não, buồn giận làm sao tiến?
Lý tùy duyên là tinh thần Bát-nhã cho chúng ta thấy rằng sự vật luôn luôn là một dòng chuyển biến, đừng bám chặt vào một cái gì, bám chặt là khổ đau vì đó là trái sự thật. Thí dụ như chúng ta ngồi trên chiếc xe đang chạy, xe chạy ngang cây số bảy mươi, chúng ta nói đây là cây số bảy mươi, khi ấy người khác nhìn theo tay mình thì thấy xe đã qua khỏi mấy trăm thước rồi. Nếu chúng ta cho mình chỉ đúng cây số bảy mươi là sai, vì xe đang chạy nên chúng ta không thể chỉ đúng chỗ. Nó không dừng thì chúng ta phải nhìn theo sự không dừng. Thế nên cuộc sống tùy duyên thì không nhìn lại phía sau. Hoàn cảnh thế nào chúng ta tùy theo đó mà sống, còn nhìn lui lại chúng ta sẽ thở dài hối tiếc vì thấy cái này mất, cái kia mất... Như xe đang chạy ngang thành phố, người người xe cộ đông đảo vui vẻ, xe chạy đến ngọn đồi, ngọn đồi cao đẹp, xe xuống dốc, thung lũng nên thơ v.v... lúc nào chúng ta cũng có những niềm vui mới. Còn nhìn lui lại toàn những việc buồn, ví dụ như nhìn trở lại ngày xưa, ông nội, bà nội mình đã mất, rồi nhớ buồn. Ba má mình cũng đã mất rồi buồn, anh em mình xa cách cũng rất buồn... nhìn lui là buồn, là khổ. Như vậy lý tùy duyên đem lại một nguồn vui và một cuộc sống linh động, chúng ta không có gì phải luyến tiếc. Sự vật là như vậy, nó đâu có dừng một chỗ mà luyến tiếc. Hiểu được điều đó thì cuộc sống của chúng ta linh động, vui tươi trong bất cứ hoàn cảnh nào, vẻ đẹp của thành phố khác vẻ đẹp của đồng quê, chỗ nào lúc nào chúng ta cũng thấy đẹp cả. Như vậy cuộc sống không có sầu não, bi quan. Ở một chỗ, nhìn một cảnh mãi cũng chán tức nhiên buồn, vì thế phải có sự đổi thay. Mỗi lần đổi không khí là mỗi lần vui, người ở thành phố chán, thích ra đồng quê chơi, người ở đồng quê lại thích trở về thành phố. Thế nên đổi thay là một nguồn vui chớ không phải buồn.
Tôi nhắc lại, chúng ta phải cởi mở hết những cố chấp, những ràng buộc. Chúng ta cứ nhớ rõ cuộc sống là tùy duyên, đã là tùy duyên thì cái gì đến chúng ta đều nhìn với niềm vui tươi, chớ không buồn khổ. Đừng nhìn lại quá khứ, vì chúng ta luôn luôn đổi mới, luôn luôn mới, ngày hôm qua đến ngày hôm nay cũng mới, chúng ta giữ cái cũ làm sao được. Tất cả đều mới thì cuộc sống phải mới. Vậy tất cả chúng ta phải hiểu được lý tùy duyên để cuộc sống của chúng ta lúc nào cũng vui tươi.
Tuy nhiên có người nói rằng: nếu tùy duyên như thế mãi thì mất mình làm sao, nên trong đoạn này tôi nói đến “bất biến”. Như tôi vừa nói tuy nước đổi ra thiên hình vạn trạng, nhưng tánh ướt của nước không mất; cũng thế chúng ta tùy duyên khi ở trên núi, khi xuống đồng bằng, khi vào thành phố v.v..., cảnh đổi thay nhưng việc tu hành thì ở núi cũng tu, xuống đồng bằng cũng tu, vào thành thị cũng tu... lúc nào cũng vẫn tu. Như vậy tu là bất biến, nhưng chỗ ở là tùy duyên. Đó là tùy duyên nhưng bất biến. Vậy dù ở cảnh nào cũng an vui để tu hành. Biết lý tùy duyên quí vị mới an vui, có an vui thì việc tu mới tiến. Trái lại quí vị không biết lý tùy duyên, khi ở nơi này thì nhớ chỗ kia, đến chỗ kia lại mong nơi khác, làm sao an vui? Không an vui thì phiền não, phiền não thì tu sao được?
Thế nên phải hiểu được lý tùy duyên, tùy duyên nhưng bất biến, nghĩa là trường hợp nào, hoàn cảnh nào cũng là trường hợp, hoàn cảnh để tu, chớ không vì lẽ ở nơi này mới tu được, ở nơi khác không tu được, đó là sai, là không hiểu nghĩa bất biến. Tùy duyên nhưng bất biến thì chúng ta thấy cuộc sống hiện tại lợi ích vô cùng. Vì tùy duyên nên chúng ta linh động chúng ta không chết khô, không cằn cỗi. Khô khan, cằn cỗi là bám vào một cái đã chết. Nếu quí vị biết lý tùy duyên thì vui mãi, dù thế nào cũng vui cười, có vui tươi thì tu mới được. Như vậy quí vị thấy chính lý tùy duyên mới giữ được sự bất biến, nếu không biết tùy duyên thì không tiến, không tiến thì tu đâu có được. Biết lý tùy duyên là tinh thần Bát-nhã, còn giữ được bất biến là đạo lý mình sống hằng ngày. Như trong đoạn trước tôi nói “không tâm đồng Tổ Phật” thì hoàn cảnh nào mình cũng vẫn “hồn nhiên mặc áo xiêm”, có gì là khổ? “Hồn nhiên mặc áo xiêm” là chỉ cho không tâm; còn tùy duyên là biết linh động, trong hoàn cảnh nào cũng an ổn, cũng đặt mình trong thế an vui tự tại. Thí dụ nếu bữa cơm nào cũng mâm cao cỗ đầy toàn là xào chiên, thì rất ngán. Thỉnh thoảng đổi một bữa rau luộc, muối tiêu, muối ớt chúng ta sẽ thấy ngon miệng. Như vậy sự đổi cho mình được mùi vị mới, ngon. Thuở xưa đức Phật, nay khất thực xóm này, mai dời đến làng kia, như một dòng suối chảy, nhưng đi nơi nào Phật cũng vẫn là Phật, chớ không phải đi nơi này Ngài là Phật, nơi kia Ngài không phải là Phật. Khi đến cung vua thọ trai, khi đi trong xóm làng khất thực, khi được các trưởng giả dâng cúng, khi lại ăn lúa mạch v.v... nhưng Ngài vẫn không đổi thay, Phật vẫn là Phật. Phật như vậy thì chúng ta hiện nay cũng như vậy, có gì mà buồn. Chúng ta cũng là một dòng sông trôi chảy, chúng ta không bằng được Phật nhưng cũng phải tương tợ một chút. Cảnh nào cũng là cảnh vui, nghĩa là trong cảnh sung túc thì vui với cảnh sung túc, trong cảnh chật vật thì vui với cảnh chật vật, hôm nay mâm cao cỗ đầy thì vui với mâm cao cỗ đầy, ngày mai muối tiêu muối ớt thì vui với muối tiêu muối ớt, cảnh nào cũng vui, không thấy có gì là đau khổ, như thế chúng ta mới tu tiến được.
Chúng ta phải - nói theo thế gian - “hưởng cho hết những ngày trời”. Những ngày trời là những ngày gì? Là ngày nào đến với chúng ta, chúng ta hưởng hết ngày ấy không có phí mất, phút giây nào cũng là phút giây an vui của chúng ta. Chuyện sang năm chưa biết ra sao mà nay cứ ngồi lo chuyện sang năm; chuyện năm qua trôi đâu mất, nay ngồi nhớ lại mặt ủ mày chau. Việc đã qua để nó qua, việc sắp đến tự nó đến, hiện tại cứ vui với hiện tại, như thế cuộc sống của chúng ta không phí mất thì giờ vô ích. Quí vị nhớ như vậy thì cuộc sống của chúng ta là một cuộc sống an vui tự tại; tuy chưa làm Phật nhưng cũng được an nhàn, được bớt khổ rồi. Còn những người cứ mơ ước vị lai, hối tiếc quá khứ thì họ đau khổ mãi, không bao giờ an ổn được. Chúng ta phải hiểu rõ như vậy. Thế nên Tổ Lâm Tế dạy: Tùy duyên tiêu cựu nghiệp. Tiêu bằng cách nào? Nếu không biết tùy duyên thì oán hờn, buồn trách nên tạo thêm nghiệp mới. Lại nữa, người không biết tùy duyên gặp cảnh vui thì cho ta là người hơn thiên hạ, sanh kiêu căng, do đó những thói cũ thuở xưa sống dậy, nghiệp cũ chưa dứt lại tạo thêm nghiệp mới. Trái lại biết tùy duyên thì cảnh đến an nhiên với cảnh đến, cảnh đi cũng an nhiên với cảnh đi, duyên đến vui hay buồn cũng vẫn an ổn. Không thấy vui mà tự hào, không thấy buồn mà sầu thảm. Không tự hào tức không ngã mạn, không sầu thảm tức không oán hờn, lòng an nhiên, bao nhiêu nghiệp cũ lần lần tiêu sạch. Ví như người bệnh bao tử, hoặc bệnh tim, bệnh phổi v.v... nếu có bệnh cũ rồi nay giữ mình không để cho bị cảm, tức là thời tiết xấu đến, khéo linh động không cho xâm nhập vào mình thì bệnh cũ lần lần hết. Trái lại nếu bị cảm, người bệnh phổi thì ho, người đau tim thì mệt, người đau bao tử thì đau bụng. Đó là gốc tại thời tiết xấu hiện nay làm cho bệnh cũ phát lại, nếu cũng thời tiết đó mà chúng ta khéo vượt qua được thì bệnh cũ cũng lành. Vì thế biết được lẽ tùy duyên thì nghiệp cũ lần lần sạch, còn không biết được lẽ tùy duyên thì nghiệp cũ cũng khó tiêu mòn. Chúng ta tu là phải làm thế nào nghiệp mới không tạo, nghiệp cũ dứt sạch, mới thoát ly sanh tử được. Đấy là nghĩa “tùy duyên tiêu cựu nghiệp”.
Nhậm vận trước y xiêm là ở trong cảnh nào tâm chúng ta cũng rỗng rang tự tại, không phiền muộn, không có những niệm lăng xăng suy tưởng, như ngài Thiện Chiêu nói: “Tâm không, đồng Tổ Phật.” Tâm rỗng rang tự tại là chúng ta sống một cách hồn nhiên, sống hồn nhiên nên chúng ta đồng Phật, Tổ. Đồng với Phật, Tổ là thoát ly sanh tử, đó là mục đích của người tu. Như vậy cuộc sống chúng ta đang và sẽ sống là một cuộc sống linh động; đừng cố chấp, đừng bám chặt vào bất cứ một điều gì thì tự nhiên chúng ta an lành, tâm lần lần thảnh thơi, sự tu hành được tiến, thoát được những phiền não quấy nhiễu. Chúng ta tu là cốt thoát ly sanh tử, nếu còn phiền não thì không thể nào ra khỏi sanh tử. Muốn dứt phiền não thì phải có trí tuệ sáng suốt mới được.
Tóm lại khi năm cũ sắp hết, chúng ta ôn lại xem có điều gì dở thì ráng đập cho nát, chuẩn bị qua năm mới chúng ta sẽ sống tùy duyên tiêu cựu nghiệp, đừng để nghiệp cũ dấy lên lôi chúng ta trở lại những điều hư dở của năm cũ nữa. Phải tập sống hồn nhiên để “tâm không, đồng Tổ Phật”, nghĩa là làm thế nào càng ngày tâm chúng ta càng rỗng nhẹ, cho đến rỗng trơn không còn chi cả để đồng với Phật Tổ, như vậy mới khỏi uổng một đời tu. Nếu để chứa ăm ắp, nặng trình trịch trong tâm thì rất nguy, dễ bị rơi chìm tận đáy biển, phải cố gột rửa cho sạch những cố chấp, những phiền não cho tâm hồn thảnh thơi nhàn hạ. Muốn được như thế thì phải biết tùy duyên, nhưng tùy duyên mà bất biến, đừng nói ở cảnh cũ tôi tu hay quá, nay đến cảnh này tôi tu không được, thôi không tu nữa. Đó là tùy duyên rồi tan biến, mất mình. Vì thế nên nhớ tùy duyên mà bất biến mới thật là người hiểu đạo, còn tùy duyên mà tan biến thì đó là người không tiến tu được và phải bị trầm luân.
Tôi nhắc lại: Hôm nay là buổi Tất niên tức là từ biệt năm cũ, nhìn lại những điều dở, chúng ta phải đập tan hết để chuẩn bị cho năm mới tập sống tùy duyên mà bất biến, đó là điều tôi mong mọi người ứng dụng ngay từ năm mới này.
PHÁP MÔN KHÔNG HAI
Xuân Giáp Tý - 1984
Năm nay là năm Giáp Tý, dương lịch 1984, tất cả quí vị đã đến đây chúc mừng năm mới, tôi sẽ có nhiều lời nói chuyện cùng quí vị, gọi là nhắc nhở nhau trên con đường tu hành, để mỗi người sang năm mới này có đầy đủ những tư liệu tiến tu cho được sớm giác ngộ và giải thoát.
Điều căn bản mà chúng tôi muốn nói hôm nay là “PHÁP MÔN KHÔNG HAI” hay nói cách khác là “BẤT NHỊ PHÁP MÔN”. Nói không hai đây, tôi sẽ dẫn từ kinh cho đến thiền, để quí vị nghiệm và nghiền ngẫm thấy lý đạo rõ ràng, khiến trên đường tu chúng ta khỏi ngờ vực, và khỏi mắc phải những bệnh thiên chấp hoặc bên này hoặc bên nọ. Tất cả người tu, muốn thoát khổ được vui không gì hơn phải dùng Trí tuệ Bát-nhã soi sáng phá tan mọi chấp nê của mình. Nhờ phá được cái chấp mình mới hết khổ. Vì vậy mở đầu là kinh Bát-nhã. Quí vị nhớ trong kinh Bát-nhã nói về Pháp Môn Không Hai thế nào? Đây tôi dẫn như câu: “Sắc tức thị không, không tức thị sắc.” Như vậy sắc và không là hai, phải vậy không? Mà ở đây tinh thần Bát-nhã cho chúng ta thấy sắc chính là không, không chính là sắc; thì như vậy có hai không? Ngay cái sắc đã là không, ngay cái không đã là sắc, thì làm gì có hai? Đó là tinh thần Bát-nhã. Tại sao sắc tức là không, không tức là sắc? Đây tôi nói hai mặt.
Mặt thứ nhất là trong cái sắc có không, tức là cái không và cái sắc tương đối. Trong cái sắc này có không, trong cái không này có cái sắc. Trong cái sắc có không là thế nào? Chắc rằng quí vị cũng nghe rõ với tinh thần khoa học, gần đây nhất có những nhà khoa học nói rằng dùng kính hiển vi khuếch đại tối đa nhìn thấy trong cái sắc này phần không nhiều hơn phần sắc. Như vậy, chính trong cái có đó, trong cái sắc đó đã chan chứa cái không ở trong rồi. Cũng như về thân chúng ta, quí vị thấy cái sắc chất này cái không nhiều hay cái sắc nhiều? Mỗi lỗ chân lông là thưa hở, là trống, rồi lỗ mũi, lỗ tai, cái miệng, tất cả đều là trống hở cho nên mới có không khí ra vào, mới có thức ăn lưu chuyển ở trong v.v... Chính cái thân sắc chất này, đã mang đầy tính chất không ở trong. Cũng chính cái không mà chúng ta thấy đó, mang đầy đủ hình sắc, nhưng vì tế vi nhỏ nhít mà chúng ta không thấy được. Mắt thấy dường như không mà thật ra nếu dùng kính hiển vi nhìn thì nó hoàn toàn có tất cả thứ ở trong đó chớ không phải là không. Như vậy không, không hẳn là không, sắc không hẳn là sắc. Trong sắc có không, trong không có sắc. Lối nói sắc là không đó là lối nói tương đối không đúng lẽ thật; mà trên lẽ thật nó không hẳn là không, không hẳn là sắc mà ngay cái này đã có cái kia, ngay cái kia đã có cái này. Như vậy thấy rõ không và sắc là hai cái đối đãi, cho đến thị phi, hữu vô v.v... đều nằm trong cái đối đãi đó hết. Tất cả cái đối đãi đó đều là không thật, chỉ là gượng nói, tạm nói, chớ không có cái thật của nó. Vì vậy, với Trí tuệ Bát-nhã thấy không có cái không ngoài cái sắc và không có cái sắc ngoài cái không. Đó là tôi nói cái “Không đối đãi”. Nếu nói cái không của bản tánh, thì sắc chất có là do duyên hợp mà có. Bởi duyên hợp mà có, nên nó có mà không phải tự có, do nhiều yếu tố, nhiều nguyên nhân hợp lại thành. Do nhiều thứ hợp thành, nên nó không có cái thể cố định của nó. Không có thể cố định của nó mà tùy duyên. Đủ duyên thì hợp, hợp gọi là có; thiếu duyên thì tan, tan gọi là không. Vậy thì cái hiện có của nó là cái hiện có của duyên, chớ không có cái tự tánh, bởi không có tự tánh nên nói là không. Tuy mắt thấy nó hiện có mà tự tánh nó là không. Cũng như cái không, tuy không mà không cố định là không, tại sao? Vì đủ duyên hợp thành sắc. Đang trống không mà nếu có một cái gì tụ họp lại hoặc là đất, là đá, là nhà cửa v.v... thì ngay trong không biến thành sắc, ngay trong sắc đổi thành không.
Đứng về mặt thứ hai nói, cái sắc và không đều là do tướng của duyên. Đã là tướng của duyên nên nó không bị tự tánh. Bởi không có tự tánh nên có cũng vẫn là không. Đó là trí Bát-nhã thấy tường tận như vậy. Cái có đã là không, thì không chấp cái có thật có, cũng như cái không là có, thì không chấp cái không thật không. Không chấp cái có thật có, không chấp cái không thật không, khi mình nói cái đó là có mà có người khác nói là không thì mình nói làm sao, mình nên cãi không? Bởi mình đã thấy có không thật có, không không thật không thì có cần cãi làm gì? Bởi thấy có là thật có, không là thật không, nên mình nói có, mà người ta nói không, mình không chịu, vì không chịu nên sanh cãi. Như vậy, quí vị thấy rõ rằng khi thấy sắc không không hai thì chúng ta mất hết những niệm tranh hơn tranh thua, tranh phải tranh quấy. Nếu chúng ta không tranh hơn thua phải quấy thì tâm chúng ta có phiền não hay không? Sở dĩ chúng ta giận người này buồn người kia là tại sao, tại mình nói cái này phải, mà họ nói quấy. Mình nói cái này quấy họ nói phải. Hai cái khác nhau nên có sự chống đối, chống đối thì bực bội. Mình nói có mà họ nói không, thì mình bực bội không chấp nhận. Đó là sanh phiền não. Bấy giờ chúng ta thấy rõ tường tận: Sắc và không, không hai. Sắc không, không hai, thì có không cũng không hai, phải quấy cũng không hai, tốt xấu cũng không hai. Tất cả đối đãi đều không có thật. Bởi không có thật, hay không cố định, nên chúng ta đừng chấp. Chúng ta không chấp thì cái khổ không còn. Đó là một lối tu rất là dễ, rất là gần. Cho nên lý sắc không của Bát-nhã cho chúng ta thấy rõ tất cả sự vật ở thế gian này, trên phương diện ngôn ngữ thì tạm đặt, hoặc là có hoặc là không, hoặc là thiện, hoặc là ác, hoặc là phải, hoặc là quấy. Tạm đặt để dùng thôi, không phải là cứu kính, không phải là chân lý. Hiểu như vậy chúng ta đừng chấp. Nếu không chấp thì chúng ta sẽ tự tại trước mọi hình tượng đổi thay, trước mọi ngôn ngữ sai biệt, không còn gì phiền não hết. Vì vậy, quí vị nhớ trong nhà Phật luôn luôn nói phiền não tức Bồ-đề, phải vậy không? Không phải rời phiền não mà có Bồ-đề riêng, như thế gian nói: “tôi phiền não quá”, phiền não là tâm điên đảo rối rắm, Bồ-đề là tâm giác ngộ. Người ta nói phiền não là khác với giác ngộ, giác ngộ là khác với phiền não, nhưng với tinh thần Đại thừa thấy ngay phiền não tức là Bồ-đề, ngay Bồ-đề không khéo thì thành phiền não. Như vậy phiền não tức Bồ-đề là sao? Bồ-đề tức phiền não là sao?
Tôi thí dụ, mình lên chùa tụng kinh là Bồ-đề, mà tụng kinh người đánh mõ cứ đánh chậm, lùi lùi lại hoài, lúc đó Bồ-đề dấy phiền não. Mình lên chánh điện tụng kinh là phát tâm Bồ-đề, tâm giác ngộ, mà người đánh mõ không vừa ý, mình bực mình muốn sân lên, như vậy Bồ-đề dấy phiền não rồi. Sao là phiền não tức Bồ-đề? Ví dụ: Mình đang giận một huynh đệ nào đó, giận đỏ mặt. Đang giận đỏ mặt là phiền não. Khi ấy bất thần có một Sư huynh đi ngang thấy nói: “Đã tu mà giận sao?” Mình xấu hổ hết giận, tâm lặng lẽ thanh tịnh lại. Vậy phiền não thành Bồ-đề, khỏi tìm kiếm đâu xa hết. Quí vị thấy phiền não, Bồ-đề đâu có xa, tâm dấy lên điên đảo là phiền não, lặng xuống thanh tịnh là Bồ-đề. Ngay trong Bồ-đề không khéo thành phiền não. Đâu có cái thứ hai ở ngoài chạy vô. Chúng ta khéo tu biết rõ hai cái không có rời nhau, ngay phiền não chuyển thành Bồ-đề, không khéo Bồ-đề biến thành phiền não, hiếm gì người từ Bồ-đề biến thành phiền não. Đây là tôi nói một chút ít để quí vị hiểu. Lý sắc tức thị không, không tức thị sắc cũng tương tự như vậy. Đó là dẫn đại khái kinh Bát-nhã cho quí vị thấy lý không hai.
Đến kinh Pháp Hoa.
Kinh Pháp Hoa nếu quí vị tụng phẩm Tự tức là phẩm mở đầu, quí vị thấy Phật dạy điều gì trong ấy? Phật không nói câu nào hết. Thấy Ngài ngồi kiết-già nhập định, lông trắng giữa chân mày phóng một luồng hào quang soi thấu đến cõi trời Hữu Đảnh, nương theo hào quang, đại chúng thấy trong đó các vị Bồ-tát tu nhân thế nào thành đạo thế nào, đều rõ ràng. Soi thấu xuống địa ngục A-tì, đại chúng nương hào quang thấy người nào tạo nhân gì, tạo nghiệp gì đọa địa ngục thứ mấy, thấy rõ hết. Nhân nào cũng biết, từ nhân địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh thấy rõ, còn nhìn lên thì nhân sanh các cõi trời cho tới nhân của các vị Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát đều thấy tu nhân nào được quả nào thấy rõ ràng hết. Như vậy Phật muốn nói cái gì? Chân mày là hai bên, phải vậy không? Ở giữa là sao? Là không hai bên, hào quang là tượng trưng cho trí tuệ, giữa chân mày là không kẹt hai bên. Cái trí tuệ không mắc kẹt hai bên đó mới thấy được tột cùng lý sanh tử luân hồi, tột cùng lẽ giải thoát thành Phật. Trí không mắc kẹt hai bên đó, trong kinh Pháp Hoa gọi là Tri kiến Phật. Nếu quí vị đọc lại thấy rõ ràng, bởi Tri kiến Phật (trí không mắc kẹt hai bên) là cái trí thấy rõ nhân sanh tử luân hồi, cũng như thấy rõ cái nhân và quả của Bồ-đề Niết-bàn giải thoát. Như vậy người nào sống với trí đó, người đó sẽ thành Phật. Vì Phật là thấy rõ con đường luân hồi sanh tử của chúng sanh, nhân thế nào, quả thế nào đều biết rõ Phật mới dạy. Và Ngài cũng biết rõ nhân thế nào, quả thế nào trên con đường giải thoát, Ngài mới dạy. Như vậy, thấy rõ hai manh mối đó và kết quả của hai con đường đó, thấy rõ không nghi ngờ nữa đó tức là Phật. Vì vậy Tri kiến Phật là trí tuệ không dính mắc hai bên, mới thấy rõ lý luân hồi sanh tử và lý giải thoát sanh tử, không còn nghi ngờ mà đạt tới chỗ viên mãn, đó là Phật. Đến phẩm thứ mười hai là phẩm Đề-bà-đạt-đa. Quí vị nhớ bà Long nữ bao nhiêu tuổi? Người ta kêu nàng Long nữ, nhưng tôi kêu bà Long nữ, vì Phật nói kinh trên hai ngàn năm rồi, thì kêu bà gì mới vừa? Vì trong hội Pháp Hoa là nàng Long nữ tám tuổi, nay trên hai ngàn năm rồi thì kêu bà gì mới được? Tôi kêu bà cũng là chưa xứng đó. Bà Long nữ do ngài Văn-thù giáo hóa nhận ra Tri kiến Phật. Tri kiến Phật không có hai bên thì có mắc kẹt nam nữ hay không? Không mắc kẹt nam nữ, vì nam nữ là hai bên mà Tri kiến Phật là không kẹt hai bên (nam nữ). Than ôi! Gần đây người ta tu hành lại cầu chuyển nữ thành nam để tu hành tinh tấn giáo hóa chúng sanh, chớ mang thân nữ nghiệp chướng ê chề tu hành không tiến. Cứ nghĩ như thế thật là xa xôi quanh co. Ngay nơi Tri kiến Phật không có nam nữ, mình cứ sống với cái Tri kiến Phật đó. Không có nam nữ thật, chuyển nữ thành nam làm gì cho mất công. Bà Long nữ khi nhận ra Tri kiến Phật, Bồ-tát Trí Tích hỏi Bồ-tát Văn-thù, ngài Văn-thù giáo hóa ở Long cung có vị nào ngộ đạo chưa, ngài Văn-thù nói: có. Giây lát bà Long nữ xuất hiện, ngài Trí Tích và ngài Xá-lợi-phất nghi. Vì Phật nói người nữ có chín điều chướng tu hành không thành Phật. Thành Ma vương còn không được, huống nữa là thành Phật. Bà Long nữ mới tám tuổi, còn là con nít, trẻ con đã là tệ, lại là nữ nữa, cộng thêm là rồng, rồng tức là súc sanh. Ba thứ tệ như vậy, mà ngài Văn-thù nói đó là nguời đã ngộ đạo thì làm sao ngài Xá-lợi-phất tin nổi. Cho nên, ngài Xá-lợi-phất không tin, làm sao con người như vậy mà thành Phật, ngộ đạo tức sẽ thành Phật. Bà Long nữ biết hai Ngài không tin mình, nên đến trước Phật lấy hạt châu trong áo dâng lên Phật, Phật nhận để lên bàn, bà xoay lại hỏi hai ngài Trí Tích và Xá-lợi-phất:
- Các Ngài thấy Thế Tôn nhận hạt châu của tôi dâng, lâu hay là mau?
Ngài Xá-lợi-phất nói:
- Mau lắm!
Bà Long nữ nói:
- Tôi thành Phật cũng nhanh như vậy.
Liền đó thấy bà sang phương Nam ở nước Vô Cấu chuyển thân thành Bồ-tát, thành Phật liền. Nhờ cái gì mau thành Phật lắm vậy? Nhờ bà nhận ra Tri kiến Phật, là cái trí không mắc kẹt hai bên. Trí đó không nam không nữ nên không bị chướng, còn cái thân nghiệp chướng sâu dày của người nữ (tôi nói đây không phải chê) theo trong kinh nói là đứng trên nghiệp tướng mà nói, còn cái Tri kiến Phật là đứng trên Phật tánh mà nói hay trên Pháp thân mà nói. Nhìn trên Phật tánh hay Pháp thân thì không có nam nữ. Bởi không có hai làm gì có nam nữ, còn thấy nam thấy nữ, là nhìn ở trên nghiệp tướng tương đối. Nghiệp tướng là tương đối, là hư giả đâu có thật. Vậy tại sao mình khư khư chấp cái giả rồi khổ sở mong chuyển cái giả này qua cái giả kia, chi cho cực, phải vậy không? Biết rõ cái giả này giả rồi, thì cái giả nữ giả, cái giả nam cũng giả, ngay đó mình sống với cái thật không nam không nữ cho khỏe. Quí vị thấy rõ nhớ không thấy hai, là trí tuệ siêu thoát cái chấp tương đối. Trí tuệ đó là Tri kiến Phật, cho nên bà Long nữ thành Phật chỉ trong chớp mắt. Quí vị tu theo đường lối này cũng vậy. Làm sao thành Phật trong chớp mắt, khỏi chuyển nữ thành nam gì hết. Đó là kinh Pháp Hoa.
Đến kinh Duy-ma-cật.
Trong kinh Duy-ma-cật về phẩm “Bất Nhị Pháp Môn”, trong phẩm này có cả thảy ba mươi hai vị Bồ-tát giải thích về Pháp môn bất nhị. Tôi kể vị Bồ-tát thứ nhất là Bồ-tát Pháp Tự Tại giải thích về Pháp môn bất nhị như vầy: “Sanh diệt là hai, pháp xưa chẳng sanh nay chẳng diệt, được vô sanh pháp nhẫn, gọi là nhập Pháp môn bất nhị (vào pháp môn không hai).”
Sanh diệt là hai, đây là sanh, kia là diệt, thấy hai cái đó là hai bên, giờ cái sanh không thật sanh, cái diệt không thật diệt thì không hai, thấy được cái lẽ không hai đó là nhập, là được vô sanh pháp nhẫn, là nhập Pháp môn bất nhị.
Pháp môn bất nhị là không mắc kẹt hai bên. Không mắc kẹt hai bên là nhập Pháp môn bất nhị. Kế đó mỗi vị Bồ-tát đều trình bày từng cặp như vậy, tức là hai cái, nào là động tịnh v.v... cũng giống hệt như vậy, ở đây chúng tôi không kể. Cuối cùng ngài Văn-thù cũng trình bày về Pháp môn không hai, nghĩa là dùng ngôn ngữ để dẹp ngôn ngữ. Ngài Văn-thù trình bày xong, Ngài nói với ông Duy-ma-cật: “Chúng tôi đã trình bày về lý Pháp môn bất nhị xong, tới phiên nhân giả, nhân giả nên nói về Pháp môn bất nhị cho chúng tôi nghe.” Ngài Duy-ma-cật lên tòa ngồi kiết-già rồi làm thinh. Khi ông Duy-ma-cật lặng thinh thì ngài Văn-thù khen: “Hay thay, hay thay, cho đến không có văn tự ngữ ngôn, mới là chân thật nhập Pháp môn không hai.” Chân thật nhập Pháp môn bất nhị là không có ngôn ngữ. Tại sao vậy? Vì mở miệng là thành hai mất rồi, bởi vì ngôn ngữ luôn luôn lập trong đối đãi. Nói phải thì có quấy, nói có rồi có không, nói hơn thì có thua, nói đen rồi có trắng, nói tốt thì có xấu, luôn luôn như vậy, mở miệng là nằm trong cái hai. Vì vậy ngài Duy-ma-cật ngồi lặng thinh, được Bồ-tát Văn-thù khen. Đó là chỗ không còn ngôn ngữ, chỗ đó mới thật là nhập Pháp môn bất nhị. Tôi đã dẫn phần kinh rồi, bây giờ tới Thiền sư.
Trước là Tổ Tăng Xán. Tổ Tăng Xán là Tổ thứ ba ở Trung Hoa. Bài “Tín Tâm Minh” của Ngài tôi đọc vài đoạn cho quí vị nghe để thấy:
Chí đạo vô nan,
Duy hiềm giản trạch.
Đản mạc tắng ái,
Đỗng nhiên minh bạch.
Hào ly hữu sai,
Thiên địa huyển cách.
Đạo đắc hiện tiền,
Mạc tồn thuận nghịch.
Tôi chỉ dẫn hai đoạn thôi. Bốn câu trên Ngài nhấn mạnh hai chữ tắng ái. “Đản mạc tắng ái”, nghĩa là chỉ chớ yêu ghét thì “đỗng nhiên minh bạch” là rõ ràng sáng suốt. Tiếp theo “đạo đắc hiện tiền” nghĩa là muốn thấy cái chân thật hiện tiền (trước mắt), thì “mạc tồn thuận nghịch” là chớ còn thuận nghịch. Nếu còn thuận nghịch thì không có hiện tiền, nếu còn yêu ghét thì không thể rõ ràng minh bạch. Ngài chỉ cho chúng ta thấy người còn thấy hai, là còn ở trong cái kẹt. Tôi giải thích từ đầu:
“Chí đạo vô nan”: Chí đạo là cái đạo tột cùng, cái đạo đó không khó, mà tại sao khó? “Duy hiềm giản trạch”: Chỉ bởi mình giản trạch. Giản trạch là sao? Là chọn lựa, có một có hai, có tốt có xấu, có phải có quấy đó. Bởi giản trạch nên chí đạo trở thành nan, chớ chí đạo thì vô nan, vì giản trạch mà trở thành nan mất rồi. Như vậy, Ngài mới chỉ cái lỗi, bởi giản trạch nên mới có yêu ghét. Nếu dứt được yêu ghét thì rõ ràng minh bạch, chí đạo hiện tiền rõ ràng minh bạch, chớ không có gì hết. Sau đó Ngài bảo, nếu mình còn có một mảy may sai biệt, thì xa cách với đạo như trời với đất. Vậy muốn được thấy chí đạo hiện tiền, thì đừng còn thuận nghịch. Yêu ghét, thuận nghịch là những vế chỉ về hai; cái hai mà mất rồi, thì chí đạo hiện tiền; cái hai mà mất rồi, thì rõ ràng minh bạch không nghi ngờ nữa.
Đây Tổ Tăng Xán Ngài chỉ cho chúng ta rõ ràng, cái cứu kính thấy đạo phải rời cái chấp hai phải không?
Bây giờ đến Lục Tổ. Lục Tổ ngài dạy chúng ta sao? Đây trong phẩm “Phó Chúc”, ở kinh Pháp Bảo Đàn, Ngài nói: Nay tôi dạy các ông nói pháp chẳng mất bản tông, nếu người hỏi “có” đem “không” đối, hỏi “không” đem “có” đối, hỏi “phàm” lấy “Thánh” đối, hỏi “Thánh” lấy “phàm” đối. Như hỏi thế nào là có? Phải nói bởi không mà có. Hỏi thế nào là không? Bởi có thành không. Nói vậy là giải thích có và không là đối đãi, có và không nương nhau. Nhân cái không mà nói có, có không không có thật. Nếu thấy có không không thật thì phàm Thánh không thật, tốt xấu cũng không thật, hơn thua cũng không thật, phải quấy cũng không thật. Nhưng mà mình có chịu chấp nhận sống với phải quấy không thật đó không? hơn thua không thật không? Chắc không chịu, nếu chịu sống với cái không thật là Thánh mất rồi. Tại sợ làm Thánh buồn, nên ưng làm phàm, rồi chấp nhận phải quấy, cho nên gặp nhau thì ngồi nói chuyện phải quấy. Bởi muốn làm phàm cho nên chấp nhận hơn thua, tốt xấu, vì vậy gặp nhau thì nói chuyện hơn thua, tốt xấu, nói người này tốt người kia xấu, người này phải người kia quấy, người này hơn người kia thua, cái này hay cái nọ dở. Cứ như vậy nói hoài, nói không cùng, do đó làm phàm mãi không thôi. Bây giờ muốn làm Thánh thì sao? Chỉ lần bỏ hai cái đó, đừng nói phải nói quấy, đừng nói hơn nói thua, đừng nói tốt nói xấu v.v... những cái đó thấy đều không thật. Thấy không thật thì không chấp, mà không chấp thì phiền não từ đâu mà sanh, mà bỏ những cái đó dễ không? Người xưa đã nói: “Điểm thiết hóa thành kim ngọc dị, khuyến nhân trừ khước thị phi nan”, nghĩa là chỉ sắt biến thành vàng ngọc dễ, khuyên người dẹp bỏ phải quấy khó. Bỏ được phải quấy khó lắm. Tại sao khó lắm vậy? Tại vì cái nghiệp chủng chúng sanh nó sâu dày quá phải không? Quí vị nhớ nói phải nói quấy, nói hơn nói thua, nói tốt nói xấu đều là cái nói của phàm phu. Cái chủng nghiệp phàm phu nó sâu quá nên ngồi lại thì cứ như vậy mà tiếp tục. Bây giờ bỏ hết những cái đó, dừng hết đừng thấy phải quấy thật, đừng thấy tốt xấu thật, đừng thấy hơn thua thật, đừng thấy có không thật v.v..., tất cả những cái hai bên mình không chấp nữa, đó là trí tuệ của Thánh nhân, là Tri kiến Phật, dễ hay khó? Bảo quí vị làm cái gì? Chỉ cần đừng mắc kẹt hai bên là Thánh mất rồi, tìm đâu cho xa. Đừng chấp như vậy là Thánh, cho nên người tu muốn thoát khỏi những cái phàm tục thì phải ứng dụng triệt để cái thấy không hai bên đó, phải thoát khỏi cái thấy hai bên. Nếu chúng ta thoát được cái thấy hai bên là chúng ta đã thoát ly được sanh tử, còn mắc kẹt trong cái hai bên, là chúng ta đi trong dòng sanh tử. Bởi vì không thấy hai bên là trí tuệ siêu sanh tử, gọi là Tri kiến Phật hay Phật tuệ, còn nếu thấy hai bên là trí tuệ của phàm phu là sanh tử.
Cho nên các Thiền sư ứng dụng triệt để lối phá chấp hai bên. Bây giờ tới Hòa thượng Thạch Đầu.
Có vị Tăng hỏi: Thế nào là giải thoát?
Ngài trả lời: Ai trói ngươi?
Hỏi: Thế nào là Tịnh Độ?
Ngài trả lời: Cái gì làm nhơ ngươi?
Hỏi: Thế nào là Niết-bàn?
Ngài trả lời: Ai đem sanh tử đến cho ngươi?
Như vậy ngài Thạch Đầu có trung thực với Lục Tổ dạy không? Ngài Thạch Đầu trả lời có mắc kẹt hai bên không? Hỏi giải thoát thì Ngài dùng triền phược tức trói buộc để đáp giải thoát, hỏi Tịnh độ thì Ngài dùng cái uế mà đáp, hỏi Niết-bàn thì Ngài dùng sanh tử mà đáp, phải vậy không? Như vậy để chúng ta thấy rằng, nếu sanh tử không thật thì Niết-bàn cũng không thật, tịnh không thật thì uế cũng không thật, giải thoát không thật thì triền phược cũng không thật. Hai cái đều là đối đãi tạm có không thật. Bởi không thật mà chấp tức là ngu si, vì chấp là thấy có thật. Cái gì mình chấp đều là do thấy nó thật, nếu thấy nó giả thì hết chấp. Quí vị xét thấy phải không? Thí dụ có người chửi mình là con chó, mà mình biết lời nói đó giả dối không thật, thì mình có giận không? Nếu họ nói mình là con chó, mình giận đùng đùng lên, là mình thấy lời nói đó có thật. Bởi thấy thật nên mới giận. Như vậy, thấy không thật thì mọi cái chấp hết. Cái chấp hết thì khổ đau mới hết hay không? Tu để thoát khổ đau, chấp là nguồn gốc của khổ đau. Tu là để giải thoát, mà chấp là cái triền phược không giải thoát nổi. Cho nên các Thiền sư ứng dụng triệt để lối phá chấp hai bên đó. Đó là ngài Thạch Đầu.
Đây tới ngài Mục Châu.
Thiền sư Mục Châu là Sư huynh của Tổ Lâm Tế.
Có vị Tăng hỏi: Lấy một lớp dẹp một lớp thì chẳng hỏi, khi chẳng lấy chẳng dẹp thì thế nào?
Ngài đáp: Hôm qua trồng cà, ngày nay trồng dưa.
Là thế nào? Nói lấy một lớp dẹp một lớp thì không hỏi, nghĩa là tôi không hỏi cái lấy cái dẹp, tôi không hỏi cái hai bên. Bây giờ chẳng lấy chẳng dẹp, tức bỏ cả cái hai bên thì lúc đó làm sao? Ngài nói: hôm qua trồng cà, hôm nay trồng dưa là sao? Nếu tôi nói ra thì hết đi tức là dành phần của quí vị hết rồi. Đó là hình ảnh của người xưa vậy.
Đến một hình ảnh nữa, là câu chuyện gần đây tôi kể cho quí vị nghe. Đó là chuyện ngài Sơ Sơn hỏi đạo ngài Qui Sơn. Ngài Sơ Sơn là một Thiền khách đến chỗ ngài Qui Sơn để hỏi đạo. Khi đến nơi, ngài Sơ Sơn thưa rằng:
- Con được nghe Hòa thượng nói: “Câu có câu không như bìm leo cây.” Bỗng dưng cây ngã bìm khô thì câu về chỗ nào?
Câu hỏi này giống như câu hỏi ở trên không? Giống hệt, bởi vì “câu có câu không như bìm leo cây”, tức là có và không Tổ Qui Sơn ý nói có không giống như cây và dây bìm. Dây bìm và cây là hai, phải vậy không? Nó nương nhau. Có và không cũng nương nhau là hai. Bây giờ, con không hỏi cái hai nữa; khi cây ngã bìm khô thì câu về chỗ nào? Là khi hết hai rồi thì lúc đó sao? Ngài Qui Sơn cười hả hả mà không nói thêm câu nào hết. Ngài Sơ Sơn thấy ngài Qui Sơn cười hả hả thì tức mình quá, thưa: Con từ bốn ngàn dặm mang khăn gói đến đây hỏi đạo, mà Hòa thượng đùa như vậy. Khi đó, ngài Qui Sơn kêu: Thị giả! Đem tiền hoàn lại cho Thượng tọa này. Thôi bây giờ tôi hoàn tiền lại, công ông đi xa đó. Rồi Ngài dặn: Sau sẽ có con rồng một mắt vì ông mà điểm phá.
Ngài Sơ Sơn từ giã ra đi. Ngài đi một thời gian lâu xa, đến một Thiền sư là ngài Huệ Chiêu. Huệ Chiêu là một Thiền sư có một con mắt. Khi đến ngài Huệ Chiêu, ngài Sơ Sơn đảnh lễ thưa hỏi. Ngài Huệ Chiêu hỏi:
- Ông từ đâu đến?
Ngài Sơ Sơn đáp:
- Từ Qui Sơn đến.
Ngài Huệ Chiêu hỏi:
- Có những gì ở Qui Sơn, kể lại nghe.
Ngài Sơ Sơn thuật lại, đến đó hỏi như vậy, Tổ Qui Sơn cười như vậy.
Ngài Huệ Chiêu nói:
- Qui Sơn đầu chánh, đuôi chánh, chỉ vì không gặp tri âm.
Ngài Sơ Sơn nghe, không hiểu gì hết, nên đặt câu hỏi lại với ngài Huệ Chiêu:
- Khi cây ngã bìm khô rồi câu về chỗ nào?
Ngài Huệ Chiêu liền nói:
- Nụ cười của Qui Sơn lại thêm tươi.
Ngay đó, ngài Sơ Sơn ngộ đạo. Khi ngộ đạo rồi, Ngài nói, nguyên lai trong tiếng cười của Qui Sơn có đao.
Ngang đó xong. Có một Thiền sư sau này là ngài Hoằng Trí làm bài tụng bốn câu:
Thọ đảo đằng khô vấn Qui Sơn,
Đại tiếu ha ha khởi đẳng nhàn.
Tiểu lý hữu đao huy đắc phá,
Ngôn tư vô lộ tuyệt cơ quan.
Tôi tạm dịch:
Bìm khô cây ngã hỏi Qui Sơn,
Ha hả cười to há rỗng trơn.
Đao sẵn trong cười xem được thấu,
Không đường bàn nghĩ bặt mối mang.
Đó là bài tụng. Qua bài tụng quí vị thấy Ngài nói gì?
“Bìm khô cây ngã hỏi Qui Sơn”, là lập lại câu hỏi của ngài Sơ Sơn.
“Ha hả cười to há rỗng trơn”, cười ha hả đó không phải là cười suông đâu, nên nói:
“Đao sẵn trong cười xem được thấu”, là biết trong tiếng cười có đao là đã ngộ rồi, chừng đó mới thấy sao?
“Không đường bàn nghĩ bặt mối mang”, chỗ đó không có đường nói năng, suy nghĩ bặt hết, mọi mối mang, manh mối không còn. Quí vị thấy chỗ đó không?
Bây giờ, tôi có thể đổi lại câu nói rằng trong tiếng cười của Qui Sơn có đao, tôi nói trong nụ cười của Qui Sơn có cam lồ được không? Quí vị thấy được không? - Được. Tại sao nói đao, lại nói cam lồ mà được? Quí vị mới thấy, lý đạo sâu kín mà nó lại hiện tiền. Ngài Qui Sơn cười, đối với ngài Sơ Sơn lúc đó tưởng Ngài đùa với mình, khi mình đang khao khát, băn khoăn tới để hỏi đạo, mà hỏi rồi Ngài chỉ cười mà không nói một lời, không tức sao được, phải vậy không? Vì thế, Sơ Sơn nói: Con từ ngàn dặm mang khăn gói đến mà Hòa thượng đùa như vậy. Nhưng ngài Qui Sơn bình tĩnh nói thôi lấy tiền trả thù lao cho công ông đi xa, chớ không nói gì hết. Mặc Sơ Sơn tức tối, ngài Qui Sơn không nói thêm một câu. Như vậy, tiếng cười của ngài Qui Sơn cười để mà cười hay cười để làm gì? Như vậy cái cười của Qui Sơn và cái im lặng của Duy-ma-cật có giống nhau không? Tại sao cười và im lặng mà giống nhau? Nếu cái cười của Qui Sơn và cái im lặng của Duy-ma-cật giống, thì trong tiếng cười có đao hay trong tiếng cười có cam lồ cũng giống, phải vậy không? Mà thấy được như vậy đó là sao? Nếu thấy trong tiếng cười có đao, là người đó xem được thấu, còn nếu thấy trong tiếng cười có cam lồ thì xem cũng được thấu. Tại sao cười và im lặng mà giống? Câu chót của bài tụng: “Ngôn tư vô lộ tuyệt cơ quan.” Vì chỗ đó không còn hai bên rồi, đâu còn lời để nói, đâu còn chỗ để nghĩ, cho nên bặt hết mối mang. Chỗ bặt hết mối mang chỉ còn một tiếng cười, chỉ còn cái im lặng. Vì vậy hiểu được rồi, thấy cười, hoặc thấy im lặng, là thấy được chỗ cuối cùng đó. Còn nổi tức tối như ngài Sơ Sơn thì mang gói đi nữa.
Quí vị thấy cái chỗ tột cùng của người xưa muốn cho người ta thấy, mà không dùng lời. Vì dùng lời đã trật, nên Ngài chỉ cười thôi. Còn bên kia nói chỗ hai bên mà đã cuối cùng rồi thì chỉ còn im lặng thôi. Một bên thì im lặng, một bên thì cười, như vậy quí vị thấy, ngài Duy-ma-cật là Kinh, Tổ Qui Sơn là Thiền, hai bên có giống nhau không? Đâu có hai, phải vậy không? Như vậy, chúng ta mới thấy, Thiền là cốt tủy của Kinh, Kinh là nguồn gốc của Thiền, chớ không có gì lạ hết. Hiểu như vậy, chúng ta mới thấy, sự tu hành của chúng ta muốn đạt đạo, muốn đến chỗ không còn bị trầm luân sanh tử nữa thì phải làm sao? Đừng mắc kẹt ở hai bên. Cho nên các vị Thiền sư khi nói câu gì, hỏi cái gì thì luôn luôn gài Thiền khách bằng cái hai bên, hoặc là có, hoặc là không v.v... Nếu mình y đó mà trả lời hoặc bên này hoặc bên kia thì Ngài đưa hai ngón tay, để cho mình biết rõ rằng vừa còn kẹt bên này hay bên kia, là người chưa thấy đạo. Người thấy đạo là cười hoặc im lặng. Chỗ đó là chỗ thấy đạo đó, quí vị thấy chưa?
Đây là kết luận của tôi: Sang năm Giáp Tý này, tôi chúc quí vị được “nụ cười của Qui Sơn lại thêm tươi”. Đó là câu chúc đầu năm của tôi.
TÂM HẠNH NGƯỜI TU
Tất niên năm Giáp Tý - 1985
Đề tài tôi nói hôm nay là Tâm hạnh người tu. Đây là tôi muốn nhắm vào Tăng Ni tâm hạnh người tu như thế nào? Mục đích của chúng ta khi đi tu, cốt làm sao lợi ích cho mình, cho người, chớ không ai nghĩ rằng mình đi tu để làm trò cười cho nhân thế. Thế nên muốn trở thành người tu đứng đắn lợi mình, lợi người, thì cần phải hiểu rõ tâm hạnh của mình. Tâm là chỉ nội tâm, hạnh là chỉ hành động của thân; nội tâm và hoạt động của bản thân phải làm sao cho xứng đáng tư cách một người tu, để không hổ thẹn là đệ tử Phật. Nói đến tâm hạnh người tu, tôi không có dạy gì riêng mà chỉ dẫn những việc làm và những lời dạy của chư Tổ, của các vị Thiền sư để quí vị nhớ ứng dụng.
Đầu tiên tôi kể lại câu chuyện của ngài Ca-diếp, vị Tổ thứ nhất trong Thiền tông và cũng là một vị đệ tử lớn của đức Phật. Trong Thiền tông thường hay kể rằng ngài Ca-diếp được đức Phật truyền tâm ấn ba lần, nhưng chúng ta phần nhiều chỉ thấy có một lần. Hình ảnh thường được nhắc đến là trong hội Linh Sơn, khi đức Phật cầm cành hoa sen đưa lên, ngài Ca-diếp nhìn thấy mỉm cười, đức Phật mới truyền tâm ấn. Đó là điểm nổi bật, còn những hội khác thì chúng ta ít nhớ, ít biết.
Nay tôi kể lại câu chuyện ngài Ca-diếp đến yết kiến Phật tại tháp Đa Hòa. Một hôm đức Phật đang thuyết pháp cho một số thầy Tỳ-kheo nghe tại tháp Đa Hòa, ngài Ca-diếp từ xa về yết kiến Phật. Ngài tu theo hạnh đầu-đà nên mặc y phấn tảo - y do giẻ rách kết thành - và râu tóc xồm xoàm, hình tướng vừa dơ vừa xấu xí, nên các Tỳ-kheo có ý khinh bỉ Ngài. Đức Phật biết được tâm niệm chúng Tỳ-kheo, nên gọi: “Này Ca-diếp! Đến đây, ta nhường cho ông nửa tòa ngồi.” Phật lại bảo tiếp: “Này các Tỳ-kheo! Ta có Tam minh Lục thông, thì Ca-diếp cũng có như ta vậy...” Phật kể tất cả những pháp mà Phật có và kết luận: “Ca-diếp cũng có như ta vậy, vì thế ta mời Ca-diếp đến đây nhường nửa tòa cho ngồi.” Khi ấy ngài Ca-diếp quì trước đức Phật, Ngài bạch: “Bạch đức Thế Tôn, con là đệ tử, Thế Tôn là thầy, con không dám đến, xin Thế Tôn cho con được phép ngồi đây.”
Câu chuyện trên trích từ kinh A-hàm, trong hội đó đức Phật nhắm phá tâm ngã mạn của chúng Tỳ-kheo, nhưng trong nhà thiền thì thấy đức Phật đã ca tụng ngài Ca-diếp đầy đủ những pháp mà đức Phật có và xứng đáng được đức Phật nhường nửa tòa ngồi, như vậy không phải truyền tâm ấn là gì? Đó là lần truyền tâm ấn thứ hai.
Lần thứ ba ở đâu? Đó là khi đức Phật tịch, ngài Ca-diếp từ xa hay tin vội tìm về, đến nơi thì nhục thân đức Phật đã được tôn trí vào kim quan. Ngài Ca-diếp đến phía sau kim quan đảnh lễ, đức Phật duỗi chân ra, ngài Ca-diếp rờ chân Phật. Đó là chỗ thông cảm giữa thầy trò và sự thông cảm đó là truyền tâm ấn. Vì vậy nên các Thiền sư sau này theo thuật đó.
Như Thiền sư Thanh Nguyên ở Trung Hoa, Ngài sai đệ tử là Thạch Đầu Hi Thiên đem thơ cho ngài Nam Nhạc Hoài Nhượng. Khi trở về ngài Thạch Đầu thưa: “Hòa thượng bảo con đem thơ xong, Hòa thượng sẽ cho con chiếc búa ở núi, xin Hòa thượng cho chiếc búa.” Ngài Thanh Nguyên duỗi một chân thẳng ra, ngài Thạch Đầu đảnh lễ, rồi về ở núi.
Ở Việt Nam, ngài Pháp Loa Tổ thứ hai trong Tam tổ Trúc Lâm, bệnh sắp tịch, ngài Huyền Quang đến hầu. Hai thầy trò vấn đáp xong, cuối cùng ngài Pháp Loa duỗi chân ra. Những người viết sử sau này không biết nói ngài Pháp Loa giận đá một cái, đó là điều lầm lẫn của những người không hiểu ý nghĩa Thiền, Ngài duỗi chân ra là Ngài chấp nhận ngài Huyền Quang đã thông cảm với Ngài, đó là một hình thức truyền tâm ấn. Hiểu như vậy chúng ta mới không lấy làm lạ. Một vị Tổ khi sắp tịch, giận đệ tử Ngài đá, thật hết sức vô lý. Hiểu chỗ này chúng ta mới thông cảm được đường lối truyền thừa của Thiền tông.
Câu chuyện ngài Ca-diếp mỉm cười khi đức Phật đưa cành hoa sen lên, có ý nghĩa gì? Về điểm này, tôi nhắc lại Thiền sư Phong Huyệt đời Tống, sau khi kiểm điểm sự tu hành của chúng, Ngài chưa được hài lòng nên khóc. Niệm Pháp Hoa( ) mới hỏi: “Tại sao Hòa thượng khóc?” Ngài Phong Huyệt nói: “Tông Lâm Tế đến ta e phải chìm mất, trong chúng đây không có người nào kế thừa được ta, ta buồn khóc.” Tỉnh Niệm thưa: “Hòa thượng thấy con thế nào?” Ngài Phong Huyệt nói: “Ngươi thì được, nhưng ngươi còn mê tụng Pháp Hoa quá.” Tỉnh Niệm thưa: “Việc đó không khó, Hòa thượng chỉ cho con biết yếu chỉ thì con sẽ buông.” Ngài Phong Huyệt hứa: “Như vậy sáng mai khi lên tòa, ta sẽ chỉ cho ngươi.” Khi ngài Phong Huyệt lên tòa, thuật lại việc đức Thế Tôn trong hội Linh Sơn, cầm cành hoa đưa lên rồi lấy mắt trong như hoa sen nhìn chúng, ngài Ca-diếp nhìn thấy liền mỉm cười, khi đó Tỉnh Niệm đứng dậy phủi áo đi, ngài Phong Huyệt cũng quăng gậy xuống tòa.
Ở Việt Nam đời Lê, Thiền sư Chân Nguyên đã làm mấy bài kệ nói về việc này. Bài thứ nhất là kệ “Giơ Cánh Hoa Lòng”, chữ lòng là dịch chữ Tâm.
Nhân duyên to lớn Phật ra đời,
Ca-diếp ấn truyền ngộ được thôi.
Cầm hoa cười mỉm còn nguyên đó,
Lá đẹp hương bay khắp đất trời.
Kinh Pháp Hoa nói đức Phật ra đời vì một đại sự nhân duyên, là chỉ cho chúng sanh Tri kiến Phật. Như vậy trong hội Linh Sơn chỉ ngài Ca-diếp là người được ấn truyền và được ngộ đạo ngay trong hội đó. Ấn truyền bằng cái gì? “Cầm hoa cười mỉm còn nguyên đó.” Đức Phật cầm cành hoa sen đưa lên, ngài Ca-diếp nhìn thấy chúm chím cười, là truyền ở chỗ đó, và từ đấy về sau “lá đẹp hương bay khắp đất trời”. Lá sen và hương sen bay khắp đất trời, từ Ấn Độ sang Trung Hoa, Nhật Bản, Việt Nam...
Bài kệ thứ hai là “Mật Trao Đèn Lòng” tức thầm trao đèn tâm.
Một điểm đèn lòng mắt Phật sinh,
Tương truyền bốn mắt đối phân minh.
Nối hương tiếp lửa luôn luôn sáng,
Gieo khắp rừng thiền gởi hữu tình.
Một điểm đèn lòng mắt Phật sinh, là ngọn đèn tâm sáng, trao được tâm ấy là từ mắt Phật. Phật đưa mắt như hoa sen nhìn chúng, ngài Ca-diếp nhìn lên, giữa Phật và Ngài cảm thông được nhau, nên Phật mới truyền tâm ấn, vì thế nói “tương truyền bốn mắt đối phân minh”. Lối truyền này còn gọi là “Tứ mục tương cố”, nghĩa là bốn mắt nhìn nhau, đó là chỗ ngộ đạo. “Nối hương tiếp lửa luôn luôn sáng”, từ đấy về sau ngọn đèn đó nối tiếp sáng mãi không cùng. “Gieo khắp rừng thiền gởi hữu tình” nghĩa là gieo khắp trong rừng thiền và gởi tất cả chúng hữu tình ngọn đèn từ mắt Phật sanh ra. Thế nên trong nhà thiền khi nói chuyện với nhau, các Thiền sư hay nhìn thẳng, thử xem người đệ tử thấu được điều mình muốn nói không.
Tổ Đạt-ma nói chuyện với ngài Huệ Khả, Huệ Khả thưa: “Xin Hòa thượng dạy con pháp an tâm.” Tổ Đạt-ma nhìn thẳng vào mặt Ngài bảo: “Đem tâm ra ta an cho.” Huệ Khả bối rối thưa: “Con tìm tâm không được.” Tổ Đạt-ma nói: “Ta an tâm cho ngươi rồi!” Như vậy, chính cái nhìn là điều quan trọng. Hiểu như thế mới thấy lối truyền thừa của Thiền tông phần nhiều hay dùng cái thấy, cái nghe.
Trở lại câu chuyện của ngài Ca-diếp để phù hợp với đề mục tôi đã nêu về tâm hạnh người tu. Tâm hạnh của ngài Ca-diếp như thế nào? Về hạnh thì Ngài tu hạnh đầu-đà, tức là khổ hạnh, nhọc nhằn, thiếu thốn... còn tâm Ngài thì Phật có cái gì Ngài cũng có cái ấy, tức là những gì Phật truyền cho Ngài, Ngài đều thừa hưởng hết. Vì vậy mới gọi Ngài là vị Tổ thứ nhất kế thừa Phật.
Vậy chúng ta phải như thế nào? Về thân chúng ta phải nghèo, phải thiếu, nhưng về tâm chúng ta phải giàu, phải có hòn ngọc quí, chớ không thể người tu mà thân thì sang trọng còn trong lòng thì rỗng tuếch, như vậy là không hợp đạo lý, không xứng đáng tư cách người tu.
Đây là lời răn nhắc cũng là lời tự thuật của ngài Vĩnh Gia. Cùng Thích tử, khẩu xưng bần, người Thích tử là kẻ nghèo, luôn luôn thấy mình nghèo, miệng tự xưng nghèo, xưng Bần đạo hay Bần tăng, nhưng bần đó là bần cái gì? Thật thị thân bần đạo bất bần, bần tức thân thường phi lũ hạt, đạo tắc tâm tàng vô giá trân. Về thân thì mặc áo vá, nhưng về đạo thì chẳng nghèo. Trong tâm chứa được hạt châu vô giá. Như thế Ngài chỉ cho chúng ta thấy rõ bổn phận của người tu. Đến đây tôi nhắc lại chữ Tỳ-kheo dịch nghĩa chánh là khất sĩ, khất là ăn mày, khất sĩ là kẻ ăn mày. Kẻ ăn mày làm sao giàu được, nên mới nói “cùng Thích tử, khẩu xưng bần”. Như vậy đứng về thân, chúng ta phải nghèo, mặc áo vá, nhưng tâm có hạt châu vô giá. Ngài còn dặn thêm:
Tòng tha báng, nhậm tha phi,
Bả hỏa thiêu thiên đồ tự bì,
Ngã văn kháp tợ ẩm cam lộ,
Tiêu dung đốn nhập bất tư nghì.
Người ta chê hay phỉ báng, chúng ta cứ xem như họ cầm lửa đốt trời, hay nói cách khác là cầm lửa đốt hư không. Cầm lửa đốt hư không thì chừng nào cháy hư không? Chỉ một lúc rồi tự thấy nhọc và có thể cháy tới tay nữa. Như vậy là người tu, dầu cho bị người chê bai, phỉ báng, tâm chúng ta không dính mắc, rỗng rang tự tại thì chẳng khác nào người kia cầm lửa đốt hư không vậy. Trái lại, nếu tâm mình có dính mắc tức là có bổi thì lửa dễ cháy. Họ mắng mình, lúc đó trong lòng họ có ấm ấm chưa? Tức là có nổi lửa rồi; mình nổi sân lại, họ vừa có lửa nhúm lên, gặp bổi của mình, hai cái phát cháy. Còn nếu họ nhen lửa đưa vào hư không thì bao giờ hư không cháy? Thế nên nếu thật tâm người tu chúng ta rỗng rang tự tại thì mặc tình họ khen chê, mặc tình họ phỉ báng, chúng ta vẫn rỗng rang tự tại, người chê bai phỉ báng đó chẳng khác nào kẻ cầm lửa đốt hư không và tự họ khổ. “Ngã văn kháp tợ ẩm cam lộ”, ta nghe giống như uống nước cam lồ. “Tiêu dung đốn nhập bất tư nghì”, nó đều tiêu dung vào chỗ không thể nghĩ bàn. Nếu chúng ta tu được như vậy thì thật là đẹp biết mấy. Người tu khi bị chê, bị khinh miệt, tâm vẫn rỗng rang tự tại, nghe những lời chê bai đó giống như uống nước cam lồ, mát rượi ngọt ngào, tất cả lời chê bai khinh bỉ đều tiêu dung vào chỗ không thể nghĩ bàn, đó mới đúng là người tu chân chánh.
Nếu người tu nghe chê mà nổi giận, la lối thì chưa đúng là người tu. Vậy quí vị tự kiểm lại xem mình xứng đáng là người tu chưa, nếu chưa thì ráng nỗ lực.
Quán ác ngôn thị công đức,
Thử tắc thành ngô thiện tri thức,
Bất nhân san báng khởi oan thân,
Hà biểu vô sanh từ nhẫn lực?
Ngài bảo chúng ta phải quán xét lời nói ác là công đức. Tại sao? Nếu chúng ta thấy những lời nói ác của người là công đức thì họ trở thành thiện tri thức của ta. Vì sao? Vì người mắng chửi, nhưng tâm mình vẫn an nhiên tự tại, thì lời mắng chửi đó là một thử thách để lường xem đạo lực mình đến đâu. Nếu đạo lực đã vượt qua được điều đó, là mình đã thắng được cái sân, thắng được sân là đã thành công trên đường đạo. Như vậy chính lời mắng chửi là bằng chứng để nghiệm xem đạo đức của mình, và nếu đó là sự thử thách đạo lực của mình thì người mắng đâu không phải là thiện tri thức. Nếu không nhân lời chê bai mắng nhiếc mình khởi lên oán hay thân thì đâu có đủ tiêu biểu cho sức vô sanh từ nhẫn. Chúng ta là người tu thì lòng từ bi đức nhẫn nhục tiêu biểu cho đạo lực, cho sức tu hành của mình. Nếu trước mọi cảnh trái nghịch mà tâm không dấy khởi đó gọi là vô sanh từ nhẫn lực. Thế nên nói đến người tu là nói đến người chiến thắng lòng mình, chớ không phải chiến thắng kẻ bên ngoài. Nếu trước những khó khăn, những nhục nhã mình chống đối lại đối tượng bên ngoài thì đó chưa phải là tư cách của người tu. Trái lại những đối tượng xấu đến, tâm mình vẫn an nhiên tự tại thì đó là tiêu biểu cho sức từ nhẫn vô sanh, tư cách người tu là phải như thế. Nếu chúng ta nói rằng mình tu được nhiều thời khóa, nhưng gặp cảnh vẫn sân si thì thời khóa đó trở thành vô nghĩa.
Lại Thiền sư Chân Nguyên cũng nhắc chúng ta tương tự như thế. Tôi trích một đoạn trong bài “Thiền Tịch Phú”:
Sãi chưng nay,
Mộ đạo tu hành,
Xả đường kinh lịch.
Chí dốc nên Phật Tổ siêu thăng,
Lòng nguyện độ chúng sanh trầm nịch.
Đêm đông trường khi mật niệm, gióng tiếng chuông thánh thót lênh kênh,
Ngày hạ tiết lúc tụng kinh, nện dùi mõ khoan mau lịch kịch;
Chỉn chuộng một bề đạo đức, miệng chẳng hiềm ăn đắng ăn cay.
Vốn yêu hai chữ từ bi, thân nào quản mặc lành mặc rách ...
Trong bài phú Ngài tự xưng là Sãi. “Sãi chưng nay mộ đạo tu hành”, hôm nay sãi này vì lòng mộ đạo tu hành. “Xả đường kinh lịch” tức là xả bỏ hết những việc trải qua trước kia. “Chí dốc nên Phật Tổ siêu thăng” sự lập chí của Ngài là dốc làm Phật làm Tổ để siêu thăng giải thoát, đó là đứng về thượng cầu. Còn về hạ hóa thì “lòng nguyện độ chúng sanh trầm nịch”, lòng nguyện độ những chúng sanh đang chìm đắm trong sông mê bể khổ. Như vậy hai câu trên nói lên ý chí và lòng từ bi của người xuất gia, ý chí thì quyết định tu để thành Phật, thành Tổ, còn lòng từ bi thì tu để cứu độ chúng sanh đang chìm trong sông mê bể khổ. Đã có chí nguyện và lòng từ như vậy thì hằng ngày làm việc gì? “Đêm đông trường khi mật niệm, gióng tiếng chuông thánh thót lênh kênh”, nghĩa là đêm đông khuya lạnh thức dậy vừa mật niệm vừa đánh chuông. “Ngày hạ tiết lúc tụng kinh, nện dùi mõ khoan mau lịch kịch”, nghĩa là mùa hè trong lúc tụng kinh đánh mõ cộp cộp, đó là diễn tả bổn phận của người tu. Ngài lại giải thích tại sao mình phải chịu ăn chay ăn lạt, kham khổ. “Chỉn chuộng một bề đạo đức, miệng chẳng hiềm ăn đắng ăn cay”, vì chuộng quí đạo đức nên chẳng hiềm ăn món đắng, món cay, không chuộng thức ngon, không đòi thức quí. “Vốn yêu hai chữ từ bi, thân nào quản mặc lành mặc rách” bởi yêu hai chữ từ bi nên mặc lành rách đều được, không vì lý do mặc rách mà buồn tủi. Người xưa luôn luôn nhắc nhở chúng ta đã đi tu thì quyết làm Phật làm Tổ, chớ không phải đi tu để rồi hết ngày hết tháng, hết cả cuộc đời! Trên thì mình quyết định tiến đến thành Phật, thành Tổ, nhưng thành Phật, thành Tổ để làm gì? Để cứu độ chúng sanh đang trầm luân trong bể khổ. Đã có tinh thần đó thì tất cả những chuyện ăn mặc phải đơn sơ đạm bạc, như vậy mới hợp đạo đức, mới hợp với tinh thần giải thoát cao cả của chúng ta.
Thiền sư Tuyết Đậu Trùng Hiển ở Trung Hoa, nhắc chúng ta cái quí của mình. Trên đường tu, có nhiều người khi tu thì quyết chí, nhưng đạo lý không thâm nhập được, nên tuy nói tu mà chỉ chạy tìm cầu bên ngoài, quên cái chân thật bên trong của mình. Tôi trích một đoạn trong bài “Thể Châu Ca” của Ngài:
Bần tử y trung châu,
Bản tự viên minh hảo,
Bất hội tự tầm cầu,
Khước sổ tha trân bảo.
Sổ tha bảo, chung vô ích,
Chỉ thị giáo quân không phí lực,
Tranh như nhận thủ tự gia trân,
Giá trị huỳnh kim thiên vạn ức...
Dịch:
Kẻ nghèo áo có châu,
Vốn tự tròn sáng đẹp,
Chẳng biết tự tìm cầu,
Bèn vì người đếm báu.
Đếm báu người trọn vô ích,
Chỉ là khiến anh luống nhọc sức,
Đâu bằng nhận lấy của báu nhà,
Giá trị vàng ròng ngàn muôn ức...
“Bần tử y trung châu” là kẻ nghèo nhưng trong áo có hạt châu. Đó là ý “Hệ Châu” trong kinh Pháp Hoa. “Bản tự viên minh hảo”, hạt châu đó vốn tròn sáng đẹp. “Bất hội tự tầm cầu, khước sổ tha trân bảo” chẳng biết tự tìm cầu, trở lại đếm báu cho người, nghĩa là sẵn có hạt châu quí trong áo mà không chịu tìm, lấy ra xài, trái lại đi đếm của báu cho người, đó là điều lầm lẫn. Đếm của báu cho người là gì? Tức là khi chúng ta tu mà không nhận rõ Bản tâm mình, cứ nghĩ đến chuyện cầu Phật ở bên ngoài hay tụng kinh cho có phước nhiều v.v... đó chẳng khác nào đếm của báu cho người. Kinh Phật chủ yếu dạy chúng ta thấy rõ được cái chân thật nơi mình, như trong kinh thường dụ kinh là ngón tay chỉ mặt trăng, nhưng chúng ta lại không chịu nhận, cứ cho kinh là cứu kính, chẳng khác nào người đếm của báu cho kẻ khác. “Sổ tha bảo, chung vô ích” nếu cứ đếm của báu cho người thì trọn không có ích gì! “Chỉ thị giáo quân không phí lực” chỉ là khiến anh luống nhọc sức. “Tranh như nhận thủ tự gia trân”, đâu bằng nhận lấy hạt châu quí của chính nhà mình. “Giá trị huỳnh kim thiên vạn ức”, hạt châu quí đó có giá trị ngàn vạn ức lượng vàng ròng. Như vậy ý Ngài chỉ cho chúng ta thấy rõ người tu cốt làm sao nhận nơi mình có hạt châu quí, tìm cho được, đó mới là giá trị trên tất cả. Nếu chúng ta quên nó để đi tìm cái gì khác, thì thật là uổng cho một đời tu. Tuy nhiên, Ngài chỉ cho chúng ta hạt châu quí nhưng nó còn nằm trong áo, chớ chưa phải nắm được trong tay. Đã là nằm trong áo, nếu chịu khó vạch, chịu khó mở thì sẽ được. Tóm lại, Ngài chỉ cho chúng ta biết chúng ta là kẻ nghèo, tuy nghèo nhưng trong áo có hạt châu quí chớ không phải kẻ nghèo hoàn toàn không có gì. Như vậy tất cả Thiền sư nhìn chúng ta đều thấy giống nhau, tức là tuy nghèo mà ai cũng có hạt châu quí, chớ không phải nghèo một cách tuyệt đối không có gì cả.
Thiền sư Sở Thạch đời Thanh, cũng nhắc tương tự nhưng có những điểm hơi khác hơn là vì chúng ta đa sự nên luôn luôn lầm lẫn không thấy được của báu chính mình:
Thị chư Thiền nhân
Đô duyên ngụy khước tự gia tâm,
Chỉ quản mang mang hướng ngoại tầm.
Bất thức thể kê hô tác phượng,
Hoàn tương huỳnh diệp nhận vi câm.
Cầu sư bạt thiệp sơn xuyên viễn,
Trục cảnh nhân tuần tuế nguyệt thâm.
Hữu vấn khước tu hướng y đạo:
Thùy gia thất lý một Quan Âm?
Dịch:
Dạy các thiền nhân
Duyên nhiều quên hết tự gia tâm,
Chỉ nhắm xa xôi bên ngoài tầm.
Chẳng biết gà bông mà gọi phụng,
Lại đem lá úa nhận là vàng.
Cầu thầy vượt núi trèo non khắp,
Theo cảnh trôi qua năm tháng thâm.
Có hỏi cần nên đến y đáp:
Nhà ai trong ấy chẳng Quan Âm?
“Đô duyên ngụy khước tự gia tâm”, đô duyên là nhiều duyên, nhiều duyên quá thì “ngụy khước tự gia tâm”, là quên mất tâm của nhà mình. Bởi vì nhiều duyên bên ngoài quá nên quên mất tâm của chính mình. “Chỉ quản mang mang hướng ngoại tầm”, chỉ một bề mờ mờ chạy ra ngoài tìm kiếm. Nay nghe nói Phật ở chỗ kia linh liền tới lễ bái, mai nghe nói vị Sư ở nơi khác có cái gì lạ, lại chạy tới tìm cầu, chớ không biết nhận ngay tâm mình. “Bất thức thể kê hô tác phượng”, không biết những con gà bông, những con gà đốm mà gọi là chim phượng. Đó là vì học đạo mà không biết được gốc nguồn, chỉ chạy ra ngoài tìm kiếm, nên chẳng khác người thấy con gà bông đẹp tưởng lầm là chim phượng. “Hoàn tương huỳnh diệp nhận vi câm”, lại đem lá vàng nhận cho là vàng, đây là trích dẫn trong kinh. Phật bảo: “Tất cả những gì Phật dạy cho các Tỳ-kheo, như là nắm lá vàng để dỗ con nít khóc”, ý nói rằng bà mẹ đi chợ, đứa con khóc đòi theo, bà mẹ không cho nó đi nhưng muốn dỗ nó nín, mới cầm một lá vàng trong tay nói: “đây mẹ cho con vàng, con đừng khóc nữa”, đứa nhỏ thấy tưởng là vàng thật nên nín khóc, nhưng mở tay ra thì chỉ là chiếc lá thôi. Tất cả những gì Phật dạy là những phương tiện để chỉ cái chân thật cho chúng ta, nhưng những phương tiện đó chúng ta lại tưởng là thật thì chẳng khác nào thấy lá vàng mà tưởng là vàng, đó là điều lầm lẫn. “Cầu sư bạt thiệp sơn xuyên viễn” nghĩa là chúng ta hướng ra ngoài nên nay chạy xứ này, mai chạy xứ kia tìm thầy, đi qua sông qua núi xa xôi, rốt cuộc rồi không đến đâu. “Trục cảnh nhân tuần tuế nguyệt thâm” là chạy theo cảnh theo người mà mất hết thời gian. “Hữu vấn khước tu hướng y đạo”, nếu người đó có hỏi thì nên nói với y rằng: “thùy gia thất lý một Quan Âm”, nhà ai trong ấy chẳng Quan Âm? Trong nhà nào cũng có đức Quan Âm. Nhà đó là nhà tứ đại. Nhà tứ đại ngũ uẩn nào cũng có đức Quan Âm cả.
Qua bài này, Ngài chủ ý dạy chúng ta muốn tu, đầu tiên phải bớt duyên, mới có thể nhận ra Bản tâm mình. Nếu nhiều duyên quá thì quên mất Bản tâm. Quên Bản tâm thì học đạo, cầu đạo chỉ một bề hướng ra ngoài tìm kiếm, như thế là lầm lẫn chẳng khác nào cho gà bông là chim phượng hay lá vàng là vàng thật vậy. Đã hướng ra ngoài tìm thì nghe đây nghe kia chạy tìm thầy, tìm người, rốt cuộc hết ngày, hết tháng, vẫn không thấy được cái chân thật. Thế nên với người đó phải nhắc họ rằng nhà nào cũng có Phật, đừng đi tìm ở đâu xa, đừng lang thang núi này núi nọ để tìm cầu, ngay trong nhà mình đã có đức Quan Âm rồi, nếu cứ tìm Quan Âm ở Phổ Đà Sơn hay ở núi nào khác thì quá xa. Như vậy người học đạo phải biết đạo không ở bên ngoài mà chính là cái sẵn có nơi chúng ta, phải thức tỉnh xoay trở lại chớ không rong ruổi tìm cầu bên ngoài mà được. Đó là những lời của người xưa nhắc nhở, là chỗ thiết yếu, nếu chúng ta cứ một bề rong ruổi theo bên ngoài, dù cho hết một đời cũng không bao giờ thấy đạo.
Sau cùng là một bài kệ trích trong “Cư Trần Lạc Đạo” của Sơ tổ Trúc Lâm, Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông:
Cư trần lạc đạo thả tuỳ duyên,
Cơ tắc san hề khốn tắc miên,
Gia trung hữu bảo hưu tầm mích,
Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền.
Dịch:
Ở đời vui đạo hãy tuỳ duyên,
Đói đến thì ăn mệt ngủ liền,
Trong nhà có báu thôi tìm kiếm,
Đối cảnh không tâm chớ hỏi thiền.
Cư trần lạc đạo thả tuỳ duyên, cư là ở, trần là bụi bặm, lạc đạo là vui với đạo. Ở trong cảnh trần mà vui với đạo thì phải thế nào? Hãy tuỳ duyên. Tuỳ duyên bằng cách nào? Cơ tắc san hề khốn tắc miên là đói thì ăn, mệt thì ngủ. Tuỳ duyên là như thế. Tại sao? Bởi vì nếu chúng ta biết đạo thì đạo không phải là những gì xa xôi kỳ lạ, mà chính là cái chân thật sẵn có nơi mình, như chúng ta thấy qua lối truyền tâm của Phật cho Tổ Ca-diếp thì ngay trong cái thấy đã có đạo rồi. Nhận được đạo ngay đó thì tuỳ duyên đói ăn, mệt ngủ, chớ không thêm sự suy tính nghĩ lo gì nữa. Gia trung hữu bảo hưu tầm mích, là ngay trong nhà mình có hòn ngọc báu, đừng chạy tìm bên ngoài. Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền - câu cuối này tôi thích nhất - mắt thấy cảnh, tai nghe tiếng nhưng tâm mình không dính mắc vào cảnh, vào tiếng thì khi ấy đừng hỏi thiền làm gì. Vì đó là thiền rồi, đừng nghĩ rằng thiền là cái gì xa xôi kỳ lạ. Chúng ta từ trước đến nay cứ nghĩ thiền là phải làm sao ngồi cho tỏa hào quang, chớ không ngờ ngay nơi cảnh mà không dính mắc là thiền rồi và cũng chính khi ấy hạt châu của mình hiển lộ. Thế nên tu không phải là những dụng công nhọc nhằn, những cố gắng khổ sở, mà chính là cái khéo léo làm sao ở trong cõi đời điên đảo, tâm mình vẫn an lạc. Nếu tâm an lạc thì cảnh nào đến, chúng ta tuỳ đó ứng dụng chớ không đòi hỏi, không tìm kiếm.
Tóm lại, khi đối cảnh tâm không dính mắc đó là chúng ta đã tu thiền và cũng chính đó là hạt châu, là tâm mình hiện bày. Như vậy là hiểu đạo, là học đạo chớ đừng nghĩ rằng phải tìm cái gì xa xôi ở trên trời hay ngoài biển. Đạo chính là cái sẵn có nơi mình.
Trên tôi đã dẫn các vị Thiền sư từ Trung Hoa đến Việt Nam để nhắc nhở quí vị nhớ ứng dụng, nhưng câu chuyện mà tôi hằng nhớ, hằng nhắc nhiều nhất là chuyện Thiền sư Đạo Giai ở Phù Dung. Ngài tu hành đức hạnh cao nên được quan địa phương tâu về triều đình. Triều đình nhà Tống quí các vị đạo đức, nên nhà vua mới phong tước hiệu và ban tử y cho Ngài. Khi viên quan địa phương đem sắc lệnh phong tước hiệu và ban tử y đến, Ngài từ chối không nhận. Việc này được tâu lên triều đình, nhà vua ra lệnh bắt điều tra và đánh. Quan địa phương thấy một người tu đức hạnh mà bị đánh đập thì không nỡ, nhưng lệnh trên không dám trái, nên mời Ngài đến, viên quan nói: “Theo luật, người bệnh thì không bị điều tra, nay thấy Hòa thượng thân thể gầy ốm, có lẽ Hòa thượng bệnh chăng?” Nếu chúng ta, khi ấy nói thế nào? - “Chúng tôi bệnh vô kể v.v...” Tư cách của chúng ta hiện nay chắc là như vậy, nhưng ngài Đạo Giai thì không. Ngài nói: “Bần đạo thân tuy ốm, nhưng hiện nay không có bệnh.” Không có bệnh thì phải bị đánh, bị điều tra. Quí vị thấy người xưa thà chịu bị đánh, nhưng không nói dối, còn chúng ta hiện nay nhiều chuyện chưa quan trọng gì cả, đã nói dối trước rồi. Nghĩa là khi hỏi đến điều gì hơi mất giá trị, có thể tráo trở để cho giá trị mình được tăng, chớ không cho giảm. Như vậy để thấy tâm niệm tu hành của chúng ta còn non yếu, không cứng cỏi như người xưa. Đạo là chỗ chân thật, như trong kinh Lăng Nghiêm, đức Phật nói “trực tâm thị đạo tràng”, nghĩa là tâm ngay thẳng là đạo tràng. Tâm chúng ta hiện nay quanh co, làm sao lập đạo tràng được! Vì thế người tu phải gan, dám nói những lời chân thật, dù có những điều khổ đến với mình cũng không sợ, huống là những lời thật chỉ mất giá trị một ít thì sợ làm gì. Như vậy mới giữ cho giá trị đạo đức không mất, không tiêu hao. Chúng ta phải gìn thân, gìn khẩu cho xứng đáng là người tu. Thân phải nghèo, ăn đạm bạc, mặc rách rưới, ngôn ngữ thật thà, như vậy mới hợp với người tu. Nếu tu mà không thật thà cũng không được, sang quá cũng không được, ăn ngon quá cũng không được. Đó là những điều chúng ta phải nhớ.
Ngài Phù Dung nói: “Ngộ thanh, ngộ sắc như thạch thượng tài hoa; kiến lợi, kiến danh như nhãn trung trước tiết”, nghĩa là: “Gặp thanh gặp sắc như hoa trồng trên đá; thấy lợi, thấy danh như bụi rơi trong mắt.” Chúng ta được như thế chưa? Ngài nói để nhắc chúng ta thấy sắc đẹp, nghe âm thanh hay mà vẫn như hoa trồng trên đá. Hoa trồng trên đá không ra rễ nổi, nghĩa là không dính dáng gì tới mình hết. Còn thấy lợi thấy danh cũng như bụi rớt trong con mắt, xốn lắm! Chúng ta hiện nay con mắt mờ mờ, thấy lợi thấy danh thì sáng lên, chớ không phải như bụi rớt. Đó là tôi nhắc để tất cả quí vị thấy rõ trên đường tu, chúng ta phải đủ những tư cách như vầy:
- Một là phải biết rằng chúng ta là kẻ Bần tăng, là người nghèo, chớ không phải người giàu. Đã là người nghèo thì phải xử sự đúng tinh thần của người nghèo.
- Hai là chúng ta phải chấp nhận mọi sự khen chê, chúng ta đều thấy như uống nước cam lồ, chớ không phải thấy là cái khó, cái khổ.
- Ba là sự sống của chúng ta rất đạm bạc, ăn uống đơn sơ, mặc cũng đơn sơ.
- Bốn là dù gặp những trường hợp làm cho chúng ta bị mất chút ít uy tín, nhưng cần nói thẳng, nói thật, thì chúng ta cũng chấp nhận, chớ đừng dối trá làm mất tâm đạo đức của mình.
- Năm là ngay nơi chúng ta đã có hòn ngọc quí không phải tìm cầu ở đâu nữa. Chỉ cần khéo nhận ra để sử dụng.
- Sáu là Thiền không phải cái gì khác lạ mà chính là chỗ đối cảnh vô tâm. “Đối cảnh vô tâm” tức là Thiền chớ không phải cầu kiếm cái gì lạ nữa hết.
BÌNH THƯỜNG TÂM THỊ ĐẠO
Xuân Ất Sửu - 1985
Tết Nguyên Đán năm Ất Sửu (1985) chư Tăng Ni và Phật tử đến chúc mừng năm mới, đáp lại lòng tốt của quí vị, tôi xin nói chuyện nhiều. Trước nhất nhắc cho quí vị nhận ra cái chân thật nơi mình để ứng dụng tu hành, thứ nữa để quí vị cùng tôi, chúng ta sống được cái chân thật này tròn một năm hay là từ đây về sau hằng được chân thật. Hôm nay tôi không tiếc những sợi lông mày, vì quí vị mà nói trắng ra những điều gì cần nói, đó là chủ yếu buổi nói chuyện hôm nay với đề tài Bình thường tâm thị đạo.
Đề tài này quí vị chắc cũng thường nghe, tôi không nói những chuyện gì mới lạ ở đâu xa, chỉ dẫn những chuyện cũ mà tôi từng giảng những năm về trước, nhưng ở đây tôi nói lại có khác hơn thuở xưa; bởi vì ngày trước tôi nghĩ rằng tôi chỉ nói tổng quát hay là gần một chút để cho quí vị thầm nhận, nếu ai không nhận được thì qua những buổi khác hoặc qua thời gian tu rồi cũng có thể nhận, chớ tôi không nói trắng, không nói thẳng. Nhưng hôm nay sẽ nói thẳng ra cho quí vị thấy, nếu quí vị thấy rồi ứng dụng được thì đó là một điều rất quí mà tôi mong mỏi.
Trước tiên tôi dẫn câu chuyện ngài Triệu Châu đến hỏi đạo ngài Nam Tuyền. Triệu Châu hỏi: “Thế nào là đạo?” Ngài Nam Tuyền đáp: “Bình thường tâm thị đạo”, nghĩa là tâm bình thường là đạo. Triệu Châu hỏi: “Lại có thể nhằm tiến đến chăng?” Nếu nói tâm bình thường là đạo như vậy mình có thể nhằm tiến tới để được tâm đó hay không. Ngài Nam Tuyền trả lời: “Nghĩ nhằm tiến đến là trái.” Vừa nghĩ tiến đến để đạt đạo là trái với đạo rồi. Triệu Châu hỏi thêm: “Khi chẳng nghĩ làm sao biết là đạo?” Theo quan niệm của Triệu Châu là muốn biết đạo phải do nghĩ mà biết, hay không do nghĩ tiến đến thì làm sao biết đạo. Ngài Nam Tuyền đáp: “Đạo chẳng thuộc biết, chẳng biết; biết là vọng giác, không biết là vô ký, nếu thật đạt đạo thì chẳng nghi, ví như hư không thênh thang rỗng rang, đâu thể dối nói phải quấy.” Ngay đó ngài Triệu Châu liền ngộ.
Nay tôi giải thích trắng ra cho quí vị thấy. Tất cả chúng ta, người học đạo hay tầm đạo, ai cũng nghĩ rằng trên đường tu phải tìm cho được đạo hay là thấy được đạo; nhưng muốn tìm được đạo, thấy được đạo phải làm sao? Chúng ta cứ nghĩ đạo là cái gì quí giá cao cả ở bên ngoài, chớ không phải ở nơi mình. Ngài Triệu Châu cũng có tâm niệm tương tự chúng ta nên đến hỏi ngài Nam Tuyền “thế nào là đạo”, ngài Nam Tuyền chỉ thẳng “tâm bình thường là đạo”. Tâm bình thường không phải là tâm nghĩ chuyện năm trên năm dưới, vừa có dấy niệm lên là động, mà động là bất bình thường. Thế nên tâm bình thường là tâm phẳng lặng không động, tâm đó là đạo, chớ chẳng đâu xa, cũng như nói mặt nước phẳng là khi nào không dậy sóng. Phẳng tức là lặng lẽ, là bình thường, vừa dấy sóng lên là động, là bất bình thường. Như vậy ngài Nam Tuyền không ngại chỉ thẳng cho chúng ta thấy “tâm bình thường là đạo” chớ không phải cái gì xa xôi. Ngài Triệu Châu chưa hài lòng, nói “lại có thể nhằm tiến đến chăng”, nếu tâm bình thường như vậy thì tôi có thể tiến đến để đạt đạo được chăng. Ngài nói tiến đến để đạt đạo, thì cái nghĩ tiến đến là bình thường hay bất bình thường. Vừa nghĩ tiến đến là bất bình thường, mà bất bình thường là mất đạo, mất tâm. Vì vậy ngài Nam Tuyền trả lời “nghĩ nhằm tiến đến là trái”, trái với đạo, trái với tâm. Ngài Triệu Châu cũng chưa hài lòng, Ngài nghĩ đạo là cái gì phải do suy nghĩ mà biết mới gọi là đạo, chẳng lẽ tâm lặng xuống bình thường là đạo hay sao. Vì vậy Ngài mới hỏi thêm “khi chẳng nghĩ làm sao biết là đạo”, nghĩa là đạo là cái do suy nghĩ mà biết, nhận ra, nay không cho suy nghĩ, không cho biết thì làm sao biết đó là đạo. Ngài Nam Tuyền mới bảo “đạo chẳng thuộc biết và chẳng biết, biết là vọng giác, không biết là vô ký”, nghĩa là tâm lặng lẽ đó là đạo, vừa dấy biết thì đó là vọng giác, còn không biết gì cả đó là vô ký, cả hai đều sai. Nếu thật đạt đạo thì không còn nghi ngờ gì nữa. Đạo rỗng rang thênh thang như hư không, không thể nói là phải hay quấy, vừa nói phải quấy là hai bên, là trái với đạo. Ngay đó ngài Triệu Châu ngộ được tâm bình thường là đạo.
Tôi dẫn thêm Thiền sư Đạo Ngộ. Sùng Tín trước kia là người làm bánh bao trước cổng chùa, biết phát tâm cúng dường nên hôm nào cũng đem vài cái bánh bao đến cúng thầy (tức Thiền sư Đạo Ngộ). Như thế trong một thời gian, ngài Đạo Ngộ nghĩ thương tình người có đạo tâm, nên khi Sùng Tín đem bánh bao cúng cho Ngài, Ngài để lại một cái và nói: “Ta cho lại ngươi để về nuôi dưỡng con cháu.” Sùng Tín ngạc nhiên quá thưa: “Con cúng cho Thầy mà Thầy cho lại con để làm gì?” Đạo Ngộ nói: “Ngươi cúng cho ta, ta cho lại ngươi thì có lỗi gì?” Câu chuyện đối đáp đó làm Sùng Tín băn khoăn: Tại sao mình cúng cho thầy mà thầy cho lại mình? Suy nghĩ một lúc không biết ông hiểu làm sao rồi phát tâm đi tu. Sau khi ông xuất gia, ngài Đạo Ngộ bảo: “Nay ông làm Thị giả cho ta, ta sẽ chỉ tâm yếu cho ông.” Từ đó Sư bắt đầu làm Thị giả, mãi đến hai ba năm không thấy ngài Đạo Ngộ chỉ dạy tâm yếu gì cả. Cho đến một hôm thắc mắc quá, Sư ẩn nhẫn không nổi mới ra hỏi thầy: “Từ ngày con vào đây đến nay chưa được Thầy chỉ tâm yếu.” Đạo Ngộ bảo: “Từ ngày ngươi vào đây, ta chưa từng chẳng chỉ dạy tâm yếu cho ngươi.” Sư nghi, hỏi thêm: “Thầy chỉ dạy ở chỗ nào?” Đạo Ngộ bảo: “Ngươi dâng trà lên, ta vì ngươi mà tiếp, ngươi bưng cơm đến, ta vì ngươi mà nhận, ngươi xá lui ra thì ta gật đầu, chỗ nào chẳng chỉ dạy tâm yếu?” Như vậy chỉ dạy tâm yếu không có lời. Nghĩa là dâng trà thì đưa tay tiếp, dọn cơm xong mời thì bắt đầu đến ngồi cầm đũa. Cho tới xá lui ra thì gật đầu, chỗ nào mà không chỉ dạy tâm yếu. Sùng Tín cúi đầu im lặng suy nghĩ, tại sao việc đó là tâm yếu? Sư vừa suy nghĩ, Đạo Ngộ liền bảo: “Thấy thì thẳng đó liền thấy, suy nghĩ liền sai.” Qua câu nói đó, Sư ngộ, liền hỏi thêm: “Làm sao giữ gìn?” Đạo Ngộ bảo: “Mặc tánh tiêu dao, tuỳ duyên phóng khoáng, chỉ hết tâm phàm chẳng có Thánh giải khác.” Đó là điểm đặc biệt tôi sẽ giải thích thêm cho rõ.
Khi Thị giả dâng chung trà, mình đưa tay nhận chung trà, lúc đó có suy nghĩ gì không, có biết không? Đón nhận chung trà mà không có một niệm suy nghĩ gì cả. Khi Thị giả dọn cơm sẵn, xá mời thì mình bước tới ngồi và cầm đũa, lúc đó thế nào? Ngồi cầm đũa đâu có gì phải suy nghĩ. Khi Thị giả xá chào lui thì mình gật đầu, trong lúc gật đầu đâu có suy nghĩ gì. Như vậy trong những động tác hằng ngày của chúng ta mà không có một niệm nghĩ suy, đó là tâm yếu rồi. Tâm yếu hiện rõ ràng trong mọi hành động, nếu thấy được chỗ đó thì chỗ nào mà không chỉ tâm yếu, không dạy tâm yếu. Như vậy tâm yếu này có giống tâm bình thường không? Đâu có hai. Nhưng ở đây đặc biệt là khi Sùng Tín cúi đầu suy nghĩ việc đó sao gọi là tâm yếu thì Đạo Ngộ nói thẳng một câu “thấy thì thẳng đó liền thấy, vừa suy nghĩ liền sai”. Trong những hành động, ngay đó mà thấy, vừa suy nghĩ liền sai; chúng ta thấy rõ tâm yếu là gì rồi. Nên ngay câu đó Sư mới ngộ, chớ khi kể những hành động trên Sư chưa ngộ được. Nhưng khi ngộ rồi, làm sao gìn giữ để đừng mất tâm yếu đó? Đây là vấn đề then chốt. Khi hỏi làm sao gìn giữ thì Đạo Ngộ trả lời: “Mặc tánh tiêu dao, tuỳ duyên phóng khoáng, chỉ hết tâm phàm chẳng có Thánh giải khác.” Rất nhiều người hiểu lầm câu này: “mặc tánh tiêu dao” nghĩa là thế nào? Nghĩa là chúng ta thổi sáo, đi dọc đường dọc sá như là người điên phải không? Thong thả rong chơi xứ này xứ nọ, thổi sáo thổi kèn hoặc là đàn địch v.v... như vậy có phải là “nhậm tánh tiêu dao” không? “Nhậm tánh tiêu dao” hay “mặc tánh tiêu dao” là thế nào? Quí vị nhớ tánh tiêu dao chớ không phải thân tiêu dao, phải rõ chỗ đó. Tánh của mình thế nào gọi là mặc tánh tiêu dao? Tánh thấy, tánh nghe có động không? Có giới hạn không? Bởi nó không động, không giới hạn cho nên nó thênh thang; trong cái thênh thang không động đó, cứ mặc nó đừng kềm đừng giữ thì đó là mặc tánh tiêu dao; chớ không phải nói mặc tánh tiêu dao rồi cầm ống sáo đi nơi này, nơi kia thổi, rồi nói tôi mặc tánh tiêu dao. Đó là cuồng Tăng chớ không phải tiêu dao, đừng hiểu lầm điểm đó.
Tánh của mình thênh thang lặng lẽ, không bận không phiền, đừng thêm một cái gì cho nó nữa, đừng kềm đừng giữ thì gọi là tánh tiêu dao. Chúng ta lâu nay tu là kềm giữ, bởi kềm giữ nên trái với Tự tánh, phải hiểu thật rõ chỗ đó. Có khi ta hiểu lầm chữ tuỳ duyên phóng khoáng. Tuỳ duyên là duyên đến thì mình theo; phóng là buông, khoáng là rộng rãi; buông hết, không vướng, không bận, không bị điều gì làm phiền nhiễu, đó gọi là tuỳ duyên phóng khoáng. Chúng ta đâu không nghe bài kệ của Sơ tổ Trúc Lâm: “Cư trần lạc đạo thả tuỳ duyên”, nghĩa là ở trong chỗ bụi trần mà vui với đạo, tức là vui với tâm bình thường, rồi hãy tuỳ duyên. Tuỳ duyên như thế nào? “Cơ tắc san hề khốn tắc miên” đói thì ăn, mệt thì ngủ đó gọi là tuỳ duyên, là phóng khoáng. Còn gặp quán rượu thì bước vào hay thấy rạp hát thì lao tới, đó phải là tuỳ duyên phóng khoáng không? Tuỳ duyên phóng khoáng là trong cuộc sống bình thường, đến ăn thì ăn, đến mặc thì mặc, đến nghỉ thì nghỉ hay làm công tác trong phạm vi nhà chùa, như quét chùa, nhổ cỏ mà tâm vẫn thênh thang rộng rãi, vẫn an nhiên tự tại, không để một niệm nào làm rối làm bận lòng mình. Đừng nói phóng khoáng rồi bày ra những chuyện tầm phào, gặp nữ sắc cũng không kỵ, gặp rượu chè cũng không tránh, rồi nói tuỳ duyên phóng khoáng. Trong nhà thiền gọi đó là cuồng thiền. Chính những trọng điểm này tôi muốn nhắc thật kỹ để quí vị hiểu mà tu, chớ nhiều khi hiểu lầm có thể là hoạ trên đường tu.
Tôi nhắc lại tánh chúng ta lặng lẽ thênh thang, không phải kềm, không phải giữ, đó là mặc tánh tiêu dao. Gặp công tác nào làm công tác ấy, gặp ăn thì ăn, gặp nghỉ thì nghỉ, mà tâm chúng ta vẫn lặng lẽ thênh thang đó là tuỳ duyên phóng khoáng. Ăn, nghỉ, mặc, trong nề nếp đạo đức, chớ không phải ăn, mặc, nghỉ theo cách của nhiều người nói “đói thì ăn”, rồi khi xuống chợ, đói liền vào quán ngồi ăn, hay khi đi đường mệt thì nằm ì ngoài đường ngủ rồi nói “mệt thì ngủ”. Đó gọi là cuồng thiền, thiền hiểu một cách loạn không đúng lẽ thật, làm trái với tư cách người tu, làm trò cười cho thiên hạ.
“Chỉ hết tâm phàm chẳng có Thánh giải khác”, chủ yếu là hết tâm phàm. Tâm phàm là tâm vọng tưởng điên đảo. Buông xả hết những tâm vọng tưởng điên đảo là đủ, đó là đạo, chớ đừng mong thấy gì đặc biệt hay tuyệt vời. Thường người tu hay mong thấy những gì kỳ đặc, mong có những tiếng lạ, mong có những điều huyền diệu. Thế nên khi lặng hết vọng tưởng, chúng ta chưa hài lòng, chúng ta muốn thấy hào quang, muốn biết bay v.v... muốn có cái gì của Thánh đem vào mình, đó là bệnh của đa số người tu. Ngài dạy: “chỉ hết tâm phàm chẳng có Thánh giải khác”, tức là những vọng tưởng điên đảo của chúng ta sạch hết thì đó là Thánh rồi, không có Thánh giải nào ở ngoài đến. Ngừng ngay phàm tình tức là vọng tưởng, nó là chủ của nghiệp, là nhân của luân hồi sanh tử, hết nhân đó là giải thoát sanh tử. Chỗ không sanh, không diệt nhưng hằng tri hằng giác là cái bất sanh, bất tử, như vậy không phải Thánh là gì? Thế mà chúng ta đòi thêm Thánh nữa, có phải là đầu lại thêm đầu hay không? Do đây Ngài chỉ thẳng cho chúng ta biết chỉ cần hết vọng tưởng thôi, đừng đòi thêm điều gì khác nữa. Có nhiều người thường hỏi tôi, sau khi vọng tưởng lặng hết thì còn cái gì, tức là muốn thêm Thánh giải nữa phải không? Tôi chỉ trả lời: Ráng hết vọng tưởng giùm tôi đã, đừng có đòi. Như vậy chủ yếu của người tu là dứt mầm sanh tử luân hồi, khi nhân sanh tử luân hồi hết, đó là giải thoát, chớ không còn giải thoát nào khác nữa. Hết tâm phàm thì ngay đó là đạo. Đây là chỗ thiết yếu của ngài Đạo Ngộ dạy. Sau khi chúng ta nhận được đạo hay tâm yếu trong mọi hành động của mình, muốn gìn giữ nó thì phải mặc tánh tiêu dao tức là đừng kềm đừng giữ. Có nhiều người nói “giữ tâm thanh tịnh” thì tôi hay nhắc giữ là sai, là trái với mặc tánh tiêu dao. Vì cái thanh tịnh đó là Tự tánh của mình mà giữ nó tức nhiên là bị kềm, là hết tiêu dao. Còn tuỳ duyên phóng khoáng là theo duyên gặp hành động nào thì thực thi hành động đó, gặp ăn thì ăn, mặc thì mặc, nghỉ thì nghỉ, nhưng tâm thênh thang rộng rãi, chớ không phải nói tuỳ duyên phóng khoáng rồi làm những điều trái đạo đức. Lâu ngày tâm phàm tự hết, khi ấy không cần Thánh giải nào khác, vì tự nó là Thánh. Đó là chỗ chỉ dạy đầy đủ của ngài Đạo Ngộ.
Tôi dẫn thêm một câu chuyện nữa, như trong đoạn đầu chúng ta thấy ngài Triệu Châu ngộ đạo nơi ngài Nam Tuyền, ngộ ngay chỗ “bình thường tâm là đạo” nên sau này Ngài dạy lại đồ đệ, đây tôi dẫn câu chuyện: Một hôm có vị Tăng mới vào chùa, đến thưa với Ngài rằng: “Con mới vào tùng lâm, xin Thầy chỉ dạy.” Ngài Triệu Châu hỏi: “Ăn cháo xong chưa?” Tăng thưa: “Ăn xong.” Ngài bảo: “Rửa bát đi.” Dạy cái gì lạ vậy? Người ta nói giải thoát nói giác ngộ v.v... phải không? Đây chỉ hỏi “ăn cháo xong chưa”, khi ông Tăng trả lời “ăn xong”, Ngài bảo “rửa bát đi”, ngay đó ông Tăng ngộ. Như vậy ông Tăng ngộ cái gì? Cái ngộ này có khác với cái ngộ của ngài Sùng Tín hay không?
Dâng trà thì tiếp, dâng cơm thì nhận, xá lui ra thì cúi đầu. Ở đây ăn cháo xong thì rửa bát, có phải là “bình thường tâm” hay không? Như thế quí vị mới thấy rõ các ngài chỉ dạy lại nhau cái đó, chớ chẳng cái gì khác hơn, chính cái mình đã nhận được nơi thầy thì đem truyền lại cho đệ tử, nhưng truyền lại một cách rất lạ lùng phải không? Không ai có thể hiểu nổi! Tại sao bảo ăn cháo, bảo rửa bát mà lại ngộ đạo, đạo ở chỗ nào? Vì vậy nên sau này Thiền sư Hoằng Trí có làm một bài tụng để ca ngợi chỗ đó. Ngài nói:
Chúc bãi linh giao tẩy bát bồn,
Hoát nhiên tâm địa tự tương phù.
Như kim tham bảo tùng lâm khách,
Thả đạo kỳ gian hữu ngộ vô?
Tôi tạm dịch:
Cháo xong liền dạy rửa chén tô,
Bỗng dưng tâm địa tự tương phù
Hiện nay là khách tùng lâm cũ,
Hãy nói khoảng này có ngộ không?
Chúng ta ở trong tùng lâm mười năm, mười lăm năm có bằng vị Tăng bảo ăn cháo, bảo rửa chén đó không? Thật là đơn giản, mới vào mà bảo “ăn cháo đi”, thưa “ăn cháo xong”, bảo “rửa bát đi” liền ngộ đạo. Quí vị thấy người xưa dạy: Đạo là chỗ bình thường đó. Ăn cháo rửa bát có phải là mặc tánh tiêu dao, tuỳ duyên phóng khoáng hay không? Hiểu được đoạn trên thì đến chỗ này chúng ta không thấy lạ.
Đến câu chuyện thứ tư: Ngài Động Sơn Thủ Sơ, khi còn là một Thiền khách, Ngài đến hỏi đạo nơi ngài Vân Môn. Ngài Vân Môn hỏi: “Ông vừa rời chỗ nào?” Ngài thưa: “rời Tra Độ”, tức là từ Tra Độ đến. Ngài Vân Môn hỏi: “Mùa hạ ở đâu?” Thủ Sơ đáp: “Ở chùa Báo Ân tại Hồ Nam.” Vân Môn hỏi: “Rời chỗ kia lúc nào?” Thủ Sơ đáp: “Ngày 25 tháng 8.” Vân Môn bảo: “Tha ông ba gậy! Đến nhà tham thiền đi.” Quí vị có thấy thắc mắc không? Có lỗi gì mà bảo “tha ông ba gậy, xuống nhà tham thiền đi”? Thủ Sơ làm lỗi gì? Nếu không có lỗi tại sao tha ba gậy? Đó là cái kỳ đặc của ngài Vân Môn. Đọc sách thiền, đến đoạn này, ai cũng bóp trán, phải không? Hỏi đâu nói đó một cách thật thà không một chút điêu ngoa, tại sao lại tha ba gậy, rồi bảo xuống nhà tham thiền. Đó là một thắc mắc, mà chính sư Thủ Sơ cũng thắc mắc; có lẽ trưa đó Sư ngủ không được, cho nên đến chiều Sư đi thẳng vào thất của ngài Vân Môn hỏi: “Bạch Hòa thượng khi sáng con có lỗi gì?” Nếu ở trường hợp Sư, chúng ta cũng thắc mắc như vậy. Ngài Vân Môn nói: “Cái túi cơm, Giang Tây, Hồ Nam là thế ấy!” Quí vị thấy Ngài nói làm sao? Ngài quở “cái túi cơm, Giang Tây, Hồ Nam là thế ấy”, Giang Tây tức là chỗ của Mã Tổ, Hồ Nam là chỗ của ngài Thạch Đầu. Đó là hai vị Thiền sư nổi tiếng đời Đường. “Là thế ấy” nghĩa là sao?
Quí vị thấy hỏi “ở đâu”, thưa “ở Tra Độ”; hỏi “mùa hạ ở đâu”, thưa “ở chùa Báo Ân tại Hồ Nam”; hỏi “rời chỗ kia lúc nào”, thưa “ngày 25 tháng 8”; đó có phải là chuyện bình thường hay không? Trả lời như vậy có cần phải suy nghĩ gì không? Hỏi đâu đáp đó rõ ràng bình dị, không phải suy nghĩ gì cả. Trong khi hỏi đáp bình thường không bận suy nghĩ đó có phải là tâm bình thường hay không? Chính chỗ đó. Nhưng Ngài muốn làm cho nổi sóng, nổi gió nên Ngài nói “tha ông ba gậy”, đó là nổi sóng đó. Chúng ta không hiểu lỗi tại chỗ nào, đó là cái kỳ đặc của ngài Vân Môn, ta phục Ngài là phục ở điểm đó. Câu “tha ba gậy” làm cho mình thắc mắc băn khoăn không biết tại sao câu trả lời rất bình dị mà Ngài cho là có lỗi. Thế nên sư Thủ Sơ đợi đến chiều lên hỏi lại, khi hỏi lại thì ngài Vân Môn quở “cái túi cơm”, nghĩa là ông không có thông minh chút nào hết, như là cái túi cơm vậy thôi! Ở “Giang Tây, Hồ Nam là thế ấy”: chỗ Mã Tổ, chỗ ngài Thạch Đầu chỉ dạy cái đó thôi, cái chỗ bình thường đó! Ngay đó Thủ Sơ ngộ. Sư ngộ đạo là nhờ cái kỳ đặc hay cái khéo tay của ngài Vân Môn. Đọc qua câu chuyện ai cũng phải ngạc nhiên, ngạc nhiên ở điểm nào? Chỗ “tha ông ba gậy” đó. Trong nhà thiền gọi đó là cái thuật làm sóng gió, chính nhờ cái thuật đó mà sư Thủ Sơ mới nhận ra một cách dễ dàng. Như vậy quí vị thấy các Thiền sư ngày xưa có dạy điều gì khác đâu phải không? Các ngài chỉ muốn chỉ cái chân thật cho chúng ta, mà cái chân thật đó là ngay chỗ bình thường. Trong mọi hành động, mọi ngôn ngữ, nếu không thêm dấy niệm suy nghĩ thì ngay trong đó là đạo. Như vậy ở đây có người nào không có cái đó? Tất cả chúng ta ai thiếu cái đó? Thế mà có ai dám nhận không?
Đến đây tôi dẫn câu chuyện có mà không chịu nhận: chuyện ông Sa-di Cao. Khi ngài Dược Sơn và ông Sa-di Cao nói chuyện, qua câu trả lời của Sa-di Cao, ngài Dược Sơn biết đó là người đã thấy, nên mới khoe với các đồ đệ lớn như Vân Nham, Đạo Ngô, nhưng hai vị này chưa tin. Vì vậy ngài Dược Sơn muốn hỏi lại một lần nữa, để xác định lối trả lời của Sa-di Cao đúng lẽ thật cho hai vị kia tin. Ngài mới hỏi ông Sa-di Cao: “Ta nghe ở Trường An rất náo loạn, ngươi có biết chăng?” Sa-di Cao trả lời: “Nước con an ổn.” Ngài hỏi thêm: “Ngươi do xem kinh được hay thưa hỏi được?” Ông Sa-di Cao đáp: “Chẳng do xem kinh được cũng chẳng do thưa hỏi được.” Ngài Dược Sơn hỏi: “Có lắm người chẳng xem kinh, chẳng thưa hỏi sao chẳng được?” Ông Sa-di Cao đáp: “Chẳng nói họ không được, chỉ vì họ không chịu thừa nhận.” Câu chuyện ngừng ngang đây.
Tôi nói ra ngoài một chút, tôi hỏi quí vị: “Vào mười hai giờ đêm giao thừa này, ở dưới phố đốt pháo ồn lắm, quí vị có nghe chăng?” Quí vị thử trả lời tôi xem. Sao không trả lời giống ông Sa-di Cao? Sao không trả lời rằng: “Chùa con yên tĩnh.” Quí vị trả lời theo câu hỏi của tôi mà không trả lời theo ông Sa-di Cao. Dưới chợ thì pháo nổ ồn, nhưng ở chùa mình thì yên tĩnh. Tôi nói như vậy, quí vị thấy sao? Có thấy gì ở chỗ đó chưa? Nếu quí vị trả lời như tôi trả lời là hợp với ông Sa-di Cao, còn nếu nói “nghe pháo nổ ở dưới phố” thì chưa hợp.
Tôi nhắc lại cho quí vị thấy, ngài Dược Sơn nói: “Ta nghe ở Trường An (Trường An là thủ đô của nhà Đường) rất náo loạn (tức là ồn náo) ngươi có biết chăng?” Nếu trả lời như quí vị thì nói “dạ biết” phải không? Cũng như tôi hỏi: “Ở dưới chợ, khi hôm pháo nổ ồn, quí vị có nghe chăng?” Quí vị nói: “Dạ nghe.” Như vậy câu trả lời đó không hợp với ý Sa-di Cao. Sa-di Cao liền thưa: “Nước con an ổn.” Ông ở trong nước Tàu, Trường An là thủ đô nước Tàu, tại sao ông nói “nước con an ổn”? Câu trả lời của tôi “chùa con yên tĩnh” hợp với ý ông Sa-di Cao. Tại sao vậy? Trả lời như vậy có cái kỳ đặc gì trong đó? Quí vị thấy chưa? Động là ồn, người qua lại xôn xao là náo, ồn náo là tiếng động và người xôn xao. Thấy kẻ qua người lại xôn xao là thấy, tiếng động là ồn là nghe. Khi hỏi ồn náo là muốn hỏi ông có thấy có nghe sự ồn náo ngoài kia chăng. Sa-di Cao trả lời “nước con an ổn”, hay là nước con yên tĩnh. Người đi là xôn xao mà cái thấy có xôn xao hay không? Như vậy động là tiếng, xôn xao là người, còn cái thấy, cái nghe có động, có xôn xao bao giờ. Thế nên nói “nước con an ổn” hay “chùa con yên tĩnh” là để chứng minh người đó đang nhớ cái của mình không động. Động là cái bên ngoài! Trái lại, khi hỏi “nghe không”, chúng ta đáp “dạ nghe”, là chúng ta đã lệ thuộc vào bên ngoài mất rồi! Như vậy để thấy người xưa muốn thí nghiệm người được luôn luôn nhớ mình, nhớ không quên; đó mới là người thường sống với cái thật. Thế nên qua câu trả lời thì ngài Dược Sơn chấp nhận ngay, cả hai huynh đệ là ngài Vân Nham và ngài Đạo Ngô đều gật đầu. Nhưng muốn thí nghiệm thêm nữa, ngài Dược Sơn mới hỏi “ngươi do xem kinh được hay thưa hỏi được”, cái không động đó là do ngươi xem kinh được hay thưa hỏi thiện tri thức mà được. Nếu là chúng ta thì trả lời như thế nào? “Dạ do thưa hỏi được.” Ông trả lời rằng “chẳng do xem kinh được cũng chẳng do thưa hỏi được”. Cái nghe, cái thấy đâu phải do kinh mà được, đâu phải do thầy dạy mà được, phải không? Cái đó đã sẵn nơi mình từ khi cha mẹ sanh đến giờ. Nó đã sẵn rồi đâu đợi xem kinh hay thưa hỏi. Thế nên ông trả lời “chẳng do xem kinh được, cũng chẳng do thưa hỏi được”, đó là chỉ thẳng cái của mình có sẵn từ xưa, mới nghe như có vẻ phủ nhận công ơn Thầy Tổ phải không? Nhưng sự thật là như vậy, Thầy Tổ chỉ là người chỉ bóng thôi, còn cái thật là cái sẵn nơi mình. Ngài Dược Sơn mới hỏi thêm câu nữa “có lắm người chẳng xem kinh, chẳng thưa hỏi, sao chẳng được”, ý Ngài nói chẳng xem kinh, chẳng thưa hỏi mà được thì có nhiều người họ không xem kinh, không thưa hỏi sao chẳng được. Đây là gạn lại lần chót, Sa-di Cao trả lời “chẳng nói họ không được, chỉ vì không chịu thừa nhận thôi”, có sẵn đó mà không nhận nên coi như không được, chớ có người nào không được. Câu nói chí lý vô cùng! Quí vị được hay không được? Chỉ cần biết thừa nhận hay không, phải vậy không? Nếu không biết thừa nhận, thì mình là kẻ lang thang, hạt châu trong chéo áo mà vẫn là kẻ cùng tử, quí vị phải nhớ rõ.
Để kết thúc tôi dẫn một câu chuyện lý thú nữa là chuyện ngài Tử Hồ bắt ăn trộm. Câu chuyện này tôi thích nhất và hay kể nhiều nhất, tôi biết quí vị thuộc, nhưng mỗi lần kể là một lần mới. Nhớ như vậy! Ngài Tử Hồ là một vị Hòa thượng Thiền sư, chúng của Ngài được trên năm trăm người. Một hôm giữa đêm, bỗng Ngài la to: “Ăn trộm! Ăn trộm!” Chúng hốt hoảng chạy đến, người đầu tiên chạy đến bị Ngài chụp ôm nói: “Bắt được rồi! Bắt được rồi!” Người bị bắt hoảng hốt thưa: “Dạ con! Không phải, không phải!” Ngài nói: “Phải! Phải! Chỉ tại ông không dám nhận thôi!” Quí vị thấy câu chuyện nói điều gì? Cả năm trăm người, ai cũng có cái đó mà không dám nhận, buộc lòng Ngài phải dùng phương tiện kỳ đặc: Ôm một ông thầy nói ăn trộm, tự nhiên ông phải bào chữa “dạ con, không phải ăn trộm”. Thế nên ông nói “con, không phải, không phải” thì Ngài nói “phải, phải, chỉ tại ông không dám nhận thôi”. Thành ra hai chữ “phải” và “không phải” nhắm vào việc gì? Ông Tăng nói “không phải” là không phải ăn trộm, nhưng Ngài nói “phải” là phải cái gì? Thành ra chữ thì như đối đáp nhau, mà ý thì thật là khác muôn dặm! Chữ “phải, phải” của Ngài là chỉ cho chúng ta ai cũng sẵn có mà không chịu nhận. Như vậy hình ảnh Ngài chụp một người la ăn trộm, người đó nói con không phải ăn trộm thì Ngài nói “phải, phải, tại ngươi không dám nhận”, câu chuyện đó chừng nào chúng ta mới quên được?
Người xưa muốn cho chúng ta thừa nhận cái thật của mình mà lâu nay đã bỏ quên, nên các ngài dùng đủ phương tiện để nhắc chúng ta nhớ. Riêng tôi không có phương tiện khéo như vậy, nên tôi mới dẫn chuyện của người xưa để nhắc cho quí vị nhớ. Qua những câu chuyện tôi kể và giải thích ở đây, nếu quí vị nhận được, biết quí nó như hòn ngọc vô giá hay một hạt minh châu thì lời giải thích của tôi hôm nay là hữu ích, tức tôi là kẻ có công. Nếu quí vị nhận được nó mà xem thường, nghĩ rằng cái đó ai mà không có, một thằng bé con cũng có, ông già cũng có, có gì quan trọng; nếu quí vị xem thường như vậy thì tôi là kẻ có tội. Vì muốn cho quí vị tiến tu không còn ngờ vực nữa, nên tôi không ngại rụng hết lông mày vì quí vị mà chỉ thẳng, nếu quí vị biết ngay nơi đó quí trọng gìn giữ như hòn ngọc báu thì quí vị sẽ là người hữu dụng trong nhà đạo, và tôi cũng là người giúp quí vị đủ lòng tin để tiến tu. Bằng không, nếu quí vị xem thường điều đó, thì đó là lỗi lớn của chúng tôi.
BÀI THUYẾT PHÁP ĐẦU TIÊN CỦA ĐỨC PHẬT:
NGUỒN GỐC PHẬT PHÁP
Tất niên năm Ất Sửu - 1986
Hôm nay nhân ngày cuối năm, chúng tôi nhắc lại bài thuyết pháp đầu tiên của đức Phật để chúng ta nắm vững đầu mối của sự tu hành và đi đúng con đường đức Phật đã vạch sẵn.
Là con người, ai cũng yêu thương, quí trọng, gìn giữ bản thân mình, vì thế mà lo âu sợ hãi, khổ đau. Chủ yếu của sự tu hành là phải biết rõ bản thân chúng ta như thế nào? Thường chúng ta hướng bên ngoài, luôn chạy theo ngũ dục lục trần, cả đời tạo nghiệp khổ mà không tự biết. Thế nên trong bài thuyết pháp đầu tiên cho năm anh em ông Kiều-trần-như, đức Phật đi thẳng vào vấn đề với bài pháp Tứ đế.
Đức Phật chỉ thẳng con người thật của chúng ta, con người đó thật sự là đau khổ hay an vui mà mình quí trọng, thương yêu, gìn giữ? Nếu không hiểu con người thật của mình, mà lo tìm hiểu những việc bên ngoài, đó là bỏ cội gốc theo ngọn ngành. Cũng như đứng trước một căn nhà, muốn tìm hiểu căn nhà ấy, trước tiên chúng ta phải tìm hiểu ông chủ, sau đó tìm hiểu căn nhà không khó, con người là chủ còn sự vật chung quanh chỉ là bạn, là phụ thuộc. Danh từ chuyên môn nhà Phật gọi con người là chánh báo, ngoại cảnh là y báo. Chánh báo tốt, y báo theo đó mà tốt; chánh báo xấu, y báo theo đó mà xấu. Vì vậy chánh báo là chủ, y báo là bạn, là phụ. Nhưng chúng ta chỉ tìm hiểu y báo mà không hiểu rõ chánh báo, đó là một khuyết điểm lớn.
Khi dạy tu hành, việc đầu tiên đức Phật bắt buộc chúng ta phải xác định thân này là khổ hay vui? Thấy thật rõ điều đó, chúng ta mới nhận đúng tất cả vấn đề. Mọi sự mọi vật đều phải qua cách nhìn và cách phán đoán của chúng ta, nếu chúng ta không tự biết mình mà nói biết sự vật chung quanh đúng lẽ thật, điều đó không bao giờ có. Vì vậy phải biết mình đúng như thật, rồi mới biết người, biết ngoại cảnh đúng như thật. Nếu biết mình một cách sai lầm, thì với người và ngoại cảnh mình cũng biết sai lầm. Cho nên chủ yếu của đạo Phật là phải biết rõ mình.
Bài thuyết pháp đầu tiên của đức Phật là pháp Tứ đế. Thứ nhất đức Phật nói về Khổ đế. Chúng ta lầm tưởng Khổ đế là cái gì xa lạ bên ngoài, sự thật Khổ đế xác nhận sự khổ ngay nơi con người chúng ta. Chúng ta phải xét lại thật kỹ con người mình là khổ hay vui? Nếu là khổ phải cố gắng tu cho hết khổ, nếu là vui thì tu làm chi cho thừa. Biết đúng như thật rồi, chúng ta mới nói đến chuyện tu hành. Thân này là cội gốc, nếu không biết rõ nó mà biết những việc khác cũng chỉ là việc bên ngoài thôi.
Khi nghe đức Phật nói thân này là khổ, chúng ta đều cho rằng đạo Phật là bi quan, chán đời. Nhưng đây là một lẽ thật không thể chối cãi được. Vì thế dùng chữ khổ suông chưa đủ mà phải nói “Khổ đế”, tức là cái khổ đúng như thật, chớ không phải chuyện tưởng tượng phi lý.
Đức Phật nêu lên Tứ khổ hoặc Bát khổ. Tứ khổ gồm có: sanh, già, bệnh, chết. Chúng ta thường nghĩ sanh là mới lọt lòng mẹ, khóc oa oa là khổ. Nhưng theo chúng tôi nghĩ, sanh còn là sanh hoạt của mình trong cuộc sống hằng ngày. Từ thuở bé thơ đến lúc tuổi già, những điều chúng ta ước muốn được như ý nhiều hay không như ý nhiều? Trong mười điều ước muốn, chúng ta đạt được nhiều lắm là ba điều, còn lại là không như ý. Như ý là vui, không như ý là khổ, vui ít, khổ nhiều, tức là đau khổ quá nhiều.
Tuổi già có khổ không? Khi còn trẻ, da dẻ hồng hào, sức khỏe đầy đủ muốn làm điều gì, muốn đi nơi nào đều được như ý. Đến lúc già nua, sức khỏe suy mòn, đi đứng run rẩy, nói năng lập cập, răng long má cóp, còn gì là sung sướng như tuổi thanh xuân. Tuổi già chẳng khổ là gì?
Đến cái khổ thứ ba là bệnh. Bệnh thì làm sao vui được! Cái khổ thứ tư là chết. Như vậy sanh, già, bệnh, chết là bốn cái khổ không ai chối cãi được. Bốn cái khổ đó do đâu mà có? Do thân vô thường của chúng ta luôn luôn đổi thay chuyển biến nên có sanh, già, bệnh, chết. Vì thế mà chúng ta đau khổ. Thử kiểm lại xem trên thế gian này có ai thoát khỏi bốn cái khổ đó không? Chắc hẳn là không, vì đó là luật chung của kiếp người. Cho nên Phật nói Khổ đế tức cái khổ là một lẽ thật.
Xa hơn nữa, Phật nói đến tám cái khổ. Ngoài bốn cái khổ: sanh, già, bệnh, chết nơi bản thân mình, Phật nói thêm bốn cái khổ nữa là: Ái biệt ly khổ, người mình thương yêu mà phải xa lìa nên đau khổ; oán tắng hội khổ, người mình không ưa mà phải giáp mặt nên khổ; cầu bất đắc khổ, những gì mình thích và mong cầu mà không được như ý nên khổ. Đó là ba cái khổ liên hệ giữa mình với người và sự vật chung quanh. Đến cái khổ cuối là ngũ ấm xí thạnh khổ, tức thân ngũ ấm này là gốc của đau khổ, cái khổ này chung cả thể xác lẫn tinh thần. Thân ngũ ấm của con người gồm phần vật chất và tinh thần, là một dòng biến chuyển, bởi thân vô thường biến chuyển nên đau khổ. Khi biết thân là vô thường chúng ta có nên say mê, tô điểm nó cho đẹp hơn người không, có vun bồi nó để thụ hưởng cho lâu dài không? Như khi chúng ta biết rõ món đồ giả, chỉ dùng đôi ba năm thì hư bể, thử hỏi làm sao giữ gìn nó được một trăm năm. Cho nên khi biết món vật chỉ dùng được đôi ba năm, chúng ta phải tận dụng nó cho hữu ích, chớ không cố giữ nó làm gì. Thân chúng ta cũng như vậy, tạm bợ, vô thường và đau khổ, nếu chúng ta không sử dụng nó cho hữu ích, lợi mình, lợi người, thì uổng phí cuộc đời. Nếu thấy thân mình quí đẹp thì chúng ta sanh tâm kiêu căng ngã mạn, thấy thân mình lâu bền thì chúng ta lo tích lũy dành dụm, thấy mình hơn người nên sanh tâm khinh rẻ kẻ khác. Thế là vừa thấy thân lâu dài quí báu, thì bao nhiêu tật xấu theo đó mà sanh.
Hiện nay chúng ta thấy thân mình vô thường, đau khổ hay thấy nó chân thật lâu dài? Chúng ta không dám xác nhận mạnh mẽ thân này là vô thường, cứ nghĩ rằng mình sẽ sống đến tám chín mươi tuổi. Già như những vị bảy mươi tuổi cũng nghĩ mình sẽ sống đến chín mươi tuổi, chớ không bao giờ nghĩ mình có thể chết một vài năm gần đây! Đó là lẽ thật mà chúng ta không gan dạ nhìn thẳng, cứ tưởng tượng đời sống mình còn lâu dài, nên việc tu cũng yếu, việc làm lợi ích chúng sanh cũng nhẹ. Đó là một khuyết điểm của chúng ta.
Biết rõ thân này là đau khổ vì vô thường, chúng ta phải cố làm sao cho mình và người hết khổ. Chúng ta phải tìm nguyên nhân của đau khổ, điều này đức Phật đã chỉ rõ trong đế thứ hai, đó là Tập đế. Nguyên nhân của đau khổ là ba độc: tham, sân, si, hay nói nhiều hơn là sáu thứ căn bản phiền não: tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến.
Sở dĩ chúng ta khổ trong cuộc sống vì muốn mà không được nên bất như ý. Muốn thuộc về tham, bởi tham nên mới có bất như ý. Có những cái tham vượt quá khả năng mình, ví dụ khả năng mình có năm hay bảy, mà mình tham đến một ngàn, như vậy là tham muốn quá sức, nên bất như ý quá nhiều thì đau khổ cũng quá lắm. Khi muốn cái này được rồi, lại muốn đến cái khác, lòng tham cứ tăng mãi không dừng, nên địa vị nào, ở hoàn cảnh nào, con người cũng bất như ý. Khả năng mình hữu hạn mà lòng tham vô hạn, làm sao không đau khổ.
Khi đến tuổi già, chúng ta khổ, vì sao? Vì muốn trẻ mãi. Nếu không tham trẻ, khi già đến chúng ta cứ cười với cái già, thì có khổ gì đâu! Cái chết cũng như vậy. Vì muốn sống nên khi cái chết đến mình khổ. Sanh, già, bệnh, chết đều khổ, gốc từ lòng tham mà ra, nếu hết tham thì bốn cái khổ đâu còn.
Do sân nên khổ, điều này dễ hiểu. Do si nên khổ, cũng dễ hiểu. Si là không thấy đúng như thật, vì không thấy đúng như thật nên mới tham. Thấy đúng lẽ thật rồi, khả năng mình bao nhiêu, thấy rõ bấy nhiêu, không sai lầm, không tham quá sức mình thì đâu có khổ. Vì vậy tham, sân, si là nguyên nhân của đau khổ, rõ ràng như vậy.
Khi biết rõ nguồn gốc của đau khổ là tham, sân, si, hay chung tất cả là sáu thứ căn bản phiền não, muốn hết đau khổ, phải làm sao? Đến đây đức Phật nói đế thứ ba là Diệt đế. Như một ông thầy thuốc thấy bệnh nhân đang bị bệnh hoành hành, ông thầy muốn trị bệnh, trước hết phải làm sao? Tức phải tìm nguyên nhân bệnh, rồi sau đó mới trị, nguyên nhân bệnh hết rồi, quả bệnh tự dứt. Vì thế Diệt đế là diệt hết nguyên nhân tạo thành quả đau khổ, nguyên nhân diệt sạch rồi, quả đau khổ hết, hết khổ gọi là vui.
Chủ yếu đạo Phật là dạy chúng ta thấy được quả đau khổ, rồi tìm nguyên nhân gây đau khổ, và tiêu diệt nguyên nhân đó, tức nhiên quả đau khổ hết. Cũng như khi biết bệnh do một loại vi trùng phá hoại hoành hành, biết được vi trùng đó rồi, dùng thuốc trị, vi trùng chết hết, bệnh sẽ được lành. Vì thế, Diệt đế là diệt sạch nguyên nhân đau khổ.
Muốn diệt sạch nguyên nhân đau khổ, tức phải dùng những phương pháp, đến đây đức Phật dạy đế thứ tư là Đạo đế. Trong các kinh A-hàm, Đạo đế gồm Ba mươi bảy phẩm trợ đạo, nhưng căn bản là Bát chánh đạo. Chúng ta thấy rõ đức Phật nói Khổ đế là chỉ lẽ thật nơi bản thân mình. Khi nhận thức thấu đáo lẽ thật đó, chúng ta phăng lần đến nguyên nhân của nó, rồi tìm cách diệt sạch các nguyên nhân ấy thì quả đau khổ đâu còn. Muốn tiêu diệt các nguyên nhân đau khổ phải dùng những phương pháp, đó là Đạo đế.
Pháp Tứ đế nhắm thẳng vào con người chúng ta từ quả đến nhân, từ khổ đến hết khổ, chớ không có nghĩa khổ rồi cam chịu khổ. Người đời mang thân khổ mà không biết khổ, không biết khổ thì nói gì đến diệt khổ! Vì vậy mang thân khổ mà tưởng là vui, rồi tự hào hãnh diện. Chúng ta thử nghĩ đáng giận hay đáng thương? Như một người bị bệnh hủi nặng không còn sống bao lâu nữa, nhiều lắm là sáu tháng hay một năm mà họ cứ giận người này, ghét người kia, hung dữ, tham lam, tật đố, như vậy đáng thương hay đáng giận? Mang cái thân đau khổ, mỏng manh mà không tự biết, thật là đáng thương chớ không đáng ghét.
Chúng ta tu Phật bắt đầu bằng chữ khổ, mà kết thúc bằng chữ lạc. Cho nên biết khổ, rồi tiêu diệt nguyên nhân khổ để được vui, chớ đâu phải biết khổ để rồi chịu khổ. Pháp Phật dạy rất lạc quan, vì Phật chỉ cho chúng ta thấy quả đau khổ rồi tìm cách tiêu diệt nguyên nhân đau khổ, hết đau khổ tức là an vui. Quả thật mở màn bằng khổ mà kết thúc lại là vui. Còn ở thế gian mở màn bằng vui mà kết thúc lại là khổ. Thí dụ một người chưa biết uống rượu, gặp bạn bè nài nỉ uống rượu, lúc ấy thì vui lắm phải không? Nhưng đến khi uống say rồi ngã bờ ngã bụi lúc ấy khổ hay vui? Mở màn là vui mà kết quả là khổ, đó là điều lầm lẫn của thế gian.
Đức Phật chỉ thẳng đau khổ là căn bản để rồi tìm cách tiêu diệt nó để đưa đến an vui. Nhưng an vui trong đạo Phật như thế nào? Ví dụ khi chúng ta bị đói bụng quá sức, bao tử xót xa bào bọt, đó là khổ. Nhưng khi chúng ta ăn vào vừa đủ no, lúc bấy giờ cơn đói bụng hết thì cái khổ khi đói bụng cũng hết, nên nói ăn no thì vui. Hết khổ nên nói được vui. Như vậy cái vui ở đây, không phải là cái vui của tiệc trà mâm rượu, mà là cái vui an ổn, an nhiên tự tại. Thân mình khi đói đi không nổi, đứng không yên, đến chừng ăn được vài chén cơm thân thể khỏe mạnh trở lại muốn đi đâu, muốn làm việc gì cũng được nên gọi là vui. Cái vui này không phải cái vui nhộn nhịp bên ngoài.
Còn mang thân này chứa chấp tham sân si, chúng ta còn đau khổ. Nếu tiêu diệt hết tham sân si, tuy còn thân này mà lúc đó chúng ta không còn đau khổ. Còn thân là còn già còn chết, nhưng tham sân si, nguyên nhân của đau khổ đã diệt sạch rồi, lúc đó còn đau khổ hay không? Chúng ta phải xác nhận điều này cho thật rõ. Như những vị A-la-hán khi chứng quả rồi, tham sân si đã sạch hết, khi ấy các ngài cũng còn thân mà các ngài có khổ như chúng ta không? Khi già, chết đến các ngài có rên rỉ, có buồn thảm hay không? Các vị A-la-hán khi gần tịch, các ngài vui vẻ chớ không sợ sệt như chúng ta vì nhân đau khổ dứt rồi. Dù còn thân này, quả đau khổ cũng đã giảm bớt. Hiểu như vậy, chúng ta mới thấy hiệu nghiệm của sự tu hành. Nhiều người không hiểu nói rằng Diệt đế là diệt sạch nguyên nhân đau khổ rồi chết mới được Niết-bàn, mới hết khổ. Nếu chết rồi ai biết mình được Niết-bàn, ai biết mình hết khổ? Đó là chuyện hứa hẹn xa xôi thiếu thực tế. Như đức Phật sau khi thành đạo, Ngài mới ba mươi mốt tuổi cho đến tám mươi tuổi nhập Niết-bàn, trong khoảng thời gian bốn mươi chín năm, Ngài cũng già, cũng bệnh, cũng chết, nhưng Ngài đâu có khổ như chúng ta. Đó là điểm đặc biệt, là bằng chứng cụ thể của sự tu, không phải nói đợi đến chết nhập Niết-bàn mới hết khổ. Các vị Bồ-tát, A-la-hán cũng mang thân như chúng ta mà các ngài không khổ là như vậy. Chúng ta cũng thế, ngay trong thân này nếu diệt hết nguyên nhân đau khổ rồi cũng hết khổ.
Chúng ta tu cốt để dứt khổ, được vui. Chúng ta an vui nên muốn đem niềm vui đến cho mọi người, đó là tự lợi, lợi tha và cũng là lòng từ bi. Có giác ngộ liền có từ bi là như vậy. Nếu không giác ngộ, lòng từ cũng chỉ gượng thôi chớ không thật. Vì sao? Vì không giác ngộ thì còn mê lầm, tức còn đau khổ, nếu có thương người cũng chỉ thương gượng mà thôi, vì mình có hết khổ đâu mà lo cho người hết khổ. Thí dụ như chúng ta có nhiều của cải, khi thấy người đói thiếu mình tìm cách giúp họ dễ dàng. Nếu đang đói thiếu như họ, mình có nói tôi thương anh quá, tôi thương chị quá, đó cũng là lời nói suông, chớ không giúp họ một cách thiết thực được. Vì thế, có giác ngộ mới có từ bi, đó là lòng từ bi chân thật. Do hưởng được sự an vui, mình mới đem niềm vui đó cho người.
Hiện tại chúng ta chưa làm được nhiều lợi ích cho người, nhưng nỗ lực tu, dẹp sạch tham sân si. Khi được an ổn rồi, muốn làm lợi ích cho người rất là thuận lợi. Tham sân si chưa hết mà muốn làm lợi ích cho người, đôi khi cũng gặp trở ngại. Thí dụ bình thường tỉnh táo sáng suốt, thấy huynh đệ có nhiều phiền não, chúng ta khuyên nhủ. Nhưng đến khi chúng ta gặp việc bối rối, lời nói việc làm không còn sáng suốt nữa. Vì vậy người mà chúng ta khuyên dạy khi trước mất lòng tin nơi chúng ta, nên sự lợi tha không được trọn vẹn. Nếu được tỉnh mãi mãi, chắc không bao giờ làm mất lòng tin của người. Thế nên, tỉnh giác trọn vẹn, việc lợi tha mới được trọn vẹn, tỉnh giác chưa trọn vẹn, dù có lợi tha, cũng chỉ một phần nào thôi.
Nói tóm lại, khi biết rõ bản chất của thân là vô thường, đau khổ, chúng ta cố gắng dẹp sạch nguyên nhân đau khổ thì chúng ta được an vui. Đó là tinh thần pháp Tứ đế trong các bộ kinh A-hàm.
Qua cái nhìn của Tứ đế, thấy thân này là vô thường, đau khổ, nguyên nhân từ tham sân si mà ra. Dẹp sạch tham sân si thì đau khổ cũng hết. Còn qua cái nhìn của Bồ-tát Đại thừa và các Thiền sư lại khác, các ngài thấy rõ thân này là vô thường huyễn hóa. Nhưng trong cái vô thường huyễn hóa đó, bươi sâu vào lại có một cái không vô thường, không huyễn hoá. Đến đây là bước qua giai đoạn thứ hai.
Cái không vô thường, không huyễn hóa là gì? Trong kinh Lăng Nghiêm, đức Phật nói chuyện với vua Ba-tư-nặc, nhà vua nói thân của ông lúc mười tuổi trẻ hơn lúc hai mươi tuổi, lúc hai mươi tuổi trẻ hơn lúc ba mươi tuổi, cho đến năm nay già hơn năm ngoái, tháng này già hơn tháng trước v.v... cho đến mỗi ngày mỗi phút mỗi giây nó đã đổi thay. Đức Phật bảo: Trong cái sanh diệt vô thường, hay trong cái già chết đổi thay đó, có một cái chưa từng già chết, ông có biết không? Nhà vua thưa không biết. Đức Phật mới chỉ cho Vua cái không già không chết ở ngay trong cái thân già chết. Cái không già không chết đó, đức Phật chỉ từ cái thấy, cái nghe.
Cũng trong kinh Lăng Nghiêm, đến đoạn đức Phật đưa tay lên xòe nắm, xòe nắm rồi hỏi ngài A-nan: Ông có thấy không? Ngài A-nan thưa: Dạ thấy. Hỏi: Thấy cái gì? Thưa: Thấy tay Phật xòe nắm. Hỏi: Tay ta xòe nắm, còn cái thấy của ông có xòe nắm không? Ngài A-nan thưa: Tay Phật có xòe nắm, chớ cái thấy của con không có xòe nắm. Xòe nắm tức là động, động là vô thường, là sanh diệt. Cái thấy không có xòe nắm, không xòe nắm tức không động, không động là không vô thường, không sanh diệt. Như vậy chúng ta thấy ngay trong thân vô thường sanh diệt này có cái không vô thường, không sanh diệt.
Ngài Vĩnh Gia Huyền Giác nhận thấy ngay trong thân sanh diệt vô thường có Pháp thân chưa từng vô thường sanh diệt, cho nên phần đầu bài ca Chứng đạo, Ngài nói:
Pháp thân giác liễu vô nhất vật,
Bản nguyên tự tánh thiên chân Phật,
Ngũ uẩn phù vân không khứ lai,
Tam độc thủy bào hư xuất một.
Pháp thân giác liễu vô nhất vật là ngay trong thân ngũ uẩn này nhận ra được Pháp thân. Pháp thân đó không có một vật, cũng gọi là Bản nguyên, là Tự tánh, là Phật thiên chân. Khi nhận được Pháp thân rồi, nhìn lại ngũ uẩn này, thấy như thế nào? Ngũ uẩn phù vân không khứ lai, nghĩa là thân ngũ uẩn này chẳng khác nào như mây nổi bay qua lại trong bầu trời, khi tụ khi tán, lúc có lúc không, có nghĩa lý gì đâu! Tam độc thủy bào hư xuất một. Tam độc là tham sân si, chẳng khác nào như bọt nước chợt nổi chợt tan, mất còn trong khoảnh khắc, đâu có lâu bền.
Ngộ được Pháp thân rồi, thấy thân ngũ uẩn như mây nổi, tham sân si như bong bóng nước, chúng ta tuy còn thân này nhưng có thấy khổ hay không? Hàng Nhị thừa thấy thân này là khổ, nguyên nhân của khổ là tham sân si. Đến Đại thừa nhất là Thiền tông, ngay nơi thân đau khổ sanh diệt vô thường, thấy được Pháp thân chưa từng vô thường sanh diệt. Đứng từ Pháp thân nhìn lại thân vô thường sanh diệt chẳng khác nào như đám mây nổi, ba độc tham sân si như bong bóng nước. Như vậy quả và nhân của thân này đều là tạm bợ giả dối, không có nghĩa lý gì. Đối với thân này còn buồn khổ hay không, còn rên rỉ trước sự mất còn của nó hay không? Nhận được Pháp thân chân thật rồi, thân vô thường đau khổ này không còn gì quan trọng.
Bồ-tát không sợ tam độc, cũng không quí tiếc thân này, vì sao? Vì các ngài đã giác ngộ, thấy được Pháp thân ngay trong thân sanh diệt. Giác ngộ tức là hết si mê, biết thân như mây nổi nên không còn tham lam, tham lam hết sân hận dứt. Các hàng Bồ-tát không còn sợ thân này đau khổ, cũng không còn sợ nguyên nhân làm cho thân này đau khổ, cho nên các ngài luôn luôn vui vẻ.
Các vị chưa chứng Bồ-tát, còn tu theo hạnh A-la-hán, thấy thân này là đau khổ, sanh tử là đau khổ, thấy tham sân si là nguyên nhân gây đau khổ, cho nên nếu chưa dẹp sạch ba độc, các ngài không bao giờ vui được. Các ngài tu hành khổ hạnh, luôn luôn cố gắng để tiêu diệt tham sân si. Còn các Bồ-tát nhận được thân chân thật ngay trong thân này nên các ngài hằng tỉnh hằng an.
Cổ đức có bài tụng sau đây:
Chư Phật tại tâm đầu,
Người mê chạy ngoài cầu,
Trong ôm báu vô giá,
Chẳng biết một đời thôi.
Phật tại tâm đầu. Phật ở đâu? Tức ở ngay nơi tâm của mình. Dấy niệm là động, trước khi dấy niệm là tịnh. Khi chưa dấy niệm, Phật ở ngay đó rồi, vừa dấy niệm là thành chúng sanh. Niệm lặng xuống Phật hiện trở lại. Người mê chạy ngoài cầu. Người mê chạy tìm Phật ở núi này, non kia, ở Tà Lơn, Ông Cấm, không bao giờ thấy Phật ngay nơi tâm mình. Trong ôm báu vô giá tức là trong lòng đã ôm sẵn châu báu vô giá. Chẳng biết một đời thôi, trong tâm ôm sẵn ngọc báu vô giá mà không biết để luống qua uổng phí một đời.
Qua bốn câu tụng đơn giản của Thiền sư, chúng ta thấy rõ ràng Phật không ở đâu xa, chỉ ngay nơi tâm. Mình không biết nên chạy nơi này nơi kia, trèo non lội suối để tìm Phật, nào có gặp Phật đâu. Đã có sẵn ngọc báu vô giá ở trong lòng mà không hay biết để trôi qua một đời, thật đáng tiếc đáng thương!
Người tu Phật dù tu theo hạnh Thanh văn hay hạnh Bồ-tát, mục đích là đạt được sự an vui. Hàng Thanh văn thấy thân là khổ, tìm nguyên nhân của khổ để tiêu diệt, khổ diệt sạch hết là được an vui. Còn Bồ-tát thấy rõ trong thân đau khổ có cái chân thường an lạc, các ngài sống với cái chân thường an lạc đó, cũng được an vui. Thanh văn và Bồ-tát ở hai quan điểm khác nhau, nảy sanh lòng từ bi, chỉ dạy cũng khác nhau. Các vị Thanh văn thấy thân là đau khổ, diệt hết khổ được an vui. Nhìn lại chúng sanh mang thân đau khổ mà không tự biết, lại say sưa trong đó, các ngài khởi lòng từ bi chỉ dạy cho con người diệt nguyên nhân đau khổ để được an vui. Còn Bồ-tát thấy ngay nơi thân vô thường đau khổ, có cái chân thường an lạc. Các ngài không dạy dẹp tham sân si, mà dạy phải giác ngộ, thấy được cái chân thật ngay trong cái hư dối. Giác ngộ là phá được si, nên tham không còn, mà sân cũng hết. Các ngài không dạy pháp tu, mà bảo chúng ta phải nhận được cái chân thường an lạc, Thiền tông gọi đây là Kiến tánh khởi tu. Nhận được cái chân thật rồi, chúng ta từ từ bỏ những sai lầm. Hàng Đại thừa chỉ thẳng cho chúng ta thấy trong thân vô thường có cái chân thường. Vì thế biết bao nhiêu kinh điển Đại thừa đều nhắm vào điểm này. Trong kinh Pháp Hoa, Phật nói chỉ có một Phật thừa, chỉ thẳng cho chúng ta Tri kiến Phật. Kinh Lăng Nghiêm cốt chỉ Chân tâm, kinh Viên Giác chỉ thẳng tánh Viên giác.
Thiền tông cũng vậy, bảo chúng ta phải kiến tánh, nghĩa là nhận ra Bản tánh rồi khởi tu, đó là căn bản. Chúng ta phải thấy ngay nơi thân tạm bợ hư dối có cái chân thật. Đừng lầm thân giả dối cho là chân thật. Nếu mê lầm cho thân giả dối là chân thật, thì mọi mê lầm khác sẽ theo đó sanh ra không thể kể hết. Nhận được cái chân thật rồi, biết thân giả dối như mây nổi thì bao nhiêu vấn đề đều được giải quyết. Cho nên nói Đại thừa là đốn ngộ.
Lòng từ bi của Đại thừa là chỉ cho chúng ta nhận được cái chân thật nơi mình. Nhận được cái chân thật rồi, thì thân này không còn quan trọng, cho nên hết đau khổ. Trong kinh Pháp Hoa, có ví dụ người nghèo đi lang thang say sưa, được bạn cho một viên ngọc báu vô giá cột trong chéo áo, bảo nhớ lấy ra mà tiêu dùng. Lòng từ bi là chỉ thẳng cho chúng ta thấy ngọc báu vô giá. Thế nên cả đời Bồ-tát Thường Bất Khinh chỉ làm một việc là nói: “Tôi không dám khinh các ngài, các ngài đều sẽ thành Phật.” Ngài cốt chỉ cho mọi người nhận được viên ngọc báu của mình. Các Bồ-tát đều nhắm thẳng chỉ cho chúng ta nhận ra ngọc báu đó, sự tu hành theo đó được dễ dàng và kết quả đúng như sở nguyện.
Không riêng gì hàng Bồ-tát Đại thừa mới có từ bi, mà hàng Nhị thừa cũng từ bi. Nhưng cái nhìn của hai bên khác nhau, nên mới chia thành Tiểu thừa Đại thừa. Dù sao mục tiêu chánh yếu cũng không hai, thấy rõ thân này là khổ, giải hết đau khổ là được an vui. Chủ yếu của đạo Phật dù Tiểu thừa hay Đại thừa cũng là đem lại nguồn vui cho chúng sanh, chớ không có chán nản. Đem lại nguồn vui tức là nguồn an ổn, phấn khởi, vui tươi. Người tu lâu có hiệu lực thì không buồn mà vui. Nếu tu lôi thôi, nghĩ đến cái được cái mất thì còn vui buồn. Thật tình tu có đạo lực thì được an ổn, ít có buồn vui.
Tất cả chúng ta từ Tăng Ni đến Phật tử nam nữ phải nỗ lực tu, làm sao mỗi ngày mỗi bớt khổ mới gọi là thật tu. Nếu tu mà càng ngày càng chồng chất thêm đau khổ, đó chưa phải là biết tu. Tu có nghĩa là giải khổ, chớ không phải tu để thêm khổ. Giải khổ gọi là biết tu, chưa giải khổ được chút nào đó là chưa biết tu. Dù ở chùa, dù học đạo nhiều năm mà chưa bớt khổ, cũng chưa phải là biết tu, đó là điều chúng tôi xác nhận rõ ràng như vậy.
Chúng ta học đạo cốt làm sao cho hết khổ. Với tinh thần Thiền tông, muốn hết khổ là phải nhận ra ngọc báu của mình hay là nhận được Pháp thân. Chúng tôi nhắc lại câu chuyện của ngài Cảnh Thanh, ngồi trong am với Thị giả. Ở bên ngoài có con rắn bắt con nhái, tiếng con nhái kêu ẹo ẹo. Ngài hỏi Thị giả: “Là tiếng gì?” Thị giả thưa: “Tiếng rắn bắt nhái, nhái kêu.” Ngài nói: “Chúng sanh khổ, lại có khổ chúng sanh.” Ý nghĩa làm sao? Cái nào là chúng sanh khổ, cái nào là khổ chúng sanh? Con nhái bị con rắn bắt, đó là chúng sanh khổ. Còn khổ chúng sanh là ai? Là chú Thị giả hay là ai? Hay là người quên mình theo vật? Ai quên mình theo vật thì người đó khổ, đó là khổ chúng sanh.
Ngay nơi mình có ngọc báu mà lúc nào cũng bỏ quên, mải chạy theo âm thanh sắc tướng bên ngoài, nên bị vô thường chi phối, do đó chúng ta khổ. Khi nghe tiếng chỉ theo tiếng mà không nhớ mình, khi thấy cảnh chỉ theo cảnh mà không nhớ mình. Vì vậy cảnh khổ gọi là chúng sanh khổ, quên mình đó là khổ chúng sanh. Khi ngài Cảnh Thanh hỏi, muốn không bị Ngài nói là khổ chúng sanh, chúng ta phải đáp thế nào thay cho Thị giả? Nếu có mặt nơi đó, chúng tôi sẽ đáp:
Quan Âm diệu trí lực,
Năng cứu chúng sanh khổ.
Để kết luận buổi nói chuyện hôm nay, chúng tôi dẫn một bài kệ bằng chữ Hán của Thiền sư Chân Nguyên vào đời Lê ở Việt Nam:
Nhất tánh viên minh cá cá đồng,
Bao la thiên địa tổng hư không,
Ngã kim trực chỉ Tây lai ý,
Tâm tịch linh tri thị chánh tông.
Nhất tánh viên minh cá cá đồng, một tánh tròn sáng mỗi người ai cũng đồng có sẵn như vậy. Bao la thiên địa tổng hư không, tánh tròn sáng ấy bao trùm cả trời đất và hư không. Nếu thấy được tánh bao la ấy thì thân này thật là bèo bọt không đáng kể. Ngã kim trực chỉ Tây lai ý, nay tôi nhắm thẳng ý Tây lai, tức là ý của Tổ sư từ Ấn Độ sang. Tâm tịch linh tri thị chánh tông, câu kết thúc này thật là quá hay. Tâm tịch là khi những tâm vọng tưởng phân biệt lặng xuống rồi, còn cái linh tri tức cái biết sáng suốt không phân biệt, đó là chánh tông mà Tổ Đạt-ma truyền sang.
Dịch:
Một tánh sáng tròn mỗi mỗi đồng,
Bao trùm trời đất cả hư không,
Nay ta nhắm thẳng Tây lai ý,
Tâm tịch linh tri ấy chánh tông.
Chúng ta tu thiền thấy ý Tổ sư từ Ấn Độ sang rõ ràng bằng một câu kết thúc: Tâm tịch linh tri ấy chánh tông.
TIN TÂM
Xuân Bính Dần - 1986
Năm mới, tôi muốn nhắc nhở quí vị tinh tấn tu hành đúng theo tinh thần Thiền tông, nên sẽ nói rõ về việc Tin tâm. Phần nhiều người tu chúng ta tin Phật, tin Pháp, tin Tăng, nhưng ít tin tâm mình. Hôm nay tôi nói thẳng về đường lối tu để chúng ta nhận hiểu, tin được tâm của mình.
Từ xưa đến nay ai cũng hay nói: “Tôi không cần đi chùa, chỉ tu tâm được rồi.” Nhưng tâm là cái gì để tu? Có người bảo rằng: “tâm tôi nghĩ thế này, tâm tôi tính thế kia”, như vậy tâm là cái nghĩ tính hay cái gì khác nữa? Đó là điều chúng ta phải biết rõ. Chữ Tâm của nhà Phật là chỉ cho cái “biết”. Biết nghĩ, biết tính, biết tốt, biết xấu, biết dở, biết hay... tóm lại tất cả những gì thuộc lãnh vực “biết” đều gọi là tâm. Vì thế, nếu chúng ta không phân biệt rành rẽ sẽ chỉ nhận tâm là cái biết phân biệt, mà quên tâm còn là cái biết thầm lặng sáng suốt không phân biệt. Thế nên trong nhà Phật chia tổng quát tâm làm hai loại: tâm vọng và tâm chân.
Tâm vọng là gì? Là những cái biết thuộc về suy nghĩ, phân biệt. Cái biết đó động, sanh diệt nên gọi là vọng. Vọng là dối, không thật, có rồi mất hoặc chợt sanh chợt diệt, không bền lâu nên gọi là vọng. Trái lại, cái biết thường hằng không đổi, mãi mãi bất sanh bất diệt, không động, không có tướng trạng, cái biết đó gọi là tâm chân. Như vậy tâm chân thật là chỉ cái biết không bao giờ đổi thay, không bao giờ sanh diệt. Nhưng tất cả chúng ta ai cũng chỉ nhận được cái biết thuộc về suy tính, phân biệt, ít ai nhận được cái biết thầm lặng hằng còn và không sanh diệt. Bởi không hiểu điều đó nên ta chỉ nhận cái hư dối cho là tâm thật, còn Tâm chân thật lại quên đi. Thế nên trong kinh Tứ Thập Nhị Chương, đức Phật dạy các thầy Tỳ-kheo: “Tỳ-kheo các ông chớ nên tin tâm của các ông, khi nào chứng A-la-hán thì mới nên tin.” Đức Phật nói “các ông chớ nên tin tâm của các ông”, đó là tâm nào? Là tâm hư dối. Tâm hư dối thì tin không được vì nó đổi thay, sanh diệt. Tin cái đổi thay sanh diệt thì thế nào chúng ta cũng bị biến đổi, bị sanh diệt. Đợi “khi chứng A-la-hán rồi mới tin tâm các ông”, chứng A-la-hán thì tâm đó là tâm gì? Sau khi chứng A-la-hán, cái biết không còn sanh diệt nữa, khi ấy mới đáng tin.
Đức Phật muốn chúng ta đừng lầm lẫn hai cái tâm: tâm phân biệt hư dối và tâm lặng lẽ chân thật. Nếu cho cái hư dối là thật thì tự chúng ta bị lầm mê, đi mãi trong sanh tử. Chủ yếu là phải biết mình có Tâm chân thật. Muốn biết Tâm chân thật thì phải làm sao? Những vị tu khi ngộ đạo tự nhiên thấy, tự nhiên nhận ra. Nếu chưa ngộ đạo thì khó nhận, khó biết. Nay tôi chỉ y theo lời dạy của Phật của Tổ để chỉ ra, khả dĩ chúng ta có thể nhận được phần nào.
Trong kinh Lăng Nghiêm đức Phật nói: Có một cái gọi là “Nhất tinh minh sanh lục hòa hợp”. Chữ “tinh” là ròng rặc, “minh” là sáng suốt, “tinh minh” là ròng rặc sáng suốt hay sáng suốt một cách thuần túy. Từ một cái sáng suốt thuần túy đó sanh ra sáu cái hòa hợp. Sáu cái hòa hợp là gì? Là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý. Tại sao gọi là sáu hòa hợp? Vì muốn thấy phải có con mắt, có cảnh bên ngoài và thức theo đó phân biệt. Cái biết của con mắt thuộc về hòa hợp, đủ duyên hòa hợp mới có. Ý suy nghĩ cũng có cảnh bên ngoài, có danh, có tướng mới nương đó suy nghĩ, như thế cũng duyên theo cảnh, nên gọi là lục hòa hợp. Tuy nhiên khi duyên theo cảnh đó lại có cái ngầm không theo mà chúng ta không thấy. Nên chư Phật, chư Tổ luôn luôn bảo chúng ta phải khéo, đừng lầm chạy theo cảnh mà phải thấy cái thật ngầm ở trong. Chư Thiền sư hay nói, phải như con ngỗng chúa khi uống sữa, chỉ uống sữa mà chừa nước lại. Sữa hòa lẫn với nước, chỉ uống sữa, bỏ nước lại, việc đó rất khó. Cũng vậy, nơi sáu căn trong chỗ hòa hợp, chúng ta phải làm sao nhận ra được cái thuần túy tinh anh mà đừng theo cái hư dối phân biệt, đó là sự khôn ngoan khéo léo của mình. Vì vậy người tu phải khéo nhận nơi mình có một tinh minh sáng suốt phát ra sáu căn gọi là sáu hòa hợp. Mắt nhìn cảnh, tai nghe tiếng nhưng đừng lệ thuộc vào cái sanh diệt bên ngoài hay cái sanh diệt của vọng tâm mà nhớ sống được với Chân tâm, đó là điều khôn ngoan nhất, như ngỗng chúa uống sữa bỏ nước lại vậy.
Ý nghĩa trên trong kinh Lăng Nghiêm, các Thiền sư diễn tả lại bằng một hình thức lạ lùng. Mới nghe chúng ta không hiểu nhưng khi thâm nhập, hiểu được thì thấy rất hay. Như Thiền sư Dược Sơn hỏi Vân Nham:
- Ông biết làm sư tử múa phải không?
- Dạ phải!
- Ông múa được mấy xuất?
- Múa được sáu xuất.
- Ta cũng múa được.
- Hòa thượng múa được mấy xuất?
- Ta múa được một xuất.
Vân Nham nói:
- Một tức sáu, sáu tức một.
Hai thầy trò ngài Dược Sơn nói chuyện sư tử chơi cho vui hay nói chuyện trong kinh Lăng Nghiêm? Ông thầy múa một xuất tức là nhất tinh minh, đệ tử múa sáu xuất tức là lục hòa hợp. Nhưng tại sao dùng hình ảnh con sư tử? Vì sư tử là chúa loài thú, mọi loài nghe tiếng của nó đều kinh hoàng, không loài nào dám chống lại. Cái chân thật dụ như sư tử, còn những vọng tưởng phân biệt dụ cho các loài thú khác. Biết làm sư tử múa là chỉ cho biết được cái thể nhất tinh minh. Hiểu như vậy chúng ta mới thấy từ Phật đến Tổ đều thấy rõ nơi mình có cái chân thật, từ cái chân thật đó theo duyên phát ra sáu cửa. Chúng ta có đủ Tâm chân thật mà không nhận, không biết tưởng mình không có.
Tôn giả Ba-la-đề ở Ấn Độ, khi nghe vua Dị Kiến hỏi về Phật tánh, Ngài đáp: “Nơi thai gọi là thân, ở đời gọi là người, nơi mắt gọi là thấy, nơi tai gọi là nghe, nơi mũi phân biệt các mùi, nơi lưỡi đàm luận, nơi tay nắm bắt, nơi chân chạy nhảy, biến hiện thì khắp sa giới, thu lại chỉ trong hạt bụi, người hiểu cho là Phật tánh, người không hiểu gọi là tinh hồn.” Như vậy nơi tai, mũi, lưỡi đều mang tánh chất Phật trong đó, kinh Pháp hoa gọi là Tri kiến Phật. Tuy mang tánh Phật, nhưng người hiểu mới thấy đó là Phật tánh, còn người không hiểu nói là tinh hồn, tức hồn linh của mình. Tại sao? Hiểu thì như ngỗng chúa biết lọc sữa uống chừa nước lại, còn không hiểu thì như sữa hòa với nước, chúng ta uống luôn cả nước đầy bụng mà không thể lọc sữa nổi. Hiểu và không hiểu khác nhau ở chỗ đó. Chư Tổ đã trình bày thật rõ ràng, không giấu giếm chút nào, nhưng vì chúng ta mê muội nhiều đời nên nghe dường như hiểu mà sống thì sống không được. Đó là tại cái mê lầm muôn đời của chúng ta.
Thiền sư Đại An dạy chúng: “Cả thảy các ngươi, mỗi người có hòn ngọc lớn vô giá, từ cửa mắt phóng quang soi sáng núi sông cây cỏ, từ cửa tai phóng quang nhận lãnh phân biệt tất cả âm thanh lành dữ. Sáu cửa ngày đêm thường phóng quang sáng cũng gọi là phóng quang tam-muội. Các ngươi không biết lại nhận bóng trong thân tứ đại v.v...” Nhà thiền nói tất cả chúng ta đều có hòn ngọc quí, trong kinh Lăng Nghiêm gọi là một tinh minh. Cái tinh minh hay hòn ngọc quí chỉ có một, nhưng tùy duyên phóng ra sáu cửa. Khi phóng ra sáu cửa, ở tai nhận lãnh âm thanh, ở mũi nhận lãnh mùi thơm hôi. Như vậy nó hằng phóng quang ra sáu cửa mà chúng ta không biết, do không biết nên nhận cái bóng trong thân tứ đại, là những vọng tưởng suy nghĩ làm tâm mình. Chúng ta suy nghĩ những gì mình đã nghe tên, thấy tướng, vì có thấy tướng, nghe tên mới suy nghĩ được. Có danh, có tướng là có bóng gieo rắc vào tâm thức, chúng ta duyên theo bóng đó mà khởi suy nghĩ. Duyên bóng thì đâu phải thật, còn cái hằng nghe hằng thấy lúc nào lại không có. Cái thấy cái nghe không bao giờ vắng mặt, còn suy nghĩ thì duyên theo bóng của sự vật bên ngoài mới có. Vì thế Ngài bảo chúng ta không nhận được cái chân thật phóng ra từ sáu cửa, mà chỉ nhận cái bóng trong thân tứ đại tức là tâm vọng tưởng.
Hiện nay tất cả chúng ta sống bằng tinh thần, bằng tâm của mình. Tâm đó là tâm nào? Nếu là tâm duyên theo bóng thì không phải tâm thật. Đã sống với bóng không thật thì nó sẽ dẫn chúng ta đi trong cái không thật, tức đi trong sanh tử luân hồi như mộng như huyễn. Trái lại nếu chúng ta sống được với cái chân thật thì dòng luân hồi mộng huyễn không còn nữa. Đây là gốc của sự tu.
Tổ Huệ Khả đã nhận được pháp tu nơi Tổ Bồ-đề-đạt-ma qua câu chuyện an tâm. Một thời gian sau, Ngài bạch với Tổ: “Con đã dứt hết các duyên.” Tổ bảo: “Chớ rơi vào đoạn diệt.” Ngài thưa: “Không rơi.” Tổ hỏi: “Con làm thế nào?” Ngài thưa: “Rõ ràng thường biết, nói không thể đến.”
Rõ ràng thường biết, trong bài kệ ngài Chân Nguyên dùng chữ “biết thiêng”, chữ Hán gọi là linh tri, tức cái biết rõ ràng, cái biết đó “nói không thể đến”. Tổ bảo: “Đây là chỗ truyền của chư Phật chớ có hoài nghi.” Rõ ràng Phật Tổ đã chỉ cái chân thật ai cũng có, nhưng vì chúng ta không khéo nhận, chỉ chạy theo cái bóng duyên nơi sáu trần, do đó quên mất cái chân thật.
Tổ Huệ Khả nói dứt hết các duyên tức là tâm duyên lự theo cảnh, theo bóng dáng của sáu trần đã sạch. Tổ Bồ-đề-đạt-ma sợ lại rơi vào Không nên bảo “coi chừng rơi vào đoạn diệt”. Nếu đến đó không biết gì nữa thì rơi vào đoạn diệt, nên Huệ Khả thưa: Con không rơi vào đoạn diệt. Hỏi: - Tại sao không rơi vào đoạn diệt? Đáp: - Con rõ ràng thường biết, nói không thể đến. Ngay đó Tổ Đạt-ma liền ấn chứng “đây là chỗ truyền của chư Phật không nên hoài nghi”. Phật tử tập ngồi thiền, phút giây nào tâm lặng, không mê ngủ thì có thấy, có nghe có biết mình đang lặng không? Mắt vẫn thấy, tai vẫn nghe và tâm không có vọng, như vậy không phải rõ ràng thường biết là gì? Đâu phải đợi vọng tâm dấy lên mới biết. Rõ ràng chúng ta có cái thường biết hiển nhiên nơi mình, không đợi có vọng tâm mới biết. Nhưng khổ thay chúng ta cứ đợi vọng tâm dấy lên mới cho là có tâm mình, cho là biết thì đã quên mất cái rõ ràng thường biết thầm lặng bên trong rồi. Nhận ra mình có cái rõ ràng thường biết, là chúng ta tỉnh, chúng ta giác. Tại sao nói tỉnh, nói giác? Vì cái rõ ràng thường biết hằng hữu mà ta quên, lại nhận bóng duyên theo ngoại cảnh làm tâm mình, như vậy không phải mê là gì? Nay biết cái bóng không phải thật và nhận chân được cái thật thì không phải giác là gì? Chỗ mê giác rõ ràng. Chạy theo bóng dáng của sáu trần là mê, nhận biết nó vọng dối để sống với cái rõ ràng thường biết của mình là giác, chớ không có gì xa lạ. Nhận được cái đó, trong nhà thiền gọi là Kiến tánh, tức là thấy được Bản tánh bất sanh bất diệt của mình. Chữ thấy không phải mắt thấy mà là nhận ra rõ ràng. Chúng ta có Tâm chân thật, nay phải tin cho sâu, nhận cho kỹ. Làm sao tin nhận Chân tâm cho sâu cho đúng?
Ngài Thần Tán đã ngộ lý thiền nơi Tổ Bá Trượng xong trở về chùa với thầy. Thầy Ngài tu theo giáo. Một hôm nhân thầy tắm, vì thầy già yếu nên Ngài kỳ lưng cho thầy. Ngài vỗ trên lưng thầy nói: “Điện Phật đẹp mà Phật không Thánh.” Thầy ngó lại, Ngài nói: “Tuy Phật không Thánh vẫn hay phóng quang.” Lại một hôm, Bổn sư ngồi trong cửa sổ xem kinh, có một con ong chui đầu vào khung cửa sổ bằng giấy tìm lối ra. Ngài trông thấy nói:
- Thế giới thênh thang như thế mà chẳng chịu ra, dùi đầu vào giấy cũ biết năm nào ra được?
Ngài liền nói kệ:
Không môn bất khẳng xuất,
Đầu song dã thái si,
Bách niên tán cổ chỉ,
Hà nhật xuất đầu thì?
Dịch:
Cửa không chẳng chịu ra,
Quá ngu chui cửa sổ,
Giấy cũ trăm năm dùi,
Ngày nào thoát ra được?
Thầy Ngài nghe lấy làm lạ hỏi:
- Ngươi đi học đạo mấy năm, nay thấy được cái gì mà nói nghe lạ vậy?
Ngài thưa:
- Con được Tổ Bá Trượng chỉ cho con đường tu hành.
Thầy Ngài biết đệ tử có cái gì lạ, mới bảo:
- Ngày mai hội chúng lại, ngươi lên giảng cho ta xem!
Hôm sau đánh trống, chúng hội lại, thầy Ngài cũng làm thính giả ngồi ở dưới, Thần Tán ngồi trên tòa giảng, câu đầu tiên Ngài dẫn lời Tổ Bá Trượng:
Linh quang độc chiếu,
Quýnh thoát căn trần,
Thể lộ chân thường,
Bất câu văn tự.
Tâm tánh vô nhiễm,
Bản tự viên thành,
Đản ly vọng duyên,
Tức như như Phật.
Dịch:
Linh quang riêng chiếu,
Vượt khỏi căn trần,
Bày hiện chân thường,
Chẳng nệ văn tự.
Tâm tánh không nhiễm,
Vốn tự viên thành,
Chỉ lìa vọng duyên,
Tức như như Phật.
Qua bài kệ đó, thầy Ngài ngộ nói: Ta chưa bao giờ được nghe giáo lý tuyệt vời như thế!
Ở đây, tôi giải thích lại để quí vị thấy rõ. “Linh quang độc chiếu”, là linh quang riêng chiếu. Đây không khác với hòn ngọc báu hay kinh Phật nói một tinh minh.
“Quýnh thoát căn trần”, căn là sáu căn, trần là sáu trần, cái đó vượt hơn sáu căn và sáu trần. Tại sao? Vì sáu căn thuộc về thân, mà thân là tướng sanh diệt; sáu trần thuộc về duyên hợp nên cũng là tướng sanh diệt, còn cái này không sanh diệt nên nói siêu xuất cả căn và trần.
“Thể lộ chân thường” là ngay trong đó hiện bày chân thường.
“Bất câu văn tự” nó không thuộc về chữ nghĩa.
“Tâm tánh vô nhiễm”, tánh của tâm đó không nhiễm, nói tánh của tâm là để chỉ cho Tâm chân thật, còn nói tâm là chỉ tâm phân biệt hư dối. Lục Tổ khi ngộ, Ngài nói kệ: “Bản lai vô nhất vật, hà xứ nhạ trần ai”, nghĩa là xưa nay không một vật, chỗ nào dính bụi bặm, tức là không nhiễm. Thật rõ ràng.
“Bản tự viên thành” là Tâm chân thật vốn tự tròn đủ, không nhiễm, không thiếu thốn gì cả. Nhưng làm sao sống được với nó đây?
“Đản ly vọng duyên, tức như như Phật.” Hai câu này là chỉ thẳng lối trở về. Muốn sống được với nó thì chỉ lìa vọng duyên, lìa tâm hư dối duyên theo bóng dáng sáu trần, khi ấy gọi là như như Phật hay Phật như như. Tại sao nói Phật như như? Phật là giác, như như là lặng lẽ, cái biết lặng lẽ là Chân tâm tức Phật như như. Ngài Bá Trượng chỉ cho chúng ta thấy mỗi người có một cái Tâm chân thật, sáng suốt siêu xuất cả sáu căn sáu trần, luôn luôn hiện bày, nhưng không mắc kẹt trong văn tự chữ nghĩa. Bản tánh không ô nhiễm, tự tròn đủ, muốn sống với nó chỉ cần lìa các vọng duyên thì tự nó là Phật như như. Như vậy tìm Phật khó hay dễ? Chịu khó lìa vọng duyên là Phật như như, không chịu lìa thì không biết chừng nào mới có Phật như như. Như vậy đường tu không phải xa, cũng chẳng phải khó, xa hay khó là tại chúng ta chưa chịu lìa thôi, nếu lìa được là như như Phật.
Trong Tín Tâm Minh, Tổ Tăng Xán dạy:
Nhãn nhược bất thùy,
Chư mộng tự trừ,
Tâm nhược bất dị,
Vạn pháp nhất như.
Dịch:
Mắt nếu không ngủ,
Các mộng tự trừ,
Tâm nếu không khác,
Muôn pháp nhất như.
Hình ảnh này đẹp làm sao!
“Nhãn nhược bất thùy”, con mắt nếu không ngủ thì “chư mộng tự trừ”, không có mộng nào hiện ra cả. Chúng ta mở mắt trao tráo, rõ ràng sáng suốt thì có mộng nào hiện ra. Nhưng nếu nhắm mắt ngủ một chút thì thấy cảnh này cảnh kia... bao nhiêu cảnh là bao nhiêu mộng. Mộng hiện ra là do mắt ngủ, nếu mắt không ngủ thì không có mộng.
“Tâm nhược bất dị, vạn pháp nhất như.” Tâm chúng ta nếu không khác thì muôn pháp đều nhất như. Tâm không khác tức là không dấy niệm thứ hai, thứ ba. Có một niệm tức là có khác, rõ ràng thường biết mà không có niệm nào khác thì muôn pháp là nhất, là như, chớ không còn gì nữa cả. Như vậy muốn tìm muôn pháp nhất như phải tìm ở đâu? Có nhiều người không biết tu, nghe nói khi tâm cảnh nhất như hay muôn pháp đều như liền nghĩ rằng, mình phải quán tất cả đều không ngơ thì nó như. Không phải vậy! Chỉ khi nào chúng ta không có một niệm dấy lên thì các pháp nhất như.
Trở lại ví dụ trên, con mắt không ngủ là dụ cho không khởi một niệm, nên nói vạn pháp nhất như. Con mắt lúc ngủ thì hết mộng này đến mộng kia liên miên, dụ cho khi dấy niệm lên thì muôn pháp thiên sai vạn biệt. Chúng ta muốn hết mộng chỉ chịu khó mở mắt, cũng như muốn cho tâm cảnh nhất như thì chịu khó tâm không khởi niệm, không có niệm khác thì nó là nhất như. Khi nào chúng ta ngồi nhìn trời nhìn mây mà không có một niệm nào cả thì có phân biệt cái này đẹp, cái kia xấu, cái này tên A, cái kia tên B không? Nếu không khởi niệm, không có phân biệt tức là nhất như, còn khởi niệm nói đây là mây vàng, kia là mây đỏ v.v... là nhiều thứ rồi. Thế nên chủ yếu của người tu là phải làm sao biết rõ Tâm chân thật, đừng chạy theo vọng tưởng. Vọng tưởng lặng rồi thì muôn pháp nhất như, chớ không phải nhồi muôn pháp trở thành một khối để nhất như. Đó là chủ yếu của chư Tổ dạy.
“Tâm nhược bất dị, vạn pháp nhất như” với đoạn trên Tổ Bá Trượng nói: “Đản ly vọng duyên, tức như như Phật” có khác không? Đoạn trên thì lìa vọng duyên, còn đoạn này thì tâm chẳng khác, chẳng khác tức là không loạn. Trên nói “như như Phật”, dưới nói “vạn pháp nhất như” là lối nói cho chúng ta thấy rõ.
Tín Tâm Minh cũng có đoạn:
Viên đồng thái hư,
Vô khiếm vô dư,
Nhân do thủ xả,
Sở dĩ bất như.
Dịch:
Tròn đồng thái hư,
Không thiếu không dư,
Nhân vì thủ xả,
Thế nên chẳng như.
Tổ lặp lại chữ “như” một lần nữa. Chúng ta có Thể tánh tròn đồng thái hư, nghĩa là trùm cả hư không. Vô khiếm tức không thiếu, vô dư tức không thừa, hư không đến đâu thì Tâm thể chúng ta đến đó, không thiếu không thừa. Tại sao? Vì Tâm thể không tướng, hư không cũng không tướng, hư không đến đâu thì Tâm thể đến đó, nên nói tròn đồng thái hư, không thiếu cũng không dư.
“Nhân do thủ xả”, thủ là lấy, xả là bỏ, vì chúng ta có lấy có bỏ do đó không được như. Nếu có lấy, có bỏ thì tâm dị chưa? Lấy khác bỏ khác, tức là tâm đã dị rồi, mà tâm đã dị thì vạn pháp đâu được nhất như. Thế nên Tổ bảo nếu còn thủ xả thì không như, nếu bỏ thủ xả thì sẽ như. Tất cả niệm của chúng ta khởi theo cái gì? Theo hai bên, nghĩa là hoặc thủ hoặc xả, hoặc khen hoặc chê v.v..., tất cả các chấp hai đều nằm trong thủ xả. Vì thế còn chấp hai là tâm không như. Tóm lại niệm nào dấy lên cũng đều trong cái chấp hai. Ví dụ chúng ta nghĩ vật này tốt hoặc xấu, việc kia có hoặc không... Tốt xấu là hai, có không là hai, phải quấy là hai v.v... vừa dấy niệm là nằm trong cái chấp hai. Nhưng nếu lặng niệm xuống thì biết mà không có hai. Chính cái biết không hai đó là như, còn dấy niệm theo hai bên là không như. Đó là chỗ thiết yếu chúng ta phải thấy cho thật rõ để biết đường lối tu.
Cũng trong Tín Tâm Minh, khi kết thúc Tổ nói: “Tín tâm bất nhị, bất nhị tín tâm.” Ngài nói Tín Tâm là không hai, rồi lặp lại không hai là Tín Tâm. Chúng ta tin tâm là không hai, không hai tức là tin tâm. Quí vị tin tâm chưa? Nếu còn thấy hai là chưa tin. Chữ tin này không phải chỉ là biết có cái đó, mà là tin nhận được Tâm chân thật. Muốn nhận được Tâm chân thật là đừng thấy hai, còn có hai là không bao giờ nhận được Tâm chân thật. Vì thế Ngài nói “tín tâm bất nhị” rồi lặp lại “bất nhị tín tâm”, vì Tâm chân thật không có niệm, dấy niệm tức là hai, muốn nhận nó thì phải đừng dấy niệm.
Chư Tổ thuở xưa, khi gặp người dấy niệm hỏi điều gì có tánh cách đối đãi đều cho ăn đòn, để tập họ thấy đó là lỗi, đừng chạy theo hai bên nữa, mới tin được tâm mình. Tâm đó là Phật, nếu tin được tâm đó tức chúng ta tin được ông Phật của mình. Tin được Phật mình, nhận được Phật mình thì sớm muộn gì cũng thành Phật, nên nói kiến tánh thành Phật. Ai tu lại không muốn thành Phật, nhưng muốn thành Phật thì phải tin nhận tâm của mình, tin nhận tâm của mình thì phải không hai. Tóm lại, chủ yếu của người tu muốn được thành Phật thì phải đừng bị vọng tưởng dẫn dắt. Nếu để vọng tưởng dẫn dắt thì không bao giờ tin nhận được ông Phật của mình.
Trong Chứng Đạo Ca, Thiền sư Huyền Giác cũng dạy:
Thể nhược hư không vô nhai ngạn,
Bất ly đương xứ thường trạm nhiên,
Mích tức tri quân bất khả kiến.
“Thể nhược hư không vô nhai ngạn” là Tâm thể giống như hư không, không có bờ mé. Đoạn trên nói “viên đồng thái hư” là tròn đồng thái hư, không thiếu không dư, ở đây Ngài nói thể đó như hư không, không bờ mé. Làm sao sống được, biết được cái thể đó?
“Bất ly đương xứ thường trạm nhiên” nghĩa là không rời ngay chỗ này, mà thường lặng lẽ. Trong cái lặng lẽ đó có ông Phật hiện tiền, đâu phải chạy tìm nơi nào. Vì thế nên nói: “Mích tức tri quân bất khả kiến”, khởi niệm tìm tức là không bao giờ thấy được ông Phật. Ngồi an lặng lẽ thì ông Phật hiện tiền, vừa dấy niệm tìm thì mất ngay. Chính chỗ đó mới thấy Tâm thể của chúng ta trùm khắp, còn vọng tưởng thì giới hạn tạm bợ. Ví dụ chúng ta nghĩ về người thì vọng tưởng chỉ giới hạn trong con người, nghĩ tới cây thì vọng tưởng chỉ duyên theo bóng của cây. Nó có tướng giới hạn và tạm bợ mà chúng ta cho là mình, còn Tâm thể trùm cả hư không, chưa bao giờ sanh diệt lại bỏ quên. Đó là điều thật đáng thương, bỏ cái chân thật chạy theo cái hư dối, hài lòng với cái hư dối để rồi lăn lộn trong dòng luân hồi sanh tử! Vì thế chư Phật, chư Tổ thương xót mới ra đời chỉ cho chúng ta cái chân thật.
Phật Tổ thương chỉ cho chúng ta cái chân thật, nhưng chúng ta không chịu làm đúng như lời Phật Tổ dạy. Vậy Phật Tổ phụ mình hay mình phụ Phật Tổ? Nhiều người cứ nghĩ Phật bỏ mình, nhưng Phật bỏ mình hay mình bỏ Phật? Như thế mới thấy chúng ta quí kính Phật nhưng vô tình lại bỏ rơi Phật, phụ công ơn Phật. Điều Phật chỉ dạy chúng ta không màng, không cố gắng thực hiện, lại bỏ qua để rồi sống trong sự cuồng loạn của mình. Như vậy đáng khen hay đáng chê? Thật là những chúng sanh mê muội đáng thương, đáng trách. Mê muội quá lắm!
Chúng ta hiểu đạo là để tu, chớ không phải hiểu để nói. Làm sao ứng dụng được những điều Phật Tổ dạy để trở lại với Tâm chân thật của mình. Thân này là tứ đại hòa hợp, tâm vọng tưởng là duyên theo bóng dáng sáu trần, cái gì họp thì cái đó phải tan, cái duyên theo bóng dáng là hư dối. Cái sẽ tan, cái hư dối mà chấp là thật, là mình; còn cái chưa bao giờ mất, chưa bao giờ diệt, trùm cả hư không, chúng ta lại bỏ quên. Đúng như trong kinh Pháp Hoa nói là cùng tử, lẽ ra nhận mình là con ông trưởng giả thì kho báu đầy nhà mặc tình hưởng, nhưng không chịu nhận lại cam đi hốt phân để sống qua ngày. Qua hình ảnh đó chúng ta mới thấy sự điên cuồng của mình. Có một cái chân thật được quyền hưởng trọn vẹn nhưng không chịu hưởng, đi nhận một cái hết sức tầm thường và hài lòng như vậy. Thật là đáng thương! Như người ăn một mâm cơm đầy đủ cao lương mỹ vị, mới nhìn thấy sang, thấy ngon nhưng ăn quá no những thức ăn khó tiêu dễ sanh đau bụng. Sau đó thấy khổ, tiêu hóa ra cũng hôi thối, vậy mà hài lòng, quí trọng, thật là khờ dại, còn cái chân thật thanh tịnh sẵn có lại bỏ quên!
Chúng ta tu cốt phải trở về cái chân thật đó, sống được với cái chân thật mới là biết đạo, biết tu. Trái lại chạy theo bóng dáng bên ngoài dù hay bao nhiêu cũng chỉ là ảo ảnh thôi, không phải cái chân thật. Như thế chủ yếu người tu Phật phải tin nhận nơi mình có cái chân thật, đó là Chân tâm hay Phật tánh. Để kết luận, tôi dẫn bài kệ của cư sĩ Bàng Uẩn:
Đản tự vô tâm ư vạn vật,
Hà phòng vạn vật thường vi nhiễu.
Thiết ngưu bất phạ sư tử hống,
Kháp tợ mộc nhân khán họa điểu.
Mộc nhân bản thể tự vô tình,
Họa điểu phùng nhân diệc bất kinh.
Tâm cảnh như như chỉ giá thị,
Hà lự Bồ-đề đạo bất thành.
Dịch:
Chỉ tự vô tâm cùng vạn vật,
Ngại gì vạn vật thường quấy nhiễu.
Trâu sắt chẳng sợ sư tử rống,
Giống như người gỗ xem chim vẽ,
Người gỗ bản thể tự vô tình,
Chim vẽ gặp người cũng chẳng kinh.
Tâm cảnh như như chỉ thế ấy,
Nào sợ Bồ-đề đạo chẳng thành.
“Chỉ tự vô tâm cùng vạn vật”, vô tâm là vô tâm nào? Vô cái tâm vọng tưởng điên đảo. Chỉ vô tâm cùng vạn vật nghĩa là không có tâm điên đảo chạy theo muôn vật thì ngại gì vạn vật thường quấy nhiễu, ngại gì mà phải than cái này, cái kia vây quanh, tôi tu không được! Như vậy tại các duyên hay tại mình có tâm với nó? Ví dụ có một vật quí để trước mắt chúng ta, nó là nó, mình là mình. Đâu phải tại nó mà mình tu không được, tại dấy niệm tham nên tu không được, chớ vật quí là vật quí, mình là mình, đừng dấy niệm tham thì có gì tu không được? Đến những tiếng khen, tiếng chê, khi qua mất rồi, chúng ta đừng quan trọng nó, đừng dính thì có gì mà tu không được. Nhưng được người khen thì nhớ hoài, bị chê thì giận mãi, như vậy tu không được là tại chúng ta duyên theo nó. Nếu xem nó như gió thổi, như pháo nổ, qua rồi thôi thì có gì tu không được. Chúng ta tu không được là tại hữu tâm với vạn vật. Thấy cái gì cũng cột, cũng nắm rồi đổ thừa tại vật này, việc kia lăng xăng làm tôi tu không được. Thử hỏi trên thế gian này, nơi nào không có những điều lăng xăng? Chỉ ta đừng chạy theo nó thì hết lăng xăng, nên Bàng Uẩn thốt ra hai câu: Chỉ tự vô tâm cùng vạn vật, ngại gì vạn vật thường quấy nhiễu. Vạn vật không quấy nhiễu chúng ta, nếu chúng ta không có tâm với nó, trái lại nếu có tâm với nó thì nó quấy nhiễu mình.
Ngài lại dùng thí dụ con trâu sắt không sợ sư tử rống. Thường sư tử rống lên thì trâu hay voi gì cũng chạy cả, nhưng nếu gặp trâu sắt thì nó không sợ nên không chạy. Đến thí dụ thứ hai, giống như người gỗ xem chim vẽ. Người gỗ đứng nhìn chim vẽ thì cả hai như thế nào? Ngài nói người gỗ bản thể tự vô tình, chim vẽ gặp người cũng chẳng kinh. Người gỗ đâu có tình, chim vẽ thấy người gỗ cũng không sợ. Ba hình ảnh: con trâu sắt, người gỗ, chim vẽ, cả ba đều không sợ ai hết. Tại sao? Tại nó vô tình, vô tâm.
Chúng ta hiện nay cũng vậy, nếu vô tâm với vạn vật, thì không vật nào quấy nhiễu mình được cả. Thế nên Ngài kết thúc bằng hai câu: “Tâm cảnh như như chỉ thế ấy”, tức là đối cảnh mà tâm như như không chạy theo, thì “nào sợ Bồ-đề đạo chẳng thành”, nếu tâm mình không chạy theo cảnh thì đừng lo không thành đạo Bồ-đề. Sở dĩ chúng ta không thành đạo Bồ-đề là vì tâm chạy theo cảnh. Trái lại nếu tâm không chạy theo cảnh thì tâm cảnh như như, đạo Bồ-đề hiện tiền, chớ tìm ở đâu nữa.
Tóm lại, chư Phật, chư Tổ đều chỉ rõ yếu điểm tu hành cho chúng ta. Yếu điểm đó là tâm đừng chạy theo cảnh, khi tâm không chạy theo cảnh thì tâm cảnh như như, tâm cảnh như như thì đạo Bồ-đề hiện tiền, dù không muốn thành Phật thì Phật cũng hiện trước mắt. Trái lại, nếu chúng ta cứ mong tìm mà tâm cứ động mãi thì không bao giờ thấy Phật. Thế nên, tôi mong tất cả Tăng Ni, Phật tử qua năm mới này đều nỗ lực cố gắng tu hành, đừng để tâm chạy theo cảnh. Tâm và cảnh được như như đó là không cô phụ công ơn Phật Tổ và các vị thiện tri thức chỉ dạy chúng ta. Như vậy mới xứng đáng là con dòng họ Thích, mới không hổ thẹn xưng ta là Thích tử. Trái lại nếu chúng ta cứ để tâm rong ruổi theo vọng cảnh thì dù có thương Phật thế mấy cũng khó gặp Phật được. Vậy mong rằng tất cả chúng ta đều nỗ lực để mỗi ngày mỗi ngày gần được Phật và một ngày nào đó thì viên mãn sống với Phật chớ không còn quên, không còn bỏ sót nữa.
PHẬT PHÁP THIẾT THỰC, HIỆN TẠI,
KHÔNG CÓ THỜI GIAN, ĐẾN ĐỂ MÀ THẤY...
Xuân Bính Dần - 1986
Nhân ngày Tết Nguyên Đán, chúng tôi có ít lời với quí Tăng Ni và Phật tử về đề tài hơi dài một chút để ứng dụng trong việc tu hành là: Phật pháp thiết thực, hiện tại, không có thời gian, đến để mà thấy...
Phần đông chúng ta có quan niệm sai lầm về đạo Phật, thường nghĩ rằng đạo Phật nói những điều gì huyền bí cao siêu, khó hiểu, khó thấy, nhưng không ngờ đạo Phật lại rất thực tế, là mời chúng ta “đến để mà thấy”. Đầu đề này không phải tự ý tôi nêu lên, đây là tôi dẫn trong Tăng Chi Bộ Kinh.
Thời Phật tại thế, có một ngoại đạo tên Sivaka đến hỏi: “Phật pháp là thiết thực, hiện tại, không có thời gian, đến để mà thấy..., như vậy làm sao chứng minh được nghĩa đó?” Đức Phật trả lời: “Nếu nội tâm có tham, ông có biết ‘nội tâm ta có tham’; nội tâm không có tham, ông có biết ‘nội tâm ta không có tham’ chăng?” Ông Sivaka thưa: “Thưa có.” Phật bảo: “Này Sivaka, nội tâm có tham, ông có biết ‘nội tâm ta có tham’, nội tâm không có tham, ông có biết ‘nội tâm ta không có tham’. Như vậy này Sivaka ‘pháp là thiết thực, hiện tại, không có thời gian, đến để mà thấy’...” Nghe lời Phật dạy chúng ta nghĩ thế nào? Nếu nội tâm tham, ta biết nội tâm có tham, nội tâm không tham, ta biết nội tâm không tham. Nội tâm có tham là có khổ, nếu dứt lòng tham của nội tâm thì hết khổ. Thế là pháp Phật dạy chúng ta tu như thế nào? Khổ là do nội tâm có tham, muốn hết khổ thì phải dùng phương pháp tiêu diệt lòng tham. Nội tâm hết tham thì thân này sẽ hết khổ. Pháp Phật dạy rất thiết thực. Nó không có thời gian nghĩa là mình có tham biết có tham, khi hết tham biết hết tham, có thì biết có, không thì biết không, biết rõ ràng không đợi thời gian. Người tu Phật đến để mà thấy, do mình thấy có tham, rồi cũng do mình thấy hết tham. Đó là sự thật do mình thấy được, chớ đâu phải do lòng tin. Đến để mà thấy thì đâu có đặt lòng tin lên trên. Chúng ta thấy rõ “Phật pháp là thiết thực, hiện tại, không có thời gian, đến để mà thấy...”
Bởi có tham nên có khổ, bởi có khổ nên bây giờ chúng ta tu để diệt lòng tham. Khi lòng tham hết rồi thì chúng ta cũng hết khổ. Đó là một lẽ thật cụ thể không có nghi ngờ gì nữa. Chính chúng ta nhận biết ngay nơi nội tâm mình, không có người thứ hai chen vào biết thay ta được. Chúng ta có nên đi coi đồng, coi bóng, soi căn, soi cơ, coi tu chừng nào hết khổ hay không? Chính vì mình biết rõ ràng có tham là có khổ, hết tham là hết khổ, không do ai biết thế mình được, nên nói: “Phật pháp là thiết thực, là không có thời gian, là đến để mà thấy.”
Đến phần thứ hai Phật nói thêm: “Nội tâm có sân, ông có biết ‘nội tâm ta có sân’, nội tâm không sân, ông có biết ‘nội tâm ta không sân’. Như vậy này Sivaka pháp là thiết thực, hiện tại, không có thời gian, đến để mà thấy...” Khi nổi sân, ta có thấy “ta nổi sân” không? Khi tu hết sân, ta có thấy “ta hết sân” không? Có sân là có khổ, vì sân thì tạo cảnh khổ. Hết sân thì hết khổ. Như vậy “Phật pháp là thiết thực, hiện tại, không có thời gian, đến để mà thấy” chớ không phải chuyện vu vơ ở đâu.
Phật nói tiếp: “Nội tâm có si, ông có biết ‘nội tâm ta có si’, nội tâm không si ông có biết ‘nội tâm ta không si’ v.v...” Cuối cùng Phật nói: “Nội tâm có tham pháp, có sân pháp, có si pháp, ông có biết: ‘nội tâm ta có tham pháp, có sân pháp, có si pháp’ v.v... Như vậy này Sivaka, ‘pháp là thiết thực, hiện tại, không có thời gian, đến để mà thấy’...”
Qua bài kinh trích dẫn rất ngắn đó, chúng ta thấy rõ ràng Phật pháp là thiết thực, hiện tại, không có thời gian, đến để mà thấy, chớ không phải chuyện viển vông gì. Đức Phật chỉ thẳng việc tu của Tăng Ni và toàn thể Phật tử là thiết thực, chúng ta tu được bao nhiêu thì thấy rõ bấy nhiêu. Ngày xưa khi gặp những việc trái tai gai mắt chúng ta nổi sân, cãi nhau, đánh nhau v.v... tạo bao nhiêu điều khổ! Bây giờ biết tu rồi giảm sân, dù gặp những việc trái tai gai mắt nhưng lòng mình không sân, mình biết rõ ràng là mình không sân, không sân thì không khổ. Phật pháp cốt chỉ chúng ta tu để diệt khổ trong hiện tại, tu được bước nào là biết kết quả của bước ấy, đó là chuyện cụ thể rõ ràng. Vì chúng ta thiếu nhận định sáng suốt nên đâm ra mơ màng vu vơ...
Thật đáng thương cho bao nhiêu người học Phật mà không ứng dụng đúng tinh thần đạo Phật. Khi gặp việc khổ cứ lo tụng cầu mãi, thử hỏi bao giờ hết khổ. Khi gặp tai nạn cứ lo tụng cầu an, cầu an như vậy có bảo đảm hết tai nạn hay không? Làm cứ làm mà không biết kết quả ra sao! Đức Phật đã dạy rõ ràng nếu mình bỏ được cái dở nào thì có kết quả ngay cái đó. Chúng ta thấy giá trị Phật pháp đúng là một lẽ thật, không phải là chuyện xa xôi huyền ảo. Quả là “Phật pháp là thiết thực, hiện tại, không có thời gian, đến để mà thấy...”.
Đức Phật còn dạy chúng ta về lý vô thường. Con người và tất cả sự vật đều vô thường, đó là một sự thật không thể chối cãi được. Ở thế gian này có gì tồn tại mãi mãi, không đổi dời đâu? Cái gì rồi cũng bị đổi thay, cũng bị luật vô thường chi phối. Vô thường là một lẽ thật trước mắt, ai ai cũng thấy, cũng chứng nghiệm được. Như vậy có phải Phật pháp thiết thực, đến để mà thấy... chăng?
Đức Phật dạy các pháp do nhân duyên sanh. Tỉ dụ cái nhà tự nó có hay do nhiều nhân tố hợp lại? Cái bàn tự nó có, hay do nhiều nhân tố khác hợp thành? Không có vật nào tự nó thành hình, mà phải nhiều nhân tố hợp lại mới thành. Như vậy lý duyên sanh là một lẽ thật cụ thể. Nói nhân duyên sanh tức là nói nhiều nhân tố hợp lại. Do nhân duyên hợp, cho nên mới phân tích được đây là nhân tố A, đây là nhân tố B, C... Do nhiều nhân tố A, B, C... hợp lại mới thành một vật thể. Những vật thể có hình, có tướng là do sự kết hợp của nhiều nhân tố, đó là thực tế, đó là hợp với khoa học. Vì sao chúng ta nói khoa học là thực tế mà lại cho Phật học là huyền bí viển vông? Chính Phật học có tinh thần khoa học rõ ràng, thật đúng khi nói: “Phật pháp thiết thực, hiện tại, không có thời gian, đến để mà thấy...”
Xa hơn nữa, đi vào giáo lý Đại thừa hay đi thẳng vào Thiền tông, chúng ta sẽ thấy Phật pháp càng thiết thực hơn. Thường người ta hay phê phán “Đại thừa nói chuyện trên trời, trên mây”. Nhưng sự thật giáo lý Đại thừa rất là thiết thực. Trong Thiền tông mỗi khi các vị đi tham cứu du học, các Thiền sư thường bảo rằng: “Hãy nhìn lại gót chân của các ông.” Việc ở dưới gót chân là gần hay xa? Chỉ ở gần một bên thôi mà chúng ta quên. Cho nên khi học Phật nếu không có một cái nhìn thấu đáo thì dễ bị lạc lầm. Những ngôn ngữ, những danh từ của giáo lý Đại thừa hay Thiền tông có vẻ huyền bí khó hiểu, khiến chúng ta nhận lầm. Những câu chuyện trong kinh điển Đại thừa như kinh Pháp Hoa, kinh Lăng Nghiêm rất là thiết thực, chỉ thẳng ngay nơi con người mình cái thiết thực cụ thể mà ngàn đời ta quên, đó là “Phật tại tâm”, đâu có xa xôi gì, đâu phải Phật ở trên trời trên mây! Nhưng vì chỉ một cái không hình, không tướng nên chúng ta khó hiểu khó nhận.
Hằng ngày chúng ta nghĩ tới ăn, nghĩ tới mặc, nghĩ tới ở, ăn mặc ở để làm gì? Để nuôi dưỡng thân này cho sống còn. Nhưng có một cái thiết thực hơn ăn, hơn mặc, hơn ở mà chúng ta có nhớ có lo cho nó bao giờ đâu! Đó là cái gì? Đó là hơi thở. Thiếu ăn mấy ngày mới chết, còn thiếu thở chừng bao lâu thì chết? Chỉ cần thở khì ra mà không hít vào là chết ngay! Vậy mà chúng ta có lo nghĩ đến nó bao giờ! Có khi nào chúng ta nhớ mình đang thở không? Đâu có nhớ. Vì nó sẵn quá nên chúng ta quên, chỉ nghĩ làm sao kiếm những thức ăn cho ngon miệng, những vị có xúc cảm mạnh ở lưỡi, còn cái thực tế cụ thể sẵn sàng không rời một phút giây nào, chúng ta lại quên. Hơi thở đối với mạng sống này là thiết yếu số một, còn việc uống ăn mặc ở là thứ yếu, vậy mà chúng ta nhớ cái thứ yếu, còn cái chánh lại quên đi. Có người nào nói tôi tập thở cho đều, cho dài, cho nhẹ không? Không có đâu! Cả ngày cứ xoay trở trong việc ăn, mặc, ở mà không bao giờ nghĩ đến hơi thở.
Cũng vậy, hiện giờ chúng ta cứ nghĩ việc này phải, việc kia quấy, cái này tốt, cái kia xấu v.v... nghĩ hoài những chuyện bên ngoài, còn cái chân thật ngay nơi mình, không bao giờ chúng ta nhớ tới. Bởi chúng ta không nhớ nên chư Tổ phải nhắc đi nhắc lại mãi đến khô môi đắng lưỡi.
Đến đây chúng tôi dẫn các câu chuyện trong Thiền tông để chúng ta thấy điểm đặc biệt của các Tổ. Các ngài chỉ cho ta thấy cái thực tế cụ thể trước mắt. Thiền sư thường hay nói: “Cái đó ở trước mặt mà mình không thấy.” Thí dụ như lỗ mũi ở trước mặt mà mình có thấy nó đâu, có bao giờ để ý đến nó. Chúng ta cứ lo thấy nhà, thấy cửa, thấy người, thấy vật, mà lỗ mũi nằm sát trước mặt lại không thấy. Cũng như vậy cái chân thật hiện hữu ngay nơi mình mà mình không nhớ, chỉ nhớ chuyện đâu đâu.
Thiền sư Bá Trượng khi còn làm Thị giả cho Mã Tổ, Mã Tổ và Ngài đi dạo vườn, thấy một bầy vịt trời bay ngang, Mã Tổ hỏi: “Cái gì đó?” Ngài thưa: “Dạ bầy vịt trời.” Mã Tổ hỏi: “Bay đi đâu?” Ngài đáp: “Bay qua mất rồi.” Mã Tổ nắm lỗ mũi Ngài vặn mạnh một cái đau điếng, Ngài la thất thanh, Mã Tổ bảo: “Sao không nói bay qua mất đi!” Ngay đó ngài Bá Trượng tỉnh ngộ. Đây là một câu chuyện rất lý thú trong nhà thiền.
Đến câu chuyện con rắn bắt con nhái, con nhái kêu ẹo ẹo, ngài Cảnh Thanh hỏi Thị giả: “Đó là tiếng gì?” Thị giả thưa: “Đó là tiếng rắn bắt nhái, con nhái kêu.” Ngài bảo: “Chúng sanh khổ, lại có khổ chúng sanh.” Ý Ngài muốn nói gì? Ngài muốn nói chúng ta chỉ nghe tiếng bên ngoài mà quên cái hay nghe của mình. Cũng như câu chuyện bầy vịt trời bay qua, chúng ta chỉ thấy cái bay qua bay lại, còn mất bên ngoài mà quên cái hiện hay thấy của mình, cho nên Mã Tổ vặn mũi ngài Bá Trượng một cái đau điếng, Ngài la thất thanh, Tổ chỉ nói nhẹ một câu: “Sao không nói bay qua mất đi.” Ngay đó ngài Bá Trượng thấy không mất. Như vậy chúng ta mới thấy đặc tài của các Thiền sư, các ngài chỉ một cái thật sẵn có nơi mình, lỗ mũi ở trước mắt mà không thấy, cũng như cái đó hiện hữu nơi mình mà không bao giờ nhớ, nên Tổ nắm lỗ mũi ngài Bá Trượng vặn một cái thì Ngài liền tỉnh ngộ, biết được cái hiện hữu của mình, cũng như lỗ mũi ở trước mắt vậy.
Chúng tôi dẫn thêm một câu chuyện để chúng ta biết rõ ý nghĩa cái lỗ mũi trong nhà thiền. Thiền sư Tuyệt Chiêu đi xa về, Ngài đăng tòa nói kệ:
Tương biệt nhất hà cửu,
Tương phùng chỉ cựu thời,
My mao phân bát tự,
Tỹ khổng đại đầu thùy.
Dịch:
Xa nhau chẳng lâu mấy,
Gặp nhau chỉ thuở xưa,
Lông mày hình chữ bát,
Duỗi xuống mũi đầu to.
Theo chữ Hán đôi lông mày hở ở giữa, tượng trưng chữ “bát”, còn lỗ mũi đầu thon nằm trên, đầu lớn duỗi xuống. Như vậy lẽ thật không xa, cũng như chân mày và lỗ mũi ở gần bên nhau vậy.
Xa nhau chẳng lâu mấy, xa nhau là thân này, là tướng mạo này. Gặp nhau chỉ thuở xưa, cái chân thật thì trùm khắp, có xa gì nhau. Lông mày hình chữ bát, duỗi xuống mũi đầu to, giống như cặp chân mày ở trên lỗ mũi. Như vậy chân mày gần kề bên lỗ mũi đâu có xa xôi gì. Lỗ mũi là tượng trưng cho cái chân thật hiện hữu trước mắt mà mình không nhận.
Trong bài tụng Vô Tướng của Lục Tổ:
Phật pháp tại thế gian,
Bất ly thế gian giác,
Ly thế mích Bồ-đề,
Kháp tợ tầm thố giác.
Phật pháp ngay trên thế gian, không thể lìa thế gian mà có sự giác ngộ. Lìa thế gian mà tìm giác ngộ chẳng khác nào như tìm sừng thỏ vậy. Sừng thỏ đâu có thật mà tìm. Giác ngộ của đạo Phật là giác ngộ ngay trên thế gian này, không phải tìm kiếm đâu xa. Ví dụ đứng trước căn nhà sụp đổ, nhớ lại lúc trước nhà này đẹp đẽ xinh xắn biết bao, mà giờ đây hư nát, chúng ta liền giác ngộ được lý vô thường. Lý vô thường hiện hữu ngay nơi căn nhà đổ nát, hiện hữu ngay nơi các pháp trong thế gian này. Tất cả những đạo lý nhà Phật đều là những cái hiện thực ở thế gian, chớ không phải chuyện xa xôi, nhưng cái thật đó người mê thấy khác, người ngộ thấy khác. Người mê thấy theo tình cảm riêng tư, còn người ngộ thấy được lý thật của sự vật. Cho nên tất cả pháp thế gian, pháp nào cũng là để giác ngộ. Từ cái nhà chúng ta giác ngộ được lý vô thường, từ cái nhà chúng ta giác ngộ được lý nhân duyên, từ cái nhà chúng ta thấy rõ các pháp đều là hư dối.
Vì mê lầm nhiều đời, cho nên cùng một sự việc mà chúng ta thấy cảm kích nhè nhẹ, còn những vị tâm trí bén nhạy lại cảm động mạnh, bởi cảm động mạnh nên giác ngộ ngay. Vì vậy những vị tu chứng quả Tu-đà-hoàn hay Tư-đà-hàm nếu kiếp chót các ngài ra đời mà không gặp Phật pháp, thì khi thấy một chiếc lá rụng các ngài cũng có thể ngộ đạo. Còn chúng ta đã thấy biết bao nhiêu lá rụng mà có giác ngộ đâu! Vì sao? Vì tâm các ngài nhẹ nhàng thanh tịnh nên gặp một cái động nhỏ cũng giác ngộ. Còn chúng ta hiện giờ tâm trí đen tối nên cọ xát mạnh cũng không sáng nổi, nói gì là chạm nhẹ! Cho nên trong kinh Lăng Nghiêm, đức Phật nói với ngài A-nan: “Như Lai án túc hải ấn phát quang, nhữ nhược cử tâm trần lao tiên khởi.” Như Lai chỉ ấn ngón chân xuống, cả biển phát ra ánh sáng, ông vừa dấy niệm, bụi bặm đầy trời! Như vậy mới thấy sự khác nhau giữa đôi bên, một bên thanh tịnh rồi nên hành động nào cũng sáng suốt, một bên còn u mê nên hành động nào cũng mờ tối. Chúng ta u mê là vì huân tập nhiều đời, thật ra ở trên thế gian này nếu sớm tỉnh giác thì biết bao nhiêu việc để chúng ta giác ngộ.
Đức Phật ngày xưa chỉ cần đi ra bốn cửa thành, thấy người già, người bệnh, người chết, khi trở về Ngài liền đi tu, còn chúng ta hiện nay thấy bao nhiêu người già, người bệnh, người chết mà chúng ta có muốn tu chưa? Người tâm hồn nhẹ nhàng trong sáng chỉ một việc nhỏ cũng dễ cảm kích, còn chúng ta thấy việc đau khổ nhan nhản trước mắt, rồi cũng quên đi. Tỉ dụ như khi đưa đám tang một thân nhân, chúng ta khóc lóc đau buồn, nhưng năm ba hôm rồi quên, vì bận công kia việc nọ. Cho nên những việc đáng cho mình giác ngộ mà mình không giác được, còn các ngài ngay đó liền giác ngộ. Đâu phải tìm chuyện trên trời trên mây mới giác ngộ, mà ngay trong hiện tại nếu chúng ta khéo nhận thì được thức tỉnh liền. Như vậy giác ngộ là ngay nơi thế gian, chớ không phải ở đâu khác. Những chuyện sanh già bệnh chết là ngay nơi thế gian này. Lẽ vô thường và tướng duyên hợp là hiện tiền ngay nơi thế gian này, chúng ta thấy rõ mà chóng quên đi. Việc sai lầm đó là chính nơi chúng ta vậy.
Ngài Bổn Như ở Phần Chiêu đến tham vấn Tôn giả Pháp Trí. Ngài thường nghe trong kinh nói “kinh này là vua của các kinh”, tỉ dụ kinh Kim Cang, kinh Pháp Hoa chẳng hạn nói là vua các kinh. Ngài đem câu đó hỏi Tôn giả. Hỏi: “Thế nào là vua các kinh?” Tôn giả bảo: “Ông làm Tri khố cho ta ba năm, ta sẽ vì ông mà nói.” Một câu hỏi dễ như vậy mà phải làm Tri khố ba năm. Ngài Bổn Như lãnh chức Tri khố. Mãn ba năm, Ngài đến thưa: “Bạch Hòa thượng con đã làm Tri khố mãn ba năm rồi, nay xin Hòa thượng nói.” Hòa thượng liền gọi: “Bổn Như”, Ngài “dạ”. Ngay đó Ngài liền ngộ, biết vua của các kinh. Chuyện này là gần hay xa? Chỉ cần một tiếng “dạ” là thấy được. Việc hết sức gần mà muôn đời chúng ta quên. Bởi muôn đời quên, nên một lần nhắc lại liền thấy. Mới nhìn qua chúng ta thấy người xưa dường như khó khăn, một câu hỏi mà không chịu trả lời liền, bắt phải làm Tri khố đến ba năm. Nhưng chính ba năm này nó súc tích làm cho ngài Bổn Như thấy câu đó quan trọng. Về sau chỉ cần gọi, rồi “dạ” liền biết được vua các kinh. Khi ngộ rồi, Ngài liền làm bài kệ:
Xứ xứ phùng qui lộ,
Đầu đầu thị cố hương,
Bản lai thành hiện sự,
Hà tất đãi tư lương.
Dịch:
Chốn chốn đường về cũ,
Nơi nơi vốn cố hương,
Xưa nay thành hiện sự,
Nào phải đợi suy lường.
Chốn nào cũng là đường về, nơi nào cũng là cố hương, xưa nay nó là việc hiện tại. Không phải đợi suy lường, vừa suy lường là hết hiện sự rồi. Chúng ta thấy cái ngài Bổn Như “dạ” rồi ngộ đạo, biết được vua các kinh không? Tu hành không phải là chuyện xa xôi, chỉ ngay nơi tai, ngay nơi mắt, nếu khéo nhận, chúng ta thấy được cái căn bản, nếu không khéo sẽ đuổi theo ngoại cảnh suốt đời, bỏ quên đi cái chân thật ngay nơi chính mình. Thế nên người xưa chỉ một câu nói mà ngộ đạo.
Đọc qua bài kệ, chúng ta thấy nó cụ thể làm sao. Chốn chốn đường về cũ, chỗ nào không phải đường về. Nơi nơi vốn cố hương, cố hương ở khắp mọi nơi, không phải ở riêng ngọn núi hay hang động nào mà chỗ nào cũng là cố hương! Như vậy chỗ nào không phải là Phật pháp? Nếu chúng ta khéo thì ngay đó liền thấy. Xưa nay thành hiện sự, quá khứ và hiện tại đều là cái hiện hữu ở đây, không ở đâu xa. Nào phải đợi suy lường, vừa khởi suy lường là không trúng, là không thấy. Đó là điều cụ thể mà chúng ta cần phải nhận thấy.
Đối với Phật pháp, các Thiền sư luôn luôn chỉ lẽ thật, nhưng lẽ thật các ngài chỉ hơi khó hiểu hơn bên giáo lý Nguyên thủy. Nguyên thủy chỉ những cái cụ thể như lý nhân duyên, lý vô thường, vô ngã, còn Thiền tông chỉ cái chân thật tàng ẩn trong cái hư dối, nhưng chúng ta quen nhìn cái hư dối mà quên đi cái chân thật. Nếu nhận được cái chân thật thì cụ thể hơn ngàn lần cái hư dối kia. Cho nên chúng ta tu cốt làm sao tinh tấn để nhận được cái chân thật đó. Chúng tôi dẫn những câu chuyện trên để chúng ta thấy “Phật pháp là thiết thực, hiện tại, không có thời gian, đến để mà thấy...”
Những giáo lý Tiểu thừa cho đến Đại thừa và Thiền tông đều là thực tế, cụ thể, chớ không phải là chuyện xa xôi, nhưng cái cụ thể này rất khó nói, khó chỉ. Ví dụ có người hỏi “núi ở chỗ nào”, “biển ở chỗ nào”, chúng ta dễ chỉ. Nhưng nếu hỏi “không khí ở chỗ nào”, làm sao chỉ được! Mà chỉ không được là không có không khí hay sao? Chỉ những cái có hình tướng thì dễ thấy, còn cái hiện hữu mà không hình tướng thì rất khó thấy. Tuy khó thấy nhưng nó thiết yếu bằng mấy ngàn lần cái có hình tướng. Thiền tông chỉ cái rất khó chỉ, nhưng cái ấy rất thiết yếu trong cuộc sống của con người, nên nói Thiền tông chỉ cho chúng ta ngọc báu vô giá mà lâu nay chúng ta bỏ quên. Đến đây chúng tôi đã chứng minh rõ “Phật pháp là thiết thực, hiện tại, không có thời gian, đến để mà thấy...”
Hôm nay là ngày Tết Nguyên Đán, chúng tôi chúc quí vị được nhiều điều tốt đẹp. Và để thay lời kết chúng tôi dẫn bài thơ của Thiền sư Chơn Tịnh đời Tống. Sáng mồng một Tết Ngài cạo tóc, cảm hứng làm kệ:
Thế phát nhân kinh tuyết mãn đao,
Niên hoa tu tín bất tương nhiêu.
Đào sanh thoát tử cần vi Phật,
Mạc vị minh triêu dữ hậu triêu.
Dịch:
Cạo tóc giựt mình tuyết đầy dao,
Tuổi xuân nên biết chẳng tha nhau.
Vượt sanh thoát tử cần làm Phật,
Thôi chớ dần dà hẹn sáng sau.
Sáng ngày cạo tóc, giựt mình thấy tóc bạc như tuyết dính đầy dao. Các vị lớn tuổi tóc bạc, mỗi khi cạo tóc giựt mình thấy tuyết đầy dao! Tuổi xuân có để cho mình còn mãi như vậy đâu. Thời gian ép ngặt đuổi ta chạy, giành cái tuổi xuân mất rồi. Muốn vượt sanh thoát tử, thôi không nên hẹn sáng, hẹn chiều, hẹn ngày mai, ngày mốt. Lẽ ra chúng ta phải tu ngay bây giờ không nên biếng nhác, không nên chần chờ vì tuổi xuân của mình đã bị cướp mất rồi, mà mục tiêu làm Phật chưa đạt được. Phải tu ngay trong từng phút giây mới đúng với lý tưởng vượt sanh thoát tử, xứng đáng với lý tưởng cần làm Phật của mình.
Nhân mùa Xuân đến, chúng tôi chúc tất cả Tăng Ni cùng toàn thể Phật tử nam nữ trong năm Bính Dần này và mãi mãi về sau “giờ nào, ngày nào, tháng nào, năm nào cũng là giờ ngày tháng năm tu hành, đừng có chần chờ”.
SÁNG VIỆC LỚN
Tất niên Bính Dần - 1987
Hôm nay là ngày Tất niên năm Bính Dần, bắt đầu sang năm Đinh Mão, tất cả chúng ta phải ôn lại việc cũ để chừa bỏ những điều dở và chuẩn bị cho năm tới được tốt đẹp sáng sủa hơn. Đó là bổn phận của tất cả Tăng Ni và Phật tử chúng ta.
Đề tài chúng tôi nói hôm nay nghiêng về người xuất gia, nếu là cư sĩ quí vị cũng lấy đây làm kinh nghiệm, còn Tăng Ni thì phải cố gắng thực hiện cho kỳ được những gì tôi nhắc nhở.
Ngài Trần Tôn Túc, đệ tử lớn của Tổ Hoàng Bá, Sư huynh của Tổ Lâm Tế có nói:
Đại sự vị minh như táng khảo tỷ,
Đại sự dĩ minh như táng khảo tỷ.
Việc lớn chưa sáng như đưa ma mẹ,
Việc lớn đã sáng như đưa ma mẹ.
Đây là câu mà tất cả Tăng Ni và Phật tử phải nghiền ngẫm để ứng dụng cho xứng đáng với tinh thần người tu. Tất cả chúng ta tu đều mong rằng một ngày nào sẽ sáng được việc lớn. Nếu việc lớn đã sáng, việc tu của chúng ta đã đủ, đã xong rồi hay chưa? Qua câu nói của ngài Trần Tôn Túc, chúng ta thấy rất rõ: Việc lớn chưa sáng, chúng ta phải cố gắng nỗ lực tiến tu để sáng. Nếu việc lớn đã sáng rồi không phải ngang đó chúng ta dừng lại mà còn phải tiếp tục nữa.
Cổ đức có nói:
Vị đáo vô tâm tu yếu đáo,
Ký đáo vô tâm vô dã hưu.
Chưa đến vô tâm cần phải đến,
Đã đến vô tâm, vô cũng thôi.
Khi chưa được vô tâm, chưa sáng được việc lớn, chúng ta cần phải tiến tu để được sáng, được vô tâm. Nhưng khi đã được vô tâm rồi, chữ “Vô” cũng thôi, chớ không phải vô tâm rồi ngay đó là đủ. Muốn khai triển đầy đủ ý nghĩa này, chúng tôi xin tuần tự nêu ra những điều dở những điều hay để tất cả Tăng Ni và Phật tử ứng dụng tu hành cho khỏi sai lầm.
Trước tiên chúng tôi nói các bệnh của người tu Phật hiện nay. Bệnh thứ nhất là khinh lờn. Người tu chúng ta khi mới bước chân vào đạo, cư sĩ cũng như xuất gia, lúc đầu phấn khởi hăng hái, coi như việc đạt đạo ở trước mắt, không xa. Nhưng qua năm thứ hai, năm thứ ba, những phấn khởi, những hăng hái buổi ban đầu giảm dần, rồi khinh lờn, rồi coi thường. Vì vậy người xưa thường nhắc: “Nhất niên Phật tại tiền, nhị niên Phật thăng thiên.” Nói theo Sư ông chúng tôi, Sư cụ Khánh Anh: “Tam niên Phật xa lơ xa lắc.” Năm đầu mới vào đạo, chúng ta thấy việc đạt đạo không khó, nhưng qua năm thứ hai năm thứ ba hay nhiều năm nữa, tinh thần phấn khởi hăng hái buổi ban đầu giảm xuống lần lần, rồi đạo càng ngày càng xa, nhất là trong giới tu sĩ. Người tu sĩ khi mới xuất gia có ý nguyện nhất định phải giải thoát ngay trong hiện đời. Nhưng khi xuất gia được vài ba năm hơi quen rồi, thỉnh thoảng cũng có chuyện hơn thua, chuyện phải quấy, tâm ban đầu yếu đi từ từ, có khi quá yếu đến nỗi bị rầy chê. Đó là vì chúng ta không giữ được tâm ban đầu. Phật Tổ thường dạy chúng ta phải nhớ tâm ban đầu. Nếu chúng ta giữ được nó thì đạo không xa, việc giải thoát không khó, còn quên thì đạo càng ngày càng xa, việc giải thoát càng ngày càng khó.
Trong kinh A-hàm, Phật có nói: Người mới xuất gia giống như cô dâu mới về nhà chồng, đối với cha mẹ chồng, chị em chồng, thảy đều quí nể, khép nép cung kính. Nhưng ở đôi ba năm có con cái rồi, đối với cha mẹ chồng coi không ra gì, ăn hiếp luôn chị em chồng, cả đến người chồng cũng không vị nể. Người tu cũng vậy. Khi mới vào đạo cạo tóc xuất gia, đối với Hòa thượng, Thượng tọa thì khép nép cung kính, đối với các Sư huynh thì nể nang dễ dạy. Nhưng ở đến một năm hai năm ba năm sau thấy các Hòa thượng, Thượng tọa có khi quên cúi đầu, cho đến khi sai bảo không vâng làm nữa. Vì bệnh khinh lờn này nên việc tu không tiến được. Vì vậy Phật bảo chúng ta phải nhớ tâm ban đầu.
Các kinh thường dạy: Các thầy Tỳ-kheo, mỗi sáng phải nhớ rờ đầu một lần. Rờ đầu để nhớ mình đã cạo tóc xuất gia, không còn nghĩ đến chuyện gì ở đời nữa, nếu không, lâu ngày rồi quên mình là người xuất gia. Phật dạy chúng ta phải nhớ trên đường tu đừng có niệm khinh lờn. Nếu có niệm khinh lờn thì ban đầu tu thấy tiến, nhưng sau rồi lùi, lùi cho tới không biết bao giờ tiến được nữa. Đó là bệnh thứ nhất của người tu.
Bệnh thứ hai là bệnh tự mãn. Tự mãn là được ít mà cho là đủ. Có những người tu học được ít bộ kinh, tụng được hai thời công phu, bái sám rành rẽ, coi như bao nhiêu đó là đủ cho mình làm Phật sự, rồi hài lòng tự mãn với cái mình đã được, lấy đó làm sở trường mà không cố gắng nỗ lực tiến tu. Như vậy tự khép mình trong phạm vi hẹp hòi để rồi chịu cả một đời tu không tiến nổi.
Thiền sư Thanh ở Dũng Tuyền dạy chúng rằng:
“Tôi ở trong đây bốn mươi chín năm còn có khi tẩu tác, các ông chớ nói to, người kiến giải thì nhiều, người hành giải thì ít, muôn người không có một. Kiến giải ngôn ngữ cần biết suốt, nếu thức tình chưa hết sẽ bảo đi trong luân hồi vậy.”
Ngài là một Thiền sư đã ngộ đạo, Ngài nói Ngài đã ở bốn mươi chín năm trên núi Dũng Tuyền còn có khi tẩu tác tức là tâm chạy bậy như trâu hoang, huống nữa là những người mới vào đạo một năm hai năm ba năm, coi như mình xong việc, ăn to nói lớn tưởng mình như là Thánh, đó là điều không nên. Ngài dạy: “Người kiến giải thì nhiều, người hành giải thì ít”, tức là người thấy hiểu thì nhiều mà hành được thì ít. Trong muôn người hiểu, chưa có được một người hành. Ngài nói như vậy, không phải cấm không cho chúng ta có kiến giải. Ngài dạy kiến giải ngôn ngữ cần phải biết suốt, phải thông nhưng nếu thức tình chưa hết sẽ đi trong luân hồi.
Người xưa biết được bệnh này nên nhắc nhở khiến chúng ta biết rõ trên đường tu không phải đơn giản, không phải một sớm một chiều là xong việc, không phải thấy biết là rồi, mà còn phải hành, phải sống được với nó nữa, đó là điều thật thiết yếu. Hiện nay cũng có một ít Tăng Ni nghe hiểu, hiểu rồi cứ ăn to nói lớn tưởng đó là hay, không ngờ vẫn còn thức tình, đến khi chết vẫn đi trong luân hồi. Cho nên chúng ta phải khéo cố gắng vượt qua các lỗi đó mới được.
Bệnh thứ ba là bệnh thụ hưởng. Có một số người tu được một thời gian năm năm, mười năm, thọ giới làm Trụ trì, coi như mình xứng đáng là người lãnh đạo tín đồ, rồi tự hài lòng. Từ sự tự hài lòng đó sanh ra thụ hưởng tức là nghĩ tới ăn chơi vui đùa, chạy theo dục lạc, mà không nghĩ tới việc tiến tu. Đó là điều rất nguy hiểm cho đạo. Chúng ta tu cốt làm sao dứt sạch các phiền não, mà phiền não phát xuất từ dục lạc. Nếu chúng ta còn thụ hưởng dục lạc thì phiền não làm sao sạch được. Vì vậy nên người nào tu hành mà nặng về hưởng thụ, người đó thế nào rồi cũng bị dục lạc làm chủ. Bị dục lạc làm chủ thì đời này không thể tiến được, mai kia cũng khó mà trả được nợ áo cơm. Cho nên có bài kệ:
Học đạo bất thông lý,
Phục thân hoàn tín thí.
Trưởng giả bát thập nhất,
Kỳ thọ bất sanh nhĩ.
Dịch:
Học đạo chẳng thông lý,
Đem thân đền tín thí.
Trưởng giả tuổi tám mốt,
Cây kia chẳng sanh nhĩ (nấm).
Bài kệ này thuật lại việc một Tỳ-kheo tu hành tương đối tốt. Có một trưởng giả thấy vậy quí kính, mỗi ngày dâng cúng tứ sự rất đầy đủ. Nhưng vị Tăng không thông được lý đạo, chưa sáng được việc lớn, nên khi chết thân trở lại đền nợ bằng cách thành cây mỗi ngày mọc nấm cho trưởng giả ăn. Tới khi trưởng giả tám mươi mốt tuổi cây mới thôi mọc nấm. Như vậy để thấy rằng nếu tu mà không sáng được đạo, không dứt được thức tình, dù chúng ta có cố gắng cũng chưa giải thoát được. Nếu chúng ta thụ hưởng càng nhiều thì họa càng lắm. Vị Tăng này tuy tu tốt, mà vẫn phải trả nợ hoa báo. Đó là trả nợ nhẹ làm cây sanh nấm cho người ăn, hết nợ mới thôi. Nếu nặng nợ hơn, chúng ta phải mang thân xấu xí hơn nhiều, đi trong lục đạo để đền nợ của đàn-na thí chủ. Vì vậy chúng ta phải nhớ rằng trên đường tu không phải chỉ có một hai thời khóa tụng, không phải chỉ thành Trụ trì là xong việc mà tu cốt làm sao thấy được đạo, sống với đạo, mới mong thoát ly sanh tử chớ không phải là việc đơn giản. Đó là điều thiết yếu mà chúng tôi mong tất cả Tăng Ni và Phật tử nhớ để nỗ lực tiến tu, đừng hài lòng, đừng tự mãn, rồi phải chiêu họa đời sau.
Phần thứ hai nói đến: “Việc lớn chưa sáng như đưa ma mẹ.” Tại sao ngài Trần Tôn Túc lại nói như thế? Những người con khi đưa đám cha mẹ mình, lúc đó gương mặt thật âu sầu ảo não, tâm hồn buồn bã khắc khoải vô cùng. Cũng như vậy, đối với người tu chúng ta chưa sáng được việc lớn, ngày nào tháng nào năm nào, chúng ta cũng phải ôm ấp trong lòng băn khoăn khắc khoải, niệm niệm quyết chí tiến tu. Cái gì mình chưa hiểu phải tìm cho hiểu, cái gì mình chưa thông phải ráng học hỏi cho thông. Nếu việc lớn chưa sáng mà cứ vui chơi hết ngày hết tháng, thì không mong gì đạt được sở nguyện của mình. Việc lớn chưa sáng, chúng ta lúc nào cũng phải ôm ấp, lo âu, trăn trở trong lòng, phải nỗ lực cố gắng tu hành để đạt cho kỳ được mới thôi. Như vậy mới khả dĩ tiến được, mới xứng đáng một người xuất gia theo Phật. Nếu chúng ta không làm đúng lời Phật Tổ dạy thì rất uổng một đời tu, lại còn làm cho thiên hạ chê cười khinh bỉ, đạo lý cao siêu của Phật trở thành vô giá trị. Thế nên việc lớn chưa sáng chúng ta phải luôn luôn nỗ lực tiến tu, chúng ta không có quyền nghĩ rằng mình tu cho có chừng để rồi đời sau tu nữa. Chúng ta phải quyết chí sáng được việc lớn ngay trong đời này, nếu chưa xong ít ra cái mê cũng mòn cũng mỏng để sau này tiếp tục một cách dễ dàng.
Xưa có những Thiền sư mỗi khi chiều xuống, xét lại mình chưa tiến được bao nhiêu, các ngài rơi lệ, còn chúng ta mỗi khi chiều xuống thì vui cười hỉ hạ. Chúng ta có tiến không mà vui cười? Tại sao các ngài không tiến thì khóc còn chúng ta không tiến lại cười? Tâm niệm người xưa và tâm niệm chúng ta ngày nay khác nhau ở chỗ nào? Nếu thật tình quyết chí cầu giải thoát, mà mình không đạt được điều mong mỏi, làm sao vui, làm sao thảnh thơi cười đùa! Vì vậy người xưa đã nhiệt tình khi nhớ tới việc tu hành của mình, một ngày mất đi mà không tiến là các ngài đau khổ xót xa đến độ phải rơi nước mắt. Chúng ta ngày nay dù không bằng được người xưa, ít ra mỗi ngày qua chúng ta phải nao nao tự hỏi rằng tại sao mình hèn nhát, mình tu không tiến. Một ngày tu không tiến còn rơi nước mắt, một tháng tu không tiến chắc phải khóc òa lên! Còn một năm tu không tiến quí vị nghĩ nên làm sao? Nếu một năm qua kiểm lại mình tu không tiến được một bước nào, thật là đau lòng hổ thẹn, không thể nào an ổn được. Tu cốt phải tiến, không phải đứng một chỗ, đứng một chỗ có nghĩa là lùi, huống nữa có nhiều người còn bước lùi nữa, việc đó thật là quá tệ. Do đó hôm nay là ngày cuối năm, chúng ta tự kiểm lại thấy qua một năm, tu không tiến được bước nào, chúng ta phải lập nguyện cho mạnh, lập chí cho vững để vươn lên, không để yếu hèn như năm cũ nữa. Như vậy chúng ta mới xứng đáng là người tu có trọng trách làm lợi mình, lợi người, tự giác, giác tha. Đó là điều mà chúng tôi mong mỏi nhất.
Phần thứ ba là “việc lớn đã sáng như đưa ma mẹ”. Tại sao? Vì chúng ta tưởng rằng một khi ngộ được lý đạo, ngang đó là thành Phật, thành Tổ. Thật sự chưa phải. Sau đây là bài kệ chúng tôi thường nhắc:
Đốn ngộ tuy đồng Phật,
Đa sanh tập khí thâm,
Phong đình ba thượng dũng,
Lý hiện niệm du xâm.
“Đốn ngộ tuy đồng Phật” tức là thấy được đạo, Phật với mình không khác. “Đa sanh tập khí thâm” tức là nhiều đời tập khí sâu dày, nóng giận phiền não hồi xưa còn ghi đậm nét trong thói quen của mình. Bây giờ tuy ngộ được lý đạo nhưng khi chạm việc cũng còn giận cũng còn nóng. “Phong đình ba thượng dũng”, như ngoài biển gió dừng rồi mà sóng vẫn còn vỗ ầm ầm. “Lý hiện niệm du xâm”, đối với đạo lý thì thấy được lẽ thật rồi, nhưng niệm vẫn còn dấy lên hoài, làm mờ tối Tánh giác của mình. Khi ngồi lại nó cứ tràn vào, lấn mãi, nó quấy động cả giờ ngồi thiền. Như vậy đừng tưởng rằng ngộ được lý đạo là xong việc, mà còn phải nỗ lực tiến tu, làm sao trong tất cả giờ những niệm đó không quấy nhiễu, không làm mờ Tánh giác của mình, chừng đó mới khả dĩ hợp với đạo. Nếu ngang đây mà hài lòng tự mãn là bệnh lớn.
Kinh Trung A-hàm ghi: Một hôm có ngoại đạo tới hỏi Phật: - Thưa Cù-đàm, những đệ tử của Ngài đã ngộ đạo có đến Niết-bàn hết hay chăng? Phật trả lời: - Có người đến Niết-bàn, có người không đến. Ngoại đạo lấy làm lạ hỏi: - Tại sao đã ngộ đạo rồi, có người được đến Niết-bàn lại có người không đến? Phật ví dụ: Như có người bị mũi tên độc bắn vào tay, thầy thuốc được mời tới mổ lấy tên ra, khử độc băng bó kỹ càng và bảo ráng giữ gìn đừng cho nhiễm trùng. Nhưng người đó nghĩ rằng tên độc đã nhổ ra, dùng thuốc khử độc rồi, còn lo sợ gì nữa. Ngang đó tha hồ xông pha, vết thương bị nhiễm trùng, bệnh trở nặng rồi chết. Người thứ hai cũng bị tên độc và cũng được nhổ tên ra, khử trùng xong băng bó cẩn thận và cũng được dặn dò như trước. Người này biết giữ gìn không dám để nhiễm trùng, vết thương lành lần lần rồi khỏi hẳn. Như vậy hai người cùng bị tên độc, cùng được mổ lấy tên ra, khử độc như nhau, tại sao một người chết, một người lành?
Phật nói: “Cũng như vậy, những người tu ngộ đạo rồi mà ngang đó biết nghe lời Phật tiến tu, gìn giữ đạo hạnh càng ngày càng trong sáng thì sẽ đến Niết-bàn. Những người ngộ đạo rồi, tự mãn làm những việc xông pha trái với đạo lý lần lần bị nhiễm rồi thối đọa.” Như vậy chúng ta đừng tưởng ngộ rồi là xong. Vì đa sanh tập khí thâm, tuy ngộ đạo rồi mà tập khí vẫn còn, nếu lân la với thói quen cũ thì bị nhiễm. Nên nói “việc lớn đã sáng như đưa ma mẹ”, chúng ta phải luôn luôn nỗ lực tu, không phải ngang đó mà dừng.
Có vị Tăng hỏi Thiền sư Truyền Sở ở núi Thanh Phong:
- Việc lớn đã sáng, vì sao như đưa ma mẹ?
Ngài đáp:
Chẳng gặp gió xuân hoa chẳng nở,
Đến khi hoa nở lại thổi rơi.
Hai câu này cũng giống hai câu:
Chưa đến vô tâm cần phải đến,
Đã đến vô tâm, vô cũng thôi.
Đợi có gió xuân hoa mới nở. Đừng tưởng hoa nở là xong, mà còn phải nhờ gió thổi cho hoa rụng luôn mới là xong việc. Người xưa rất cẩn thận dè dặt khi chỉ dạy chúng ta cách tu hành.
Thiền Sư Tử Thuần ở Đơn Hà có làm bài tụng:
Gia sơn qui đáo mạc nhân tuần,
Kiệt lực dần thân phụng nhị thân.
Cơ tận công vong ân nghĩa đoạn,
Tiện thành bất hiếu xiển-đề nhân.
Dịch:
Gia sơn về đến chớ dần dà,
Gắng sức sớm hôm dưỡng mẹ cha.
Cơ hết công quên ân nghĩa dứt,
Bỗng thành bất hiếu người xiển-đề.
Gia sơn về đến chớ dần dà nghĩa là người tu như kẻ trở về quê hương, hi vọng thiết tha nhất là về tới nhà. Về tới nhà còn phải: Gắng sức sớm hôm dưỡng mẹ cha, chẳng phải về đến nhà để chơi suông. Nuôi dưỡng mẹ cha rồi còn nghĩ mình là con có hiếu, là kẻ có công, cũng chưa được, nên nói: Cơ hết công quên ân nghĩa dứt, tới đó điều kiện công ơn nuôi dưỡng cha mẹ không còn thấy nữa. Bỗng thành bất hiếu người xiển-đề. Tại sao câu kết lại lạ lùng như vậy? Xiển-đề là âm tiếng Phạn dịch nghĩa là bất tín, tức là không đủ lòng tin. Ở đây xiển-đề chia ra ba loại:
1. Người phạm tội ngũ nghịch.
2. Người đối với Tam Bảo không có lòng tin.
3. Người như ngu như ngây không còn thấy có Phật để kính, không còn thấy có chúng sanh để xem thường. Người này thấy Phật với chúng sanh bình đẳng cũng gọi là xiển-đề.
Như trên đã nói:
Chẳng gặp gió xuân hoa chẳng nở
Đến khi hoa nở lại thổi rơi.
Nếu còn thấy mình là người đắc đạo, là người ngộ đạo là chưa xong. Nếu ngộ đạo thật sự mà còn thấy mình đắc đạo, ngộ đạo là chưa rồi, huống nữa chưa ngộ đạo mà còn tự xưng ta là người thấy đạo, ngộ đạo, thì nên nghĩ người ấy như thế nào? Vì vậy trong kinh Kim Cang có đoạn: “Pháp thượng ưng xả, hà huống phi pháp.” Tới chỗ rốt ráo pháp chân chánh còn phải buông xả, huống là phi pháp. Lời Phật dạy giống như cái bè đưa mình qua sông, tới bờ rồi bè cũng bỏ, như vậy mới rồi việc. Nếu mình tu tới đó rồi hài lòng tự mãn thì không thể nào tránh khỏi việc ôm chặt chiếc bè không lên bờ được. Đó là ý nghĩa bài tụng của ngài Đơn Hà Tử Thuần.
Thiền sư Thanh Long, nhân ý này nói một bài tụng:
Bần tử dụ trung tằng chỉ chú
Linh bình tân khổ uổng ta đà
Khúc thùy phương tiện thân phân phó
Triếp mạc nhân tuần xử tả khoa.
Dịch:
Trong dụ kẻ nghèo từng chỉ rõ
Lang thang cay đắng luống trôi qua
Được bày phương tiện vì giao phó
Thôi chớ lơ là khiến mất xa.
Ngài Thanh Long nhắc chúng ta, người tu chẳng khác nào kẻ cùng tử trong kinh Pháp Hoa. Trong thời gian lang thang nơi xứ lạ quê người, cùng tử chịu muôn ngàn cay đắng. Khi tìm được lối trở về đến nhà, qua được những cay đắng rồi vẫn chưa xong việc. Còn phải: Được bày phương tiện vì giao phó. Trưởng giả dùng phương tiện dẫn cùng tử về nhà trao kho tàng sự nghiệp. Khi được trao sự nghiệp rồi, thôi chớ lơ là khiến mất xa, còn phải giữ gìn bảo quản cho sự nghiệp được lâu dài bền vững. Ví dụ chàng cùng tử trong kinh Pháp Hoa chỉ cho chúng ta khi sáng được việc lớn, mà không chịu nỗ lực cố gắng nữa thì một ngày nào đó, chúng ta cũng bị rơi trở vào chỗ chưa sáng. Vì vậy khi sáng được việc lớn rồi, cần phải nỗ lực cố gắng cho đến bao giờ viên mãn công hạnh mới là xong việc.
Tất cả người tu Phật chúng ta đừng bao giờ nghĩ rằng thấy được đạo là xong việc mà phải hành đạo và hằng sống được với đạo. Mình và đạo không hai mới là thật sự giải thoát, giải thoát ngay trong đời này, chớ không phải đợi tới khi chết mới giải thoát, thì quá mơ hồ xa xôi.
Để kết luận, chúng tôi xin lặp lại hai câu:
Chưa đến vô tâm cần phải đến
Đã đến vô tâm vô cũng thôi.
Nếu chúng ta còn mờ tối chưa thấy được đạo, cần phải nỗ lực cố gắng học hành tham vấn. Khi đến chỗ vô tâm rồi, chính cái vô chúng ta cũng phải buông, mới đến chỗ mình và muôn vật không hai. Nếu còn đeo cái vô, thì vô tình chúng ta lại rơi vào nước chết.
Nếu đã qua một năm mà tu không tiến, chúng ta hối hận muốn kéo năm cũ lại để tu hành thì không thể được. Vì vậy chúng ta đành phải để nó trôi qua. Nhưng năm tới chúng ta phải làm sao cho xứng đáng không phụ tinh thần xuất gia cầu giải thoát của chính mình. Năm cũ qua rồi, chúng ta đã hỉ hạ vui chơi, năm mới sắp đến, chúng ta cũng hỉ hạ vui chơi không lo tu hành, e rằng một đời tu của chúng ta trở thành số không.
Hôm nay chúng tôi nhắc lại lời dạy của ngài Trần Tôn Túc để cho tất cả quí vị người tại gia cũng như xuất gia tự xét lại mình có tu tiến hay không? Nếu đã tiến tu thì năm tới cũng phải cố gắng để khá hơn. Còn nếu người nào cảm thấy qua một năm mà không tiến chút nào thì ngang đây chuẩn bị cho năm tới phải nỗ lực phát nguyện mạnh mẽ để đền bù lại những thiếu sót của một năm qua và xứng công trong năm tới. Như vậy mới không uổng một đời tu của mình. Đó là điều mong mỏi của chúng tôi trong tháng cùng năm hết này.
MÙA XUÂN MIÊN VIỄN
Bài nói chuyện với Tăng Ni - Xuân Đinh Mão 1987
Hôm nay là ngày Tết Nguyên Đán, quí Tăng Ni Phật tử câu hội về đây để chúc mừng năm mới, tôi rất hoan hỉ. Vậy quí vị lễ Tổ chứng minh cho rồi tôi sẽ nói chuyện.
Trước hết tôi chúc tất cả Tăng Ni và Phật tử năm nay được hưởng một mùa Xuân Miên Viễn. Muốn hưởng một mùa xuân miên viễn, chúng ta phải làm gì? Cần những yếu tố nào?
Tất cả người trên thế gian đều thừa nhận một năm có bốn mùa: xuân, hạ, thu, đông. Mùa xuân khí hậu ấm áp, cây cối đâm chồi nảy lộc, mọi người đều vui mừng, nên nói mừng xuân, vui xuân hay chơi xuân. Nói tới mùa xuân là nói tới sự vui tươi, hạnh phúc, coi như nó có sẵn trong mùa xuân. Nhưng mùa xuân theo thời gian dài lắm chỉ tròn ba tháng rồi cũng hết xuân, tới hạ, thu, đông. Cho nên cái vui con người chỉ hưởng một lúc nào rồi mất, nhường chỗ cho mùa hạ nóng bức, mùa thu buồn tẻ, mùa đông ảm đạm thê lương.
Người tu chúng ta không thể chấp nhận vui xuân giới hạn theo thời tiết, cần phải có cái vui mãi mãi không mất, mãi mãi còn nơi chúng ta. Chúng ta phải tu như thế nào để hưởng được một mùa xuân miên viễn?
Mùa xuân miên viễn phát nguồn từ đâu? Chính đức Phật Thích-ca là vị Giáo chủ đã chỉ cho chúng ta một mùa xuân miên viễn. Gần đây hơn, chính Tổ Bồ-đề-đạt-ma là người đem lại mùa xuân miên viễn trong đạo cho tất cả chúng ta. Tổ đã gieo rắc mùa xuân ấy vào tâm hồn người tu thiền chúng ta như thế nào? Sau đây tôi dẫn một số câu chuyện của các Thiền sư, quí vị sẽ nhận thấy mùa xuân miên viễn thể hiện trong tâm hồn những người đã sáng được lẽ đạo và sống với đạo như thế nào.
Trước tiên tôi dẫn câu chuyện: Một vị Tăng hỏi ngài Động Sơn Lương Giới:
- Thế nào là ý Tổ sư từ Ấn Độ sang?
Ngài Động Sơn đáp:
- Đợi dòng nước Động Sơn chảy ngược, ta sẽ vì ông nói.
Nước ở Động Sơn là nước trong khe động trên núi chảy xuống, có lúc nào chảy ngược trở lên đâu? Nếu nước ở sông ở biển khả dĩ còn có chảy lên chảy xuống, còn nước suối trên động núi không bao giờ chảy ngược. Tại sao ngài Động Sơn bảo đợi dòng nước Động Sơn chảy ngược sẽ vì ông nói? Câu đó đã nói gì về ý Tổ sư từ Ấn Độ sang? Tổ sư đây là Tổ Bồ-đề-đạt-ma. Những vị học và tu thiền thường thắc mắc không biết Tổ Bồ-đề-đạt-ma sang Trung Hoa có ý gì đem truyền dạy cho chúng ta? Ý đó như thế nào? Ngài Động Sơn trả lời như vậy có dễ hiểu không? Biết ý Tổ sư từ Ấn Độ sang chưa?
Sau này Thiền sư Nghĩa Thanh ở Đầu Tử có làm bài kệ tụng về điều đó:
Cổ nguyên vô thủy nguyệt hà sanh,
Mãn ngạn Tây lưu nhất phái phân.
Thông Lãnh bãi tuần Hùng Nhĩ mộng,
Tuyết đình hưu thoại Thiếu Lâm xuân.
Dịch:
Nguồn xưa không nước nguyệt đâu sanh,
Một mạch dòng Tây chảy ngập tràn.
Thông Lãnh hỏi rồi Hùng Nhĩ mộng,
Tuyết sân thôi nói Thiếu Lâm xuân.
Qua bài kệ này ngài Nghĩa Thanh đã nói gì về câu đáp của ngài Động Sơn?
Cổ nguyên vô thủy nguyệt hà sanh.
Dòng suối xưa nếu khô cạn thì làm sao bóng mặt trăng rọi ở dưới. Dòng suối có nước trong, chúng ta mới thấy được bóng mặt trăng ở dưới đáy suối, nếu dòng suối đã khô thì không thấy bóng mặt trăng.
Mãn ngạn Tây lưu nhất phái phân.
Mãn là đầy, ngạn là bờ. Dòng suối xưa kia vẫn tràn cả bờ từ phương Tây trôi mãi chia ra một mạch (phái: mạch). Ở đây dường như có sự mâu thuẫn. Câu trên nói dòng suối khô cạn không có bóng mặt trăng. Câu dưới lại nói dòng suối từ phương Tây chảy lại tràn đầy cả bờ rồi chia ra chảy mãi. Như vậy ý nói gì? Câu đầu nói dòng suối không nước tức là không bóng trăng để chỉ câu đáp của ngài Động Sơn. Đợi dòng suối chảy ngược tôi sẽ vì ông nói.
Câu hai: Dòng suối đó không có bóng mặt trăng tức là khô cạn. Tuy nói cạn mà không cạn vì nó vẫn chảy tràn cả bờ và trôi mãi cho tới ngày nay.
Đến hai câu sau rất là đẹp:
Thông Lãnh bãi tuần Hùng Nhĩ mộng,
Tuyết đình hưu thoại Thiếu Lâm xuân.
Ở núi Thông Lãnh không còn thưa hỏi nữa, trên núi Hùng Nhĩ chỉ là giấc mộng thôi. Là ý nghĩa gì? Tổ Bồ-đề-đạt-ma khi tịch tại Thiếu Lâm, nhục thân Ngài được nhập tháp trên núi Hùng Nhĩ. “Thông Lãnh bãi tuần” tức là ở Thông Lãnh không còn thưa hỏi nữa, Tổ Bồ-đề-đạt-ma đã hết duyên giáo hóa ở Trung Hoa. Nhục thân Ngài nhập tháp trên núi Hùng Nhĩ chẳng qua là một giấc mộng.
Tuyết đình hưu thoại Thiếu Lâm xuân.
Tuyết đình là nơi sân tuyết, khi Tổ Huệ Khả đến hỏi đạo với Tổ Bồ-đề-đạt-ma. Tổ Đạt-ma ngồi xoay mặt vào vách lặng yên, Tổ Huệ Khả đứng ngoài sân, mùa đông tháng chạp ở miền Bắc Trung Hoa tuyết xuống ngập đầu gối mà ngài Huệ Khả vẫn đứng trơ nhìn thẳng vào Tổ, mặt không đổi sắc. Tổ thương tình xoay lại hỏi:
- Cầu việc gì mà chịu khổ hạnh vậy?
- Con xin Ngài dạy cho pháp môn cam lồ.
Từ đó về sau Tổ mới nhận Ngài là đồ đệ. Khi thầy trò còn thưa hỏi qua lại là lúc Tổ còn duyên giáo hóa. Khi Tổ Huệ Khả không còn thưa hỏi nữa tức là Ngài đã đạt đạo, thấy được chân tướng mà Tổ Bồ-đề-đạt-ma truyền dạy, lúc ấy ở Thiếu Lâm hoàn toàn là một mùa xuân. Nên nói: trước sân đầy tuyết không còn thưa hỏi nữa, núi Thiếu Lâm hoàn toàn là một mùa xuân: mùa xuân miên viễn, mùa xuân không còn bị thời gian chi phối, xuân mãi mãi, không bao giờ có vẻ ảm đạm của thu, lạnh lẽo của đông nữa. Muốn được mùa xuân miên viễn phát xuất từ Thiếu Lâm, phải qua một cơn tuyết ngập tới gối, chớ không giản dị như những vị hiện giờ mong ước. Vừa được ấm no sung túc vui cười, vừa mong ước được mùa xuân Thiếu Lâm, chắc chắn là không được.
Trên đường đạo, chúng ta phải chịu đựng những gian nan khổ sở mới hưởng được một nguồn vui không bao giờ cùng tận. Người tu phải đối diện với sự lạnh lẽo cô đơn, từ bỏ mọi sự ấm áp của thế tình, lúc đó chỉ có nguồn chánh pháp sưởi ấm lòng chúng ta thôi. Nếu chúng ta tu mà muốn được tình đời sưởi ấm mãi, chắc rằng chúng ta phải chịu lạnh muôn kiếp. Chúng ta phải cam lạnh với tình đời, phải buông xả, chỉ còn trơ trọi một con người, khi ấy chúng ta mới được sưởi ấm bằng một nguồn vui miên viễn của mùa xuân Thiếu Lâm.
Dòng suối từ Tây chảy sang và chảy mãi đến Việt Nam chúng ta, dòng suối đó đến nay vẫn còn. Chúng ta có hưởng được hay không là do sức chịu đựng và sức nỗ lực của chúng ta, cũng như sau một cơn tuyết lạnh rồi chúng ta mới thấy được một mùa xuân ở Thiếu Lâm. Đó là ý nghĩa bài kệ của ngài Nghĩa Thanh.
Đến câu chuyện một vị Tăng hỏi ngài Cửu Phong (ngài Cửu Phong là vị Thị giả hỏi chết Thủ tọa ở Thạch Sương). Tăng hỏi:
- Tổ tổ truyền nhau là truyền việc gì?
Là truyền y bát chăng? Nếu truyền y bát thì khô khan làm sao! Y bát là vật vô tình, truyền vật vô tình đâu có lợi gì cho chúng ta, đâu có sưởi ấm chúng ta mãi mãi. Nếu nghĩ Tổ Tổ truyền nhau là truyền y bát, điều đó không phải là đạo lý, nên ngài Cửu Phong đáp:
- Thích-ca nghèo, Ca-diếp giàu.
(Nguyên văn chữ Hán: Thích-ca xan, Ca-diếp phú.)
Tăng hỏi:
- Thế nào là Thích-ca nghèo?
Ngài đáp:
- Không một vật cho người.
Tại sao đức Thích-ca nghèo lắm vậy? - Không một vật cho người, không nghèo là gì? Vì vậy nên sau này con cháu Ngài nghèo, mà nghèo nhất là ngài Hương Nghiêm Trí Nhàn, Ngài nghèo cho tới không có đất cắm dùi, và không có dùi để cắm nữa. Ngài trình bày chỗ nghèo của mình:
Năm xưa nghèo còn có đất cắm dùi,
Năm nay nghèo không có dùi để cắm.
Như vậy Phật Tổ truyền thừa cái gì? Đức Thích-ca không có một vật cho người, có cái gì mà truyền!
Vị Tăng lại hỏi thêm:
- Thế nào là Ca-diếp giàu?
Ngài Cửu Phong đáp:
- Trong nước Mạnh Thường Quân.
Khi xưa ở Trung Hoa, Mạnh Thường Quân là người nuôi rất nhiều dũng sĩ, những dũng sĩ nào thất thời thất thế ông đều nuôi hết, nên nói Mạnh Thường Quân là người giàu. Như vậy Tổ Ca-diếp giàu là giàu cái gì? Nếu Tổ Ca-diếp nghèo thì chắc không truyền tới bây giờ. Bởi Ngài giàu cho nên Ngài truyền nối mãi cho tới ngày nay không dứt, không giàu là gì? Con cháu đông vầy, đó là cái giàu của ngài Ca-diếp.
Đức Thích-ca nghèo vì không một pháp cho người, Tổ Ca-diếp giàu vì truyền mãi không dứt. Không một pháp cho người mà truyền mãi không dứt có mâu thuẫn không? - Không. Nếu chúng ta thấy được cái không mâu thuẫn đó là chúng ta thấy được mùa xuân miên viễn, còn nếu chúng ta thấy có sự mâu thuẫn là không thấy được mùa xuân miên viễn.
Thiền sư Tử Thuần ở núi Đơn Hà có làm bài kệ nói về câu đối đáp trên:
Tịch quang ảnh lý hiện toàn thân,
Quí dị thiên nhiên quýnh xuất luân.
Gia phú nhi nô thiên đắc lực,
Dạ phân đăng hỏa chiếu tây lân.
Dịch:
Tịch quang trong bóng hiện toàn thân,
Sang khác thiên nhiên vượt hạng thường.
Con khó nhà giàu riêng đắc lực,
Đêm chia đèn lửa rọi xóm gần.
Tịch quang ảnh lý hiện toàn thân. “Tịch” là lặng, “quang” là sáng. Trong cái sáng lặng bóng nó hiện toàn thân.
Quí dị thiên nhiên quýnh xuất luân. “Quí” là sáng, “dị” là khác, “quýnh xuất luân” là vượt khỏi bình thường. Cái giàu sẵn vậy khác hơn là vượt khỏi tất cả cái giàu sang bình thường của người đời.
Gia phú nhi nô thiên đắc lực. “Gia phú” là nhà giàu, “nhi nô” là con tôi tớ. Cha giàu mà con là tôi tớ riêng được chỗ đắc lực. Cha giàu dụ cho ông Trưởng giả trong kinh Pháp Hoa, con tôi tớ dụ cho gã cùng tử chịu làm tôi tớ. Nhưng nếu người con tôi tớ hiểu được việc nhà rồi tức là đã đắc lực thì ông cha:
Dạ phân đăng hỏa chiếu tây lân. Ban đêm chia đèn lửa để chiếu rọi xóm gần. Nếu đứa con nghèo khi có sức mạnh hoặc có khả năng quản lý được gia nghiệp rồi thì người cha liền chia đèn chia lửa để soi sáng cho láng giềng chung quanh.
Trong bài kệ này, hai câu đầu nói lên ý đức Thích-ca Ngài nghèo, bởi vì trong cái sáng lặng lẽ, có cái bóng hiện ra toàn vẹn. Cái bóng đó không thật, không thật thì có gì để chia, có gì để trao! Nhưng trong đó có ngầm cái giàu, không phải cái giàu thông thường của thế nhân, mà cái giàu vượt trên tất cả những cái thường tình. Đó là cái giàu của thiên nhiên sẵn có.
Hai câu sau chỉ cái giàu của ngài Ca-diếp. Ngài Ca-diếp rất giàu. Con cháu của Ngài nghèo nàn, một khi có sức kham nhẫn chịu đựng được, có đủ khả năng gánh vác được thì Ngài trao chia cho đèn lửa để nối tiếp mãi mãi. Danh từ trong đạo thường nói người sau nối tiếp người trước là “tục diệm truyền đăng” nghĩa là nối lửa trao đèn. Tại sao không nói trao ngọc trao vàng mà nói trao lửa trao đèn? Bởi vì chủ yếu của đạo Phật là giác ngộ, mà giác ngộ là trí tuệ, trí tuệ là sáng suốt. Vì chúng sanh bị vô minh mê mờ nên phải trôi mãi trong luân hồi lục đạo. Chỉ có ngọn đèn trí tuệ mới phá được vô minh. Nếu vô minh hết thì chúng sanh ra khỏi dòng luân hồi.
Nói đến sự truyền bá chánh pháp là nói đến sự trao đèn nối lửa để soi sáng cho chúng sanh, cho con người và cho nhân loại. Chúng ta học đạo cốt làm sao thấy được chủ yếu của đạo để trên đường tu khỏi bị lầm lẫn. Nếu học đạo mà không thấy chủ yếu đó, chúng ta cứ nghĩ những phương tiện là đạo, tỉ dụ như bố thí, nhẫn nhục là đạo, đó chưa phải là cứu kính. Mục tiêu của Phật là chúng ta phải có ánh sáng trí tuệ mới cứu khổ được chúng sanh.
Nói đến việc trao đèn, chúng tôi nhớ câu chuyện nhan đề là “Giáo Lý Tối Thượng” của một Thiền sư Nhật Bản: Ngày xưa có một chú mù đi thăm bạn. Vì là bạn cố tri nên gặp lại ngồi nói chuyện mãi quên giờ. Khi ra về trời đã khuya, ngoài trời tối đen, anh bạn thương chú quá, nói:
- Ngoài kia trời tối, để tôi đốt đèn cho anh cầm về.
Anh mù cười nói:
- Tôi thấy ngày như đêm, đêm như ngày, cần gì đèn.
Anh bạn giải thích:
- Tuy anh không cần đèn, nhưng anh nên cầm cây đèn đi, người đi đường thấy được cây đèn họ tránh khỏi đụng vào anh.
Thấy có lý, anh mù nhận cây đèn anh bạn đốt và trao cho. Trên đường về bất thần có người đụng vào anh mù. Người mù than phiền:
- Anh không thấy tôi sao?
Người kia nói:
- Dạ, tôi không thấy.
- Tôi cầm cây đèn mà anh không thấy à?
Người đi đường đáp:
- Thưa bạn cây đèn bạn tắt từ bao giờ!
Qua câu chuyện trên, “giáo lý tối thượng” ở chỗ nào? Để quí vị suy gẫm, chúng tôi sẽ giải thích sau.
Trong nhà thiền, Thiền sư được trao đèn là ngài Đức Sơn. Ngài Đức Sơn sau khi đầu phục, được ngài Long Đàm Sùng Tín nhận làm đệ tử. Một đêm, Ngài đứng hầu thầy trong thất. Mãi tới khuya, ngài Sùng Tín bảo:
- Đêm đã khuya sao ông không xuống?
Ngài Đức Sơn liền bước ra vén rèm lên, bèn trở lại thưa:
- Ngoài kia tối đen.
Nói đến tối đen tức là muốn xin đèn chớ gì? Ngài Sùng Tín liền thắp đèn cầy rồi trao. Ngài Đức Sơn vừa đưa tay cầm cây đèn thì ngài Sùng Tín thổi phụt tắt. Ngay đó ngài Đức Sơn liền ngộ, từ đó về sau không cần đèn nữa. Như vậy trao đèn đó có trao hay không? Tại sao ngài Đức Sơn cầm đèn, vừa đưa tay nhận lấy, ngài Sùng Tín lại thổi phụt tắt đi? Đó lại gọi là trao đèn tiếp lửa. Trao ở chỗ nào? Nếu hiểu câu chuyện này thì hiểu câu chuyện trên.
Trong câu chuyện trước, người bạn thương người bạn mù quá nên đốt đèn cho anh cầm tay để tránh tai nạn. Đã là mù thì dù có đèn cũng là vô ích, nó tắt hay còn cháy, có biết đâu! Bởi vậy nên đèn tắt lúc nào cũng không biết! Khi sáng mắt rồi đưa đèn mới hữu dụng.
Cũng như vậy, nếu ngài Huệ Khả không đứng lạnh ngoài tuyết trước sân Thiếu Lâm thì Tổ Đạt-ma đâu có trao đèn cho Tổ Huệ Khả. Khi đủ khả năng đủ sức nhận rồi mới trao. Nhưng trao mà không trao. Trao đèn cho người lúc họ đi đêm, nếu sáng ngày thì họ đâu có cần nữa. Vì vậy nơi chúng ta nếu không phát sáng được cái Vô sư trí thì dù thầy dù bạn có muốn cho chúng ta sáng, sáng cũng không nổi. Cái học ngôn ngữ lý thuyết nơi thầy nơi bạn không cứu được cái mê của chúng ta. Muốn cứu được cái mê của chúng ta, chính cái Vô sư trí phải phát. Khi nào phát được cái Vô sư trí, lúc đó mới được trao đèn. Trao đèn là trao như vậy, nên mới gọi là giáo lý tối thượng. Còn nếu Vô sư trí chưa phát mà trao cũng vô ích thôi. Hiểu như vậy quí vị mới hiểu nghĩa trao đèn tiếp lửa, trao mà không trao gì hết. Bởi vậy mới có câu chuyện sau này:
Có vị Tăng hỏi Thiền sư Cư Hối:
- Tổ Đạt-ma lại là Tổ chăng?
Ngài Cư Hối đáp:
- Chẳng phải Tổ. (Trả lời coi ngang ngược quá!)
- Đã chẳng phải Tổ lại đến làm gì?
- Vì ông chẳng tiến. (Vì ông chẳng tiến được, nên Ngài sang.)
Vị Tăng liền hỏi:
- Sau khi tiến thì thế nào?
Ngài Cư Hối đáp:
- Mới biết chẳng phải Tổ.
Câu này thật là hay! Sau khi tiến được mới biết chẳng phải Tổ. Ngài Đức Sơn vì tiến không được, thấy ngoài trời tối đen, nên cần đèn. Cần đèn thì thầy đốt cho. Đốt cho rồi liền thổi phụt tắt. Tắt rồi mới tiến được. Tiến được mới thấy thầy có trao đèn cho mình không? Khi chưa tiến được thì mong thầy trao cho mình một cái gì, cho nên còn thấy có Tổ. Khi tiến được rồi thì còn gì nữa mà trao? Mới biết không phải Tổ. Không phải Tổ mà là Tổ. Cái đó mới là lạ lùng.
Qua câu chuyện trên, cũng ngài Tử Thuần có làm bài kệ:
Thiếu Lâm tục diệm sự kham kỳ,
Lạp dạ phương khai tuyết hậu chi
Hoàng Bá tích niên tằng hữu ngữ,
Đại Đường quốc lý một Thiền sư.
Dịch:
Thiếu Lâm tiếp lửa việc lạ kỳ,
Tháng chạp tuyết rơi sau mới chia
Hoàng Bá năm xưa từng đã nói,
Đại Đường cả nước không Thiền sư.
Tại sao cả nước Đại Đường mà không Thiền sư? Bởi vì nói Tổ thì người ta cứ nghĩ như ở ngoài thế gian, ông Tổ thợ mộc thì dạy cách làm mộc, phải đục đẽo như thế nào, cần những đồ nghề gì. Ông Tổ thợ rèn chỉ dạy cách làm thợ rèn. Còn ông Tổ trong nhà Thiền dạy chúng ta cái gì? Truyền cho chúng ta cái gì? Không có một pháp cho người, mà dạy cái gì, truyền cái gì? Đã không có dạy, không có truyền thì gọi là Tổ được không? Tuy không dạy, không truyền mà vẫn là Tổ. Mới nhìn qua coi như không phải Tổ, vì mỗi người chúng ta đã sẵn có cái chân thật đó rồi chớ không phải Ngài cho, nên nói không phải Tổ. Nếu không có sẵn, dù Ngài chỉ Đông, vẽ Tây, thì chắc rằng chúng ta cũng không thấy được cái chân thật đó, cho nên nói không phải Tổ mà là Tổ. Cũng như vậy, ngài Hoàng Bá nói cả nước Đại Đường không có Thiền sư, chỉ tạm gọi là Thiền sư.
Ý nghĩa của bài kệ như sau:
“Thiếu Lâm tục diệm sự kham kỳ.” Sự truyền đăng tục diệm ở Thiếu Lâm rất lạ lùng. Sự đó phát xuất từ lúc nào? “Lạp dạ phương khai tuyết hậu chi”: sau đêm tháng chạp tuyết lạnh mới nở được hoa, nên nói: Tháng chạp tuyết rơi sau mới chia tức là chia đèn tiếp lửa sau đêm tuyết ở Thiếu Lâm. Như vậy chúng ta thấy rằng việc truyền thừa của chư Tổ là mồi đèn tiếp lửa để soi sáng mãi mãi cho chúng sanh ở thế gian.
Vì lẽ vừa nêu trên, chúng tôi đặt tên Thiền viện Thường Chiếu. Nếu nói Thường Chiếu suông thì thấy nó lơ lửng quá! Vậy cái gì Thường Chiếu? - Tuệ Nhật Thường Chiếu hay Tuệ Đăng Thường Chiếu, nghĩa là truyền đèn tiếp lửa. Trong kinh Pháp Hoa, phẩm Phổ Môn có câu: “tuệ nhật phá chư ám” tức là mặt trời trí tuệ phá hết mọi tối tăm, mà Thường Chiếu là phá ám chớ gì? Vì thế chúng ta phải hiểu cho tường tận chủ đích của người trước. Thường Chiếu theo tinh thần nhà thiền là ngọn đèn, ngọn đuốc hay là mặt trời trí tuệ mãi mãi soi sáng không bao giờ gián đoạn.
Chúng tôi có tham vọng muốn chia đèn tiếp lửa từ thuở Phật Tổ, nối mãi mãi đến bây giờ và về sau, để soi sáng chúng sanh không để bị gián đoạn, tắt dứt. Tuy hiện giờ có soi chút chút, nhưng nếu mai kia khi tôi mất rồi, quí vị phải tiếp tục soi sáng mãi mãi đừng để nó gián đoạn, nếu gián đoạn thì mất ý nghĩa Thường Chiếu rồi. Chủ đích của người tu Phật là dùng ánh sáng trí tuệ để soi sáng chúng sanh phá tan màn vô minh đen tối, giúp chúng sanh thoát khỏi dòng trầm luân sanh tử. Vì vậy mà tôi thích tên Chiếu. Có người cười bảo là chiếu lác chiếu rơm gì đó, vì không rõ mục tiêu tôi nhắm với tham vọng hơi nhiều. Chúng tôi mong rằng quí vị có mặt hôm nay, trong ngày đầu năm, ý thức được bổn phận và mục đích của mình. Biết được mục đích rồi lúc nào chúng ta cũng nhắm thẳng mục đích đó. Hòa thượng Viện trưởng đã dạy chúng ta: Làm việc gì một thời gian rồi, phải tự hỏi lại mình xem có đi đúng mục đích của mình hay không? Vì danh lợi hay vì cái gì? Phải luôn luôn hỏi lại mình để nhắc mình đi đúng mục tiêu mà mình đã nhắm.
Ở đây, chúng tôi nhắm mục tiêu “Phật Tổ tương truyền”. Chúng ta đã thừa hưởng ánh sáng mặt trời đó, chúng ta nên đem ánh sáng ấy soi lại cho những người chung quanh và những người sau để cùng sáng với chúng ta. Có những khi cần giảng chữ Thường Chiếu, tôi giảng có tính cách nhè nhẹ để người ta không thấy tham vọng của mình, tôi nói Thường Chiếu là tên của một Thiền sư Việt Nam. Bây giờ cần nói sâu nguyện vọng của mình, tôi nói là Tuệ Nhật Thường Chiếu hay Tuệ Đăng Thường Chiếu, chớ không phải là chuyện thường. Hôm nay tôi nêu ra cho tất cả quí vị thấy bản hoài của người tu phải đạt cho kỳ được cái gì mà Phật Tổ mong muốn nơi chúng ta.
Phần kết luận bài nói chuyện hôm nay là lời chúc xuân đầu năm của tôi với Tăng Ni và Phật tử, tôi xin nhắc lại lời của người xưa:
Bất đạp kim thời lộ,
Thường du kiếp ngoại xuân.
Tức là không giẫm trên con đường hiện thời, thường dạo một mùa xuân kiếp ngoại. Kiếp ngoại xuân là gì? Kiếp là chỉ cho thời gian, như nói một đời, một kiếp. Hoặc trong kinh nói tiểu kiếp, trung kiếp, đại kiếp chỉ cho thời gian dài thăm thẳm. Kiếp ngoại xuân là xuân vượt ngoài thời gian, năm, tháng. Nói tới xuân là nói tới thời gian. Nhưng nếu chúng ta không giẫm trên con đường hiện thời là chúng ta hưởng được mùa xuân ngoài thời gian, còn gọi là mùa xuân miên viễn. Vì sao không đạp trên con đường hiện thời? Con đường hiện thời chỉ cho con đường mà chúng sanh đang tranh đua chen lấn nhau đi, đó là con đường danh, lợi, tài, sắc v.v… Nếu chúng ta không đạp trên những con đường đó thì chúng ta sẽ hưởng được một mùa xuân kiếp ngoại, mùa xuân miên viễn không còn bị lệ thuộc thời gian. Hai câu này chúng tôi tạm dịch theo thể văn lục bát:
Chẳng đi theo bước đương thời,
Mùa xuân kiếp ngoại thảnh thơi dạo hoài.
Hôm nay, ngày đầu năm Đinh Mão, chúng tôi mong rằng tất cả Tăng Ni cùng Phật tử sẽ hưởng một mùa xuân miên viễn. Làm sao một đời này chúng ta luôn luôn được an vui, không còn cảm thấy khổ đau vì ngoại cảnh, vì cái đuổi xua của quỉ vô thường, mà chúng ta hằng vui trong một mùa xuân kiếp ngoại hay nói cách khác là một mùa xuân miên viễn.
AN LẠC SAU KHI BỨNG GỐC KHỔ ĐAU
Bài nói chuyện với Phật tử - Xuân Đinh Mão 1987
Hôm nay là ngày Tết Nguyên Đán năm Đinh Mão 1987, quí Phật tử đến chùa lễ Phật và chúc mừng năm mới quí thầy. Để đáp lại lòng kính trọng Tam Bảo của quí Phật tử, chúng tôi sẽ có lời chúc đầu năm hơi dài dòng một chút, không chỉ một câu ngắn gọn rồi thôi, lời chúc này gồm nhiều chi tiết. Hôm nay đầu đề chúng tôi chúc là: Cầu Tam Bảo gia hộ cho tất cả Phật tử một năm mới hoàn toàn an lạc.
Khi nói đến an lạc, trước phải nói đến đau khổ. Nếu nói an lạc suông, quí vị lại tưởng là mình thảnh thơi lắm, rồi không cố gắng tu hành. Vì vậy khi chúc quí Phật tử một năm mới hoàn toàn an lạc, chúng tôi sẽ nói rõ nguồn gốc đau khổ của con người hiện tại và vị lai. Nếu biết được nguồn gốc đau khổ, mình nhổ phăng bứt gốc bứt rễ nó lên thì an lạc sẽ đến, an lạc thật sự.
Tất cả Phật tử chúng ta là con Phật phải nhìn thấy đúng như cái nhìn cái thấy của đức Phật. Sau khi giác ngộ rồi, đức Phật thấy rõ được bản chất của con người như thế nào, Ngài đem ra chỉ dạy để chúng ta thức tỉnh biết rõ được con người mình. Khi biết rõ được con người mình thì chúng ta mới biết làm sao để hết khổ và làm sao để đến an lạc thật sự, đó là gốc của sự tu. Nếu chúng ta không biết bản chất của mình là vui hay khổ cứ sống lây lất qua ngày, đua đòi theo những hình thức vật chất, chúng ta phải tạo nghiệp thọ khổ, chẳng những đời này mà còn kéo dài không biết bao nhiêu kiếp nữa. Vì lòng từ bi, đức Phật muốn cho mọi người hết khổ, nên trước tiên Ngài chỉ rõ nguồn gốc đau khổ. Thấy được nó, chúng ta mới có thể đào bới nó lên được. Nếu không thấy nó, chúng ta muốn cầu vui mà cái vui không bao giờ đến, vì chúng ta có biết cái khổ đâu mà bới lên. Thành ra muốn vui mà con người cứ khổ, cái khổ cứ tràn tới mãi mãi. Chính con người ở thế gian đang là như vậy, lúc nào cũng chúc mừng nhau năm mới được an vui hạnh phúc, nhưng đến cuối năm quí vị thấy có an vui hạnh phúc không? Luôn luôn chúc nhau an vui hạnh phúc mà kết quả lại không có an vui hạnh phúc chi hết, mà trái lại nhiều khổ đau, nhiều bực bội. Chúc như vậy chỉ là chúc suông thôi.
Ở đây chúng tôi muốn quí Phật tử thật sự sang năm này là một năm quí Phật tử tạo nên một cội nguồn của sự an lạc. Muốn tạo nên cội nguồn an lạc đó trước tiên quí Phật tử phải biết nguồn gốc đau khổ là cái gì? Biết được nó rồi chúng ta mới có thể bứng gốc bứng rễ nó để thành an lạc.
Nguồn gốc đau khổ là cái gì?
Trong đạo Phật, lúc nào đức Phật cũng muốn chỉ cho mọi người thấy được lẽ thật của kiếp sống con người. Chúng ta cứ tìm những điều quanh quẩn bên ngoài mà những điều đó dù chúng ta thấy được lẽ thật của chúng, cũng là lẽ thật bên ngoài thôi; còn bản thân chúng ta chưa biết chưa thấy đó là một khuyết điểm lớn lao. Vì vậy đức Phật nói rõ bản chất của con người là khổ hay vui? - Khổ! Vừa nghe thoáng qua chúng ta cảm thấy bi quan, nhưng đó là sự thật.
Vì sao bản chất con người là đau khổ?
Đức Phật dạy đau khổ chia ra hai phần:
1. Đau khổ do sự cảm thọ.
2. Đau khổ do lòng tham ái.
Như vậy chúng ta cần xác định lại kiếp sống con người là đau khổ, chớ không phải là an vui. Đức Phật dạy những đau khổ của con người là do:
- Sanh, già, bệnh, chết.
- Ái biệt ly khổ.
- Oán tắng hội khổ.
- Cầu bất đắc khổ.
- Ngũ ấm xí thạnh khổ.
Chúng ta ở trên thế gian này thật là khổ. Trong cuộc sống quí vị muốn một trăm điều, kết quả được bao nhiêu? Nhiều lắm là hai chục điều thôi tức là có hai chục phần trăm được như ý. Đó là tôi nói ưu đó, có khi còn chưa được như vậy nữa! Còn tám chục phần trăm là bất như ý, tức là không toại nguyện, mà không toại nguyện là đau khổ. Nhìn tổng quát, đức Phật nói cuộc đời con người là đau khổ, sanh là khổ. Đó là cái khổ thứ nhất.
Già có khổ không? Có ai nói già mà vui đâu! Già thì thân thể yếu gầy bệnh hoạn, rồi răng rụng da nhăn, chân mỏi gối dùn, đi đứng lụm cụm, đủ chuyện phiền hà, nên nói già là khổ.
Bệnh có vui không? Bệnh là khổ rồi, không ai chối được.
Còn chết thì sao? Là đại khổ!
Như vậy thử kiểm lại ở trần gian này, có người nào thoát khỏi sanh lão bệnh tử hay không? Ai cũng sanh ra rồi già đi, ai cũng phải bệnh hoạn rồi cuối cùng là chết. Không một ai thoát khỏi bốn điều này, cho nên nói kiếp người đau khổ là như vậy.
Đến ái biệt ly: thương mà xa lìa. Những người mình thương rất là thương mà xa lìa, có gì khổ cho bằng! Có người nào khỏi xa lìa thân nhân mình đâu, thân nhất là cha mẹ, vợ chồng, anh em, bạn bè, có lúc cũng phải xa lìa. Như vậy gọi là ái biệt ly khổ. Oán tắng hội khổ: ghét mà gặp mặt nhau cũng khổ. Những người mình không thích, không muốn thấy mặt mà cứ ở ngay trước mắt mình hoài thì làm sao vui được! Cầu bất đắc khổ: mong cầu mà không được như ý cho nên khổ. Cái khổ thứ tám là ngũ ấm xí thạnh khổ. Năm ấm sắc, thọ, tưởng, hành, thức cấu hợp thành thân này, luôn luôn chống đối, bất an cho nên đau khổ.
Tám điều khổ vừa kể trên, chúng ta đều phải đa mang suốt cuộc đời, không thiếu sót một điều nào. Có ai khỏi sanh già bệnh chết? Có ai không xa lìa người thương, không gặp gỡ người mình ghét? Có ai cầu điều gì được điều nấy đâu? Tám điều khổ của con người là sự thật, không chối cãi được. Đau khổ là một lẽ thật không làm sao tránh được, nó luôn luôn theo dõi ép ngặt khiến chúng ta bất an. Nếu có gượng cười gượng vui, chỉ trong giây lát rồi cũng khổ. Ví dụ như khi gặp bạn bè vui tươi chốc lát, đến lúc về nhà đau chân, mỏi lưng… cảm thấy khổ thân. Như gặp người thân thì mừng rỡ, nhắc lại người xa cách thì than khóc. Gặp người mình thích thì tươi cười, gặp người mình ghét thì bực bội. Cả ngày vui buồn thay đổi luôn luôn, điều vui thì ít, đau khổ thì nhiều. Bản chất con người là đau khổ. Đức Phật gọi đó là Khổ đế: Khổ là một lẽ thật không chối cãi được.
Tám điều khổ do đâu mà ra? Gốc từ cảm thọ mà ra. Cảm thọ chia ra làm hai phần:
1. Cảm thọ sai biệt của sáu căn rồi chấp nê sanh đau khổ.
2. Cảm thọ do đuổi theo thú vui rồi giành giật sanh đau khổ.
Vì sao cảm thọ sai biệt của sáu căn gây nên đau khổ? Chúng ta ai cũng có sáu căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý. Sáu căn này có những cảm thọ ngoại cảnh không giống nhau. Thí dụ như mắt chúng ta nhìn thấy sự vật, nếu vị nào có con mắt nghệ thuật, khi nhìn bình hoa đặt trên bàn thì trầm trồ khen hoa trưng đẹp mắt. Nhưng một người khác không có mắt nghệ thuật nhìn mấy nhánh hoa lưa thưa ngả nghiêng không có gì đẹp cả. Người bảo đẹp, người cho là xấu, hai người không đồng ý nhau rồi sanh bực tức tranh cãi. Con mắt xúc chạm với sắc trần, người thấy đẹp, người thấy xấu là do cảm thọ sai biệt mà ra. Như vậy ai đúng? Nếu không ai đúng thì sao lại tranh cãi? Thật là vô lý. Mỗi người có cái thấy không giống nhau. Do cái thấy khác nhau, rồi không đồng ý với nhau nên sanh cãi rầy. Nguyên do là vì chúng ta không có nhận xét đúng đắn.
Đến cảm thọ sai biệt của lỗ tai. Thí dụ hai ba người bạn ngồi chơi, một người kể chuyện phải quấy trong xóm, rồi nói: Những người nghèo thật đáng thương. Người bạn khá giả nghe nói như vậy thì vẫn bình tĩnh, trong khi người bạn nghèo cho rằng mình bị khinh khi. Cùng nghe một câu chuyện, mà một người thì không bị xúc phạm, còn một người thì bị tự ái, bị mặc cảm. Lời nói có giá trị bằng nhau, nhưng khi nghe rồi sự cảm thọ khác nhau, nên sanh vui buồn khác nhau. Một người cho rằng không có chỉ trích người nghèo, một người cho rằng mình nghèo nên bị khinh khi, hai người không đồng ý nhau nên sanh cãi vã. Đó là do sự cảm thọ sai biệt của lỗ tai.
Sự cảm thọ của mũi có giống nhau không? Như người miền Nam nghe mùi sầu riêng nói: thơm quá! Nhưng người miền Trung bảo: hôi quá! Cùng một mùi sầu riêng người nói thơm, người nói hôi. Như vậy ai đúng? Người nói mùi sầu riêng là thơm sẽ cãi với người kia. Người nói mùi sầu riêng là hôi sẽ cãi lại. Hai người sẽ đi đến ẩu đả nhau. Ai đúng? Ai sai? Người bàng quan ngoại cuộc nếu ở miền Nam thì cho rằng người ngửi thơm là đúng, nếu ở miền Trung thì cho người ngửi hôi là đúng. Do sự huân tập khác nhau nên sự cảm thọ có sai biệt. Sự tranh cãi đúng sai thật là vô ích, không khôn chút nào hết, lại làm buồn lòng nhau, chẳng phải nguồn gốc của đau khổ sao? Buồn giận nhau, không ngó mặt nhau, gọi là oán tắng hội, đau khổ từ đó mà sanh.
Sự cảm thọ của lưỡi cũng khác nhau! Thí dụ cô đầu bếp làm thức ăn. Cô nấu canh nêm nếm đàng hoàng rất là vừa ý. Nhưng vì cô quen ăn mặn nên những người quen ăn lạt chê là nêm canh quá mặn. Cô đầu bếp tức giận nghĩ mình nấu nướng kỹ lưỡng, nêm nếm vừa ăn lắm mà còn bị chê trách! Chung qui chỉ vì thói quen của cái lưỡi người quen ăn mặn, người quen ăn lạt mà thôi. Người quen ăn mặn cảm thấy vừa miệng thì người quen ăn lạt cho là mặn và ngược lại, người quen ăn lạt cảm thấy vừa ăn thì người quen ăn mặn cho là lạt. Như vậy lấy đâu làm tiêu chuẩn? Vì sao lại cãi nhau cho sự cảm thọ của mình là đúng? Mỗi người có khẩu vị khác nhau. Cùng một thức ăn, người khen ngon, người chê dở. Người thích món ăn này, người thích món ăn kia, vì mỗi người có cảm thọ riêng biệt theo thói quen của mình. Chẳng những chúng ta có thói quen đời này mà còn cả thói quen của đời trước nữa. Thí dụ có người khi cha mẹ sanh ra chỉ ăn chay lạt, không ăn thịt cá được. Vì lý do gì? Có phải là cảm thọ quá khứ còn lại, nên không thích mùi thịt cá. Lại có người cha mẹ bảo ăn chay, thì thích dùng thức ăn mặn. Như vậy là do thói quen của mọi người, hoặc ở hiện tại, hoặc đã huân tập trong quá khứ. Chúng ta không nên chủ quan bắt buộc người khác phải giống mình. Nhưng ở trên thế gian này phần đông chúng ta đều chủ quan muốn ai cũng giống mình, nhất là con cái trong nhà. Nếu con trong nhà làm khác ý cha mẹ, cha mẹ sẽ bực tức giận trách rầy la, tạo bao điều đau khổ trong gia đình. Tất cả cũng do sự cảm thọ sai biệt mà ra.
Cảm thọ của thân như thế nào? Cũng riêng biệt tùy theo mỗi người. Thí dụ: Hai người ở chung một căn phòng, một người mập béo, một người gầy ốm. Căn phòng có một cửa sổ, khi trời vừa mát người gầy ốm cảm thấy lạnh vội đi đóng cửa sổ… Người mập béo nghĩ thế nào? Cảm thấy bực bội, khí trời nóng bức vừa dịu mát lại đóng cửa sổ, không giận sao được! Rồi hai người cãi vã nhau, có khi đi đến ẩu đả. Như vậy lẽ thật ở đâu? Đó là do cảm thọ sai biệt của thân nên người ta bất đồng ý với nhau rồi sanh bất hòa, đó là nguồn gốc đau khổ.
Thứ sáu là cảm thọ của ý. Điều này là quan trọng hơn hết. Cảm thọ của ý là gồm nghiệp của quá khứ và thói quen của hiện tại. Mỗi người chúng ta sống trong hoàn cảnh gia đình và xã hội khác nhau nên được sự giáo dục và hiểu biết khác nhau. Người thấy thế này là phải, người thấy thế kia là phải. Thí dụ: Một người sanh trong gia đình theo đạo Phật từ thuở bé, một người sanh trong gia đình theo đạo Chúa từ thuở bé. Hai người ngồi nói chuyện với nhau, do sự huân tập khác nhau nên có những cảm nghĩ khác nhau. Người tin Chúa cho đạo Chúa là đúng, không chấp nhận đạo Phật. Người tin Phật cho đạo Phật là hay, không chấp nhận đạo Chúa. Hai người tranh luận với nhau, có những quan điểm bất đồng, bực bội cãi vã lẫn nhau. Đó là nguồn gốc của đau khổ. Đến đời sống của vợ chồng trong gia đình cũng vậy. Người chồng có sự huân tập của người nam, lo việc rộng lớn ngoài xã hội, người vợ có sự huân tập của người nữ, lo việc tỉ mỉ trong nhà. Hai vợ chồng có hai huân tập khác nhau, nên thường không đồng ý kiến với nhau. Ai cũng thấy mình là đúng, người kia là sai, nên không ai chịu thua ai, cuối cùng đi đến ly dị, hậu quả là con phải chịu đau khổ! Nguyên do từ đâu? Chỉ do sự cảm thọ sai biệt, rồi chấp chặt cho quan niệm của mình là đúng, bắt người khác phải nghe phải thấy như mình, phải có những cảm nghĩ những hiểu biết như mình. Nếu không đồng ý nhau thì lắc đầu than thở: Sao không có ai là bạn tri kỷ với mình! Thử hỏi trên thế gian này có mấy người tri kỷ giống mình như một? Chắc là không rồi, vậy mà buộc lòng phải sống chung nhau thật là quá đau khổ!
Thế thì phải làm sao cho hết đau khổ! Chỉ đừng chấp nê là hết đau khổ! Cùng một mùi trái cây tôi ngửi cho là thơm cũng đúng, chị cho là hôi cũng đúng theo thói quen của mỗi người, như vậy hòa nhau, tránh được sự tranh cãi. Cùng một thức ăn chị nếm nghe mặn, tôi nghe lạt, cả hai đều đúng theo thói quen của cả hai, tất nhiên hòa nhau không có tranh cãi v.v… Nếu còn chủ trương sai biệt cho mình là đúng, người là sai, là còn tranh cãi, còn đau khổ. Nhận chịu sự đau khổ là khôn hay không khôn? Quả thật không khôn. Nhưng nếu ai bảo là mình ngu thì mình lại nổi giận lên, có phải là mâu thuẫn không? Nếu còn chấp nê là còn đau khổ. Hiểu như vậy rồi, chúng ta phải thông cảm với nhau, bỏ qua tất cả những sự sai biệt để sống hòa thuận với nhau từ trong gia đình đến ngoài xã hội. Nếu biết chấp nê là sai quấy thì phải mạnh dạn dẹp tự ái đến xin lỗi người, làm hòa với nhau thì cuộc đời sẽ bớt được nhiều đau khổ.
Những người đến tôi để thưa kiện, đều than không ai thông cảm với mình hết. Vì chấp sự cảm thọ của mình là đúng thì làm sao có người thông cảm với mình được! Nếu buông tất cả chấp nê thì mọi người đều thông cảm với mình. Chúng ta tu phải biết rõ lẽ thật đó, bỏ tất cả sự chấp nê do cảm thọ sai biệt, thì đau khổ tự dứt. Không phải cầu Phật ban cho điều gì, không phải cầu xin nơi miếu này lăng kia, mà phải biết rõ nguồn gốc của đau khổ là do sự cảm thọ sai biệt của sáu căn, rồi chấp chặt vào đó, rồi tranh đấu, giành giật, hơn thua với nhau, cuối cùng là đau khổ. Biết như vậy chúng ta buông xả tất cả sự chấp nê là chúng ta hết đau khổ.
Nguyên nhân thứ hai của đau khổ là đuổi theo thọ lạc. Hiện giờ chúng ta đang sống, ai cũng muốn cuộc đời được hạnh phúc. Thử hỏi quí vị cái gì là hạnh phúc? Chúng ta chỉ nói đến hạnh phúc mà không biết cái gì là hạnh phúc? Được ăn ngon, mặc đẹp là hạnh phúc chăng? Được nhiều tiền của, ở nhà to rộng là hạnh phúc chăng? Được những gì mình mong muốn là hạnh phúc chăng? Quí vị thử kiểm lại những điều đó có phải là hạnh phúc thật hay không? Con người ai cũng mơ ước hạnh phúc, mơ ước mãi mà không bao giờ toại nguyện. Vì sao? Thí dụ: Khi đang đói chúng ta nghĩ có một bữa cơm ngon, hạnh phúc biết mấy! Nhưng khi được bữa cơm ngon, ăn đầy đủ rồi, hạnh phúc còn không? Hạnh phúc qua mất rồi! Như vậy hạnh phúc chỉ có trong chốc lát thôi, rồi qua mất không còn. Đang đi bộ, chúng ta nghĩ được một chiếc xe đạp đi, chắc là hạnh phúc lắm. Nhưng khi được chiếc xe đạp đi lọc cọc ba bốn hôm rồi nó hư, lúc đó có hạnh phúc không? Như vậy hạnh phúc không bền, không thật, mà thế gian cứ đuổi theo cho nó là bền là thật! Hạnh phúc qua rồi mất, đuổi theo cái qua rồi mất thì hạnh phúc ấy quả là không thật. Biết hạnh phúc không thật mà chúng ta mơ ước nó hoài, thì mơ ước đó trở thành hão huyền.
Khi chúng ta mơ ước một điều gì, nghĩ rằng khi được nó hạnh phúc biết bao! Nhưng khi được rồi, còn hạnh phúc nữa không? Có gì hạnh phúc hơn, khi làm mệt nhọc được nằm nghỉ một chốc lát, hạnh phúc biết mấy? Nhưng nếu bị bắt buộc nằm một ngày, còn hạnh phúc hay không? Nếu nằm một ngày không được đi đâu, lúc ấy cũng bực bội. Thành thử hạnh phúc không có thật, nó chỉ có trong một giai đoạn nào thôi. Thí dụ chúng ta đang gánh gồng hết sức là nặng, nếu có ai đỡ gánh giùm mình, lúc ấy chúng ta cảm thấy nhẹ bổng lên, hạnh phúc biết mấy! Nhưng nếu hết gánh rồi đi một lúc, chúng ta không còn thấy hạnh phúc nữa. Như vậy hạnh phúc chỉ có trong chốc lát. Trong lúc khổ đau, qua được cơn khổ đau tạm gọi là hạnh phúc. Hạnh phúc là do qua cơn khổ đau, chớ nó không có thật. Cái không thật mà chúng ta tưởng chừng cả đời hưởng hoài thì làm sao có được.
Chúng ta hiện giờ mong mỏi ước mơ là mong mỏi ước mơ cái gì? Ước mơ hạnh phúc. Ước mơ hạnh phúc là ước mơ được: một là ăn ngon, hai là mặc đẹp, ba là được những nhu cầu sung túc, bốn là được tiền bạc dồi dào, năm là được gia đình sung sướng vui vẻ v.v… Những điều ước mơ đó được rồi mất, không còn nguyên vẹn mãi. Như vậy hạnh phúc có hay không? Chúng ta mong muốn những điều đó phải lâu bền mãi mãi, nhưng trên thế gian này đâu có điều gì lâu bền mãi mãi. Như vậy suốt cuộc đời mình bị chúng chỉ huy sai sử. Như mỗi sáng thức dậy, chúng ta chuẩn bị lo cho bữa ăn sáng, rồi đến bữa trưa và bữa chiều. Chúng ta chạy loanh quanh tìm kiếm những thức ăn cho vừa miệng, tức là suốt ngày chạy theo cái thọ lạc của lưỡi. Những thức ăn vừa miệng khi để vào lưỡi có cảm giác ngon, nhưng khi nuốt qua rồi cảm giác ấy không còn nữa. Như vậy mà chúng ta cứ chạy theo cái thọ lạc, chạy mãi không có ngày cùng, cho đến ngày nhắm mắt cũng chưa vừa ý.
Đến cảm thọ của lỗ mũi, lỗ tai, con mắt cũng vậy. Cái nhà nhìn thấy phải đẹp, chậu hoa, chậu kiểng phải vừa mắt v.v… Như vậy con người chạy tìm cái thọ lạc suốt cuộc đời không có ngày cùng. Thọ lạc là tạm bợ giả dối không thật. Đuổi theo thọ lạc tức là gởi gắm, hiến dâng đời mình cho cái giả dối. Vậy mà chúng ta thấy hài lòng chạy theo nó từ năm này sang năm khác, rồi cả một cuộc đời bị thọ lạc của sáu căn sai sử. Cả một cuộc đời chạy theo thọ lạc, nếu có ai ngăn chận thì nổi giận ngay. Thí dụ: Đi chợ thấy bó rau ngon, chúng ta vừa ngồi xuống lựa, chợt có người đến mua trước, thì cãi vã nhau liền. Có chậu kiểng đẹp chưa kịp hỏi giá, chợt có người khuân đi, chúng ta bực bội ngay. Chỉ vì thọ lạc của sáu căn mà chúng ta giành giật, hơn thua, tranh đấu với nhau cả đời không dứt. Có phải thọ lạc đã chỉ huy lôi cuốn cả cuộc đời mình không? Cũng vì thọ lạc mà chúng ta phải hận thù oán ghét lẫn nhau. Cảm thọ lạc nguyên là vô thường. Vì cái vô thường đó chúng ta lại gây chuyện hơn thua, phải quấy, tranh giành với nhau, có phải là việc làm đúng chân lý hay không? Vậy mà chúng ta bị nó chi phối hoàn toàn không còn giây phút nào rảnh rỗi. Quí vị thường nói: cả ngày tôi không rảnh, là tại sao? Chỉ vì đuổi theo thọ lạc: muốn ăn mặc vừa ý, muốn thấy nghe vừa ý v.v… rồi chúng ta xoay quanh hết ngày này đến tháng kia không rảnh phút nào. Cảm thọ đã chỉ huy cả một cuộc đời chúng ta, lại gây ra bao nhiêu hận thù đau khổ!
Ái cũng là nguồn gốc của khổ đau. Trong nhà Phật, ái chia làm ba thứ:
1. Ái ngã.
2. Ái thân thuộc.
3. Ái sự nghiệp tiền của.
Ái ngã là khổ. Có ai không tự thương mình đâu, dù mình có xấu đi nữa, con mắt lệch một bên hay lỗ mũi xẹp một chút, mình cũng thương mình. Nếu biết mình đẹp, thì mình càng thương mình hơn nữa, ái ngã chặt hơn nữa. Vì thương mình nên những gì mình muốn mà không được thì khổ. Như mình muốn trẻ nghe nói già là rầu, mình muốn khỏe mạnh mà bị bệnh hoạn là khổ, mình muốn sống lâu nghe nói sắp chết lại càng đau đớn. Vì quá thương mình cho nên bị bốn cái sanh già bệnh chết làm khổ. Ái ngã là gốc của bốn khổ vậy.
Ái thân thuộc có hai cái khổ. Một là ái biệt ly khổ. Vì quá thương người thân thuộc mà phải chia lìa nên chúng ta đau khổ. Có ái thì có tắng, tức là có yêu thì có ghét theo sau. Nên người nào yêu nhiều thì ghét cũng nhiều. Vì yêu nhiều nên người mình yêu mình thương tha thiết, người mình ghét mình cũng ghét đắng cay không muốn nhìn mặt. Vì vậy mình khổ với người mình thương bao nhiêu, mình cũng khổ với người mình ghét bấy nhiêu. Cho nên ái biệt ly khổ đi đôi với oán tắng hội khổ. Đó là hai cái khổ do ái thân thuộc.
Ái tài sản sự nghiệp cũng là nguồn gốc của đau khổ. Có ai muốn gia sản của mình càng ngày càng kiệt quệ đâu! Ai cũng muốn gia sản của mình càng ngày càng to lớn. Muốn mà không được như ý thì đau khổ, tức là cầu bất đắc khổ.
Như vậy quí vị thử kiểm điểm lại có phải tám cái khổ của chúng ta đều nằm trong ái mà ra: ái ngã, ái thân thuộc và ái sự nghiệp tiền của. Ái của mình cạn thì tám cái khổ theo đó mà chết.
Thấy rõ gốc của đau khổ, chúng ta phải làm cách nào nhổ cái gốc đó lên. Trong nhà Phật dạy muốn nhổ gốc của đau khổ, nghĩa là muốn dứt khổ, chúng ta phải thấy rõ bản chất của thọ và ái cho tường tận. Thử hỏi quí vị cảm thọ khổ và cảm thọ vui có thật hay không? Cảm thọ của sáu căn qua rồi mất, đâu có thật! Thí dụ một bài hát thật là hay, khi nghe qua lỗ tai rất là thích thú, nhưng nghe hát qua rồi mất, đâu còn mãi bên tai. Một thức ăn ngon ăn rất vừa miệng, nhưng khi qua lưỡi rồi cũng mất, có còn mãi đâu v.v… Bản chất của tất cả cảm thọ là vô thường, tức là tạm bợ giả dối. Biết rõ cảm thọ là vô thường giả dối, chúng ta ưng làm tớ đuổi theo nó, hay muốn làm chủ không lệ thuộc vào cảm thọ? Nếu giành được quyền làm chủ cảm thọ thì vui, nếu bị cảm thọ làm chủ thì khổ. Quí vị nên can đảm chọn quyền làm chủ cảm thọ thì trọn một năm nay nhất định quí vị hết khổ, hoàn toàn an lạc.
Bản chất của ái có thật hay không? Ái là thương, thương yêu là nghĩ tới thân này nó lâu dài bền bỉ, nhưng bản chất của thân là vô thường. Thương yêu nó chỉ là thương yêu cái tạm bợ mà thôi. Thương yêu sự nghiệp cũng vậy, sự nghiệp là vô thường, thương yêu thân thuộc, thân thuộc cũng là vô thường. Những điều mình thương yêu đó đều vô thường, không có bền lâu. Chúng ta lại thương yêu những cái vô thường hay sao? Hay là chúng ta thương yêu cái gì lâu dài vĩnh cửu? Thí dụ khi đi chợ mua những vật cần dùng quí vị chọn những thứ bền tốt hay những thứ tạm tạm xài vài ba hôm rồi lại hư? Dĩ nhiên chúng ta lựa những vật dùng bền tốt, những gì tạm tạm chúng ta không mua. Cũng như vậy, biết thân là vô thường, sự nghiệp là vô thường, những người thân thuộc là vô thường, chúng ta ôm ấp thương yêu chúng nó để làm gì? Khi những giọt mưa từ mái nhà rơi xuống nổi lên những bong bóng lóng lánh, quí vị thương chúng nó hay không? Nếu thương, chúng nó bể thì sao? Bong bóng nước cũng lóng lánh, hạt kim cương cũng lóng lánh, cả hai đều lóng lánh, quí vị thương cái nào hơn? - Thương hạt kim cương hơn, tại sao? Vì nó lâu bền. Chúng ta thương cái gì lâu bền. Như vậy thân này vô thường, sự nghiệp vô thường, những người thân thuộc của mình cũng vô thường thì mình phải thương hay không? Mình thương cái nào không vô thường, cái giải thoát không sanh tử, đó mới là cái mình thương. Những cái vô thường chúng ta thương hoài cũng không được gì, vì chúng nó sẽ hoại và sẽ mất. Chúng ta đeo đuổi cưu mang cái vô thường, hay đeo đuổi cưu mang cái thoát khỏi vô thường? Có một cái thoát khỏi vô thường chúng ta không thương, lại thương cái vô thường làm gì?
Chúng ta học đạo phải dùng trí nhận xét thấy cái gì bản chất là vô thường là tạm bợ thì cái đó không có giá trị, qua rồi mất mà có giá trị gì! Đã không giá trị, chúng ta đeo đuổi, cưu mang nó làm gì? Cái làm cho mình được mãi mãi an vui tự tại giải thoát, cái đó mới là chân thật. Biết cái vô thường rồi, chúng ta phải xoay lại cái chân thật vĩnh cửu. Khi trước, chúng tôi hay kể câu chuyện “Cô Công chúa nũng nịu”. Thuở xưa có cô Công chúa rất được vua cha yêu quí. Một hôm nhân buổi trời mưa, Công chúa ngồi nhìn những giọt nước từ mái nhà rơi xuống, làm nổi lên những bong bóng rất đẹp, Công chúa thích quá nhưng không nói, vì bản chất hay làm nũng Công chúa vào phòng nằm, mặt mày ủ dột. Nhà vua có Công chúa là con duy nhất, thương con vô cùng. Đến giờ cơm, thấy con không ra dùng bữa, nhà vua nóng ruột vào phòng thăm hỏi: Con ốm hay sao, không ra dùng cơm? Công chúa không trả lời. Đến lượt Hoàng hậu vào năn nỉ, Công chúa cũng không đáp lại. Hỏi han nài nỉ mãi, sau cùng Công chúa nũng nịu thưa: “Con muốn có xâu chuỗi bong bóng nước đeo vào cổ, con mới hết bệnh.” Vua cha chiều con rất mực. Nghĩ mình là vua muốn gì lại chẳng được, nhà vua bèn ra lệnh cho tất cả quần thần: “Ai kết được xâu chuỗi bằng bong bóng nước cho Công chúa đeo thì sẽ được phong quan tước, chia đất đai cho.” Đăng bảng lâu ngày mà không ai dám lãnh. Sau cùng có một ông lão đến gỡ bảng, nhận xâu một chuỗi bong bóng nước cho Công chúa đeo. Ông lão được giới thiệu với Công chúa. Nàng rất đỗi vui mừng nói: “Nếu lão xâu cho tôi chuỗi bong bóng nước để đeo, tôi sẽ hết bệnh ngay.” Ông lão nói: “Thưa thật với Công chúa, tôi già, con mắt lờ, nên lựa không được những hạt bong bóng đẹp. Vậy ngày mai, khi trời mưa, tôi mời Công chúa ra mái hiên chọn những hạt bong bóng nào đẹp nhất, Công chúa lượm đưa tôi xâu cho.” Sáng hôm sau, trời mưa, ông lão và nàng Công chúa ra mái nhà, những giọt mưa từ trên rơi xuống nổi bong bóng, Công chúa đưa tay vớt lấy…, vớt mãi đến trưa mà không được hạt nào! Ông lão đứng chờ, chờ mãi không có hạt bong bóng nào để xâu! Cuối cùng, quá mệt mỏi Công chúa nói: “Thôi, tôi không thích bong bóng này nữa.” Nhà vua mừng quá bảo: “Để ta cho con xâu chuỗi bằng kim cương con đeo.”
Ý nghĩa câu chuyện vừa kể như thế nào?
Tất cả chúng ta có phải là Công chúa đó không? Chúng ta cứ nắm bắt những ảo ảnh vô thường, nắm bắt mãi cả đời mệt nhoài mà chẳng được gì. Rồi chúng ta vào chùa cầu xin Phật cứu con. Đức Phật sẵn lòng từ bi cứu độ, cho chuỗi kim cương thứ thật. Chúng ta chỉ chịu nhận thứ thật khi nào chúng ta đã mệt nhoài với những thứ tạm bợ hư dối. Đức Phật tuy lấy ví dụ một câu chuyện rất trẻ nhỏ nhưng đúng với bệnh của chúng sanh. Chúng ta giống y nàng Công chúa đó. Khi chúng ta thức tỉnh biết trở về với Phật, Phật sẽ chỉ cho chúng ta cái chân thật. Nếu chúng ta sống được với nó, cái chân thật ấy còn mãi, không bao giờ mất.
Người Phật tử muốn hết khổ phải thấy rõ bản chất của đau khổ không có thật. Bản chất của đau khổ là ái và thọ, cả hai đều không thật. Càng đuổi theo chúng càng đau khổ thôi. Nếu biết dừng lại, đau khổ sẽ bớt từ từ cho đến một ngày nào chúng ta lìa hẳn nó, không còn đau khổ nữa.
Nhân nghe câu nào trong kinh Kim Cang mà Lục Tổ ngộ đạo? Trong kinh Kim Cang, Phật dạy phương pháp an trụ tâm: “Bất ưng trụ sắc sanh tâm, bất ưng trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp sanh tâm, ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm.” Ngay đây Lục Tổ ngộ, rồi từ đó về sau Ngài hết khổ luôn. Muốn sanh tâm cầu Vô thượng Bồ-đề thì đừng dính với sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Sáu trần không dính là an trụ tâm. Đó là hạnh phúc tuyệt vời. Nếu còn dính với sáu trần là còn bất an, còn đau khổ. Nếu chúng ta không kẹt không chấp vào cảm thọ của sáu căn, tức là chúng ta được giải thoát.
Cũng chính trong kinh Kim Cang đức Phật có dạy: “Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng, nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Những gì có tướng đều là vô thường, vô thường là tạm bợ, hư dối. Nếu thấy các tướng không phải tướng là thấy Phật. Tại sao? Tỉ dụ hiện giờ thấy một món vật đẹp, chúng ta biết rõ nó là duyên hợp hư dối; một vật gì quí, nó là duyên hợp hư dối, một thức ăn ngon, nó là duyên hợp hư dối. Biết rõ được như vậy, đó là có trí tuệ giác ngộ. Trí tuệ giác ngộ tức là Phật. Thấy tất cả tướng không phải tướng tức là thấy tất cả vật đều không thật, tất cả đều là duyên hợp hư dối. Thấy rõ như thế là thấy Phật, không phải tìm Phật ở đâu xa. Nếu thấy Phật thì hết khổ.
Để kết luận chúng tôi xin nhắc tất cả quí vị, nếu muốn hết khổ chúng ta phải biết rõ bản chất của thọ và ái là vô thường, hư dối. Chúng ta phải diệt hết, nhổ sạch gốc của thọ và ái, thì ngang đó chúng ta được an lạc. Niềm vui không phải từ bên ngoài đem đến, không phải do sự giàu sang sung sướng lắm tiền nhiều của, mà vui vì biết phá bỏ những mê chấp sai lầm. Buông bỏ những sai lầm, đó là trí tuệ tỉnh giác, đó tức là Phật. Tu theo Phật cốt để giác ngộ. Giác ngộ cho nên không lầm không mê, tức nhiên không khổ. Hết ngu mê là sáng suốt, sáng suốt tức là hết khổ.
Nhân ngày đầu xuân năm Đinh Mão, tất cả quí vị đến đây lễ Phật và chúc mừng quí Thầy, quí Thầy cũng chúc tất cả quí Phật tử sang năm mới này hãy can đảm bỏ đi những chấp thọ và buông đi những ái trước. Chấp thọ và ái trước buông bỏ thì nguồn đau khổ cạn, gốc đau khổ được bứng tung lên, ngang đó quí vị sẽ hết khổ. Vì vậy chúng tôi chúc quí vị một năm mới hoàn toàn an lạc sau khi bứng tận cội gốc khổ đau.
HOÀ QUANG ĐỒNG TRẦN
Tất niên Đinh Mão - 1988
Hôm nay là ngày hai mươi chín tháng chạp, ngày tất niên của Thiền viện chúng ta. Trong buổi tất niên này, chúng tôi có bổn phận phải nhắc nhở những ưu khuyết điểm trên đường tu của chúng ta. Đặc biệt những khuyết điểm thường được nhắc nhiều hơn để chúng ta tu sửa, làm sao mỗi một năm qua ta dứt sạch những bệnh hoạn, chuẩn bị cho năm tới có sức mạnh tiến tu, không còn bệnh hoạn nữa.
Đề tài chúng tôi giảng hôm nay là Hoà quang đồng trần. “Hoà quang” là hoà ánh sáng, “đồng trần” là đồng với bụi bặm, tức là trộn lẫn ánh sáng vào với bụi bặm. Tại sao chúng tôi giảng đề tài này? Gần đây một số Tăng Ni cũng như Phật tử có bệnh: Thấy mình trong sạch, thấy mình tu nhiều, thấy mình tốt hơn mọi người. Vì thấy như vậy nên trở thành bệnh hoạn. Trong cách thấy đó chia ra hai thứ bệnh:
Bệnh thứ nhất, chính mình không trong sạch mà tưởng mình trong sạch, rồi cho mọi người là bẩn thỉu nhơ nhớp, chỉ có ta trong sạch thôi. Nếu không trong sạch mà tưởng mình trong sạch, đó là bệnh quá lớn. Tại sao vậy? Bởi vì mình không biết điểm khuyết điểm dở của mình, mà chấp điểm khuyết điểm dở của bạn bè huynh đệ. Như vậy tự mình không sửa được, lại còn oán trách những người chung quanh. Người mang bệnh này, bản thân đã không tu tiến được, còn làm cho huynh đệ phiền não. Đó là bệnh rất nặng, rất đáng chê trách. Kinh Phật và chư Tổ thường dạy chúng ta, người tu tại gia hay xuất gia, phải thấy được lỗi của mình và quên lỗi của người khác. Nếu chúng ta không trong sạch mà tự thấy mình trong sạch, đó là không thấy lỗi mình. Đừng thấy lỗi người, mà chúng ta cứ thấy người này xấu người kia dở, đó là chúng ta trái hẳn với lời Phật Tổ dạy. Ai mang bệnh này là một bệnh trầm trọng nhất, khó tiến trên đường tu. Người mang bệnh này có bằng lòng ai đâu! Vì thấy mình trong sạch, mọi người đều xấu dở, cho nên không bằng lòng ai hết.
Bệnh thứ hai, mình thật sự trong sạch rồi chê mọi người nhơ nhớp xấu xa. Lẽ ra mình trong sạch biết mình trong sạch, người khác nhơ nhớp xấu xa thấy họ nhơ nhớp, xấu xa, đó là thấy đúng lẽ thật, vì sao lại nói là bệnh? Vì khi chúng ta trong sạch, thấy mình trong sạch rồi cho mọi người nhơ nhớp xấu xa thì chúng ta muốn gần họ hay không? Mình sạch quá mà gần người dơ xấu thì bị nhiễm làm sao! Vì vậy không muốn gần ai. Nếu không muốn gần ai thì làm sao sống được với người chung quanh. Đó là bệnh. Trên đường tu, chúng ta cố gắng trong sạch bản thân rồi, thấy mọi người đều nhơ xấu nên muốn tránh. Muốn tránh mọi người thì đi đâu đây? Vô núi chăng? Vô núi không ở được thì đi đâu nữa? Vô rừng. Vô rừng không ở được thì đi đâu nữa? Chẳng lẽ lên mây xanh? Chính vì nhìn thấy người xấu xa nhơ nhớp mà chúng ta không thể hoà được, rồi tự khu biệt mình. Sống giữa rừng người mà giống như ở trong sa mạc. Trong nhà Phật gọi đó là bệnh thanh tịnh.
Vào đầu thế kỷ thứ ba ở Trung Hoa có ông Khuất Nguyên là quan Tam lư, Đại phu nước Sở, học rộng có tài nhưng vì thấy mình trong sạch quá nên không hoà được với mọi người, khinh rẻ mọi người. Vì vậy ông làm mất lòng vua Sở, bị vua Sở đày xuống Giang Nam. Ở Giang Nam, ông có quen với một ngư phủ là một ẩn sĩ có tài. Khi hai người nói chuyện với nhau, ngư phủ phục Khuất Nguyên về văn học, Khuất Nguyên nể ngư phủ là người thấu đáo việc đời. Một hôm thấy Khuất Nguyên tỏ vẻ buồn bực khổ não, ngư phủ mới hỏi: “Ngài vì sao đến nông nỗi như vậy?” Khuất Nguyên trả lời: “Người đời đục cả chỉ mình ta trong, người đời say cả, chỉ mình ta tỉnh, vì thế mà ta bị đày tới đây.” Khuất Nguyên thấy người đời đục cả chỉ mình ông trong, người đời say cả chỉ mình ông tỉnh. Bởi ông trong, ông tỉnh nên ông bị đày! Khi đó ngư phủ mới nói: “Người đời đục thì Ngài cũng không nên giữ mình trong sạch, người đời say thì Ngài cũng nên uống vài chén cho say luôn thể.” Nghe nói thế Khuất Nguyên bực bội: “Ông nói sao vậy? Không thể nói trắng thành đen hay đen thành trắng được, đá không thể nói là ngọc, ngọc không thể là đá được. Cho đến người trượng phu không thể là kẻ tiểu nhân, kẻ tiểu nhân không thể là trượng phu. Ông nói như vậy thật là lộn lạo!” Ngư phủ mới nói: “Ngài đã một lòng cứu nước, cứu dân, lẽ ra phải trà trộn vào đám tiểu nhân, dần dần cảm hóa họ. Ngài định thay đổi cuộc đời, phải dấn thân vào chỗ tối tăm làm cho sáng. Cớ sao lại cho cuộc đời là bẩn thỉu, người đời là nhơ nhớp?” Khuất Nguyên đáp lại: “Kẻ đã tắm gội thay quần áo, không thể lại nhảy xuống bùn.” Ông cho rằng mình như người tắm gội sạch rồi, mà bắt nhảy xuống bùn, ông không thể làm được. Khi ấy ngư phủ thấy không thể khuyên được nên than bằng những câu hát:
Nước sông Thương Lang trong thay!
Nước sông Thương Lang đục thay!
Nước trong thì ta giặt giải mũ,
Nước đục thì ta rửa chân.
Hát xong, ông chèo thuyền đi. Khuất Nguyên vì quá trong sạch, không chịu đựng nổi, phải ôm viên đá gieo mình xuống sông Mịch La tự tử, nhằm ngày mùng năm tháng năm. Người dân Trung Hoa ăn Tết ngày mùng năm tháng năm để tưởng nhớ ngày Khuất Nguyên trầm mình chết.
Qua câu chuyện trên, chúng ta thấy Khuất Nguyên bị bệnh gì? Bệnh thanh tịnh. Vì ông trong sạch nên không muốn hoà với những người nhơ nhớp xấu xa. Nếu không hoà thì mình sống được không? Cuối cùng phải đi tự tử! Như vậy Khuất Nguyên và ngư phủ, ai là người biết sống hơn? Ông ngư phủ là người biết sống. Nếu nước trong thì mình giặt giải mũ, nếu nước đục thì mình rửa chân. Đòi hỏi nước trong, khi nước đục, mình sẽ không dùng được việc gì.
Trở lại việc đạo, đức Phật đã dạy, nếu chúng ta tu hành được thanh tịnh sáng suốt, thì phải thương và nghĩ tới những chúng sanh đang mê lầm, chìm đắm trong biển khổ, lao mình vào đó để cứu độ chúng sanh. Được như vậy mới là người thật tình vì Phật pháp. Nếu cứ nghĩ mình trong sạch, còn thiên hạ xấu xa nhơ bẩn, rồi không muốn gần họ. Không gần với họ thì chính mình tự cô lập mình, không làm lợi gì cho ai được. Trong chúng ta nếu ai đã lỡ bị “bệnh trong sạch”, phải sửa bỏ để vui vẻ hoà nhịp với mọi người.
Chúng tôi vừa chỉ thuốc trị bệnh, nhưng không khéo thuốc cũng thành bệnh. Tại sao? Hoà mình với người là khi mình trong sạch, đem trong sạch ra hoà với những người nhơ nhớp để giáo hóa, chuyển hướng họ trở thành trong sạch như mình. Đó là dùng thuốc trị bệnh. Nếu mình chưa trong sạch mà muốn hoà với người thì kết quả sẽ ra sao? Hoà quang đồng trần, “quang” là ánh sáng, là trong sạch, “trần” là bụi bặm, là nhơ nhớp. Mình sáng, mới đem ánh sáng lại chỗ nhơ nhớp để chuyển nó thành sáng. Nếu mình đang là bụi, đang là nhơ nhớp mà hoà với nhơ nhớp nữa thì kết quả sẽ như thế nào? Thuốc trở thành bệnh. Vì vậy khi dùng thuốc trị bệnh chúng ta phải dè dặt. Nếu mình thật thanh tịnh, phải thương người chưa thanh tịnh, hoà với họ để giáo hóa họ. Chớ thở than rằng mọi người xấu quá làm sao giáo hóa được, mọi người mê quá làm sao cho họ tỉnh được. Mình đã tỉnh, phải tìm mọi cách làm cho người mê được tỉnh; mình đã sạch, phải tìm mọi cách làm cho người nhơ được sạch. Như vậy mới đúng tinh thần của người học đạo, mà cũng chính là nghĩa tự giác giác tha trong nhà Phật.
Nếu thấy người quá xấu xa, chúng ta thở dài chán nản, không bằng lòng ai hết, đó là bệnh. Để trị bệnh này, chúng ta không học gương ông ngư phủ mà phải học gương ngài Bồ-tát Thường Bất Khinh. Bồ-tát gặp ai cũng bái và nói: “Tôi không dám khinh các ngài vì các ngài đều sẽ thành Phật.” Dưới mắt của Bồ-tát Thường Bất Khinh, ai cũng có thể thành Phật. Như vậy có người nào đáng để mình khinh chê đâu. Đáng chê chăng là tự chê mình không có tài, không có phương tiện chuyển hóa người từ mê thành giác. Bồ-tát Thường Bất Khinh lúc nào cũng lạc quan, vì Ngài thấy mọi người đều sẽ thành Phật. Noi gương Ngài, chúng ta gặp ai cũng phải kính nể vì tin rằng ai rồi cũng sẽ thành Phật. Với niềm tin đó, chúng ta cố gắng chuyển hóa mọi người để cùng thành Phật với mình. Dù người không bằng lòng, có đánh mắng, chúng ta vẫn cam chịu và giữ vững niềm tin. Chúng ta cố gắng làm lợi mình, lợi người trong mọi hoàn cảnh. Đó mới đúng tinh thần của người học đạo.
Tranh Thiền tông “Thập mục ngưu đồ” hay “Mười bức tranh chăn trâu”, bức thứ tám là không còn người không còn trâu, bức thứ chín là lá rụng về cội, chim bay về tổ, nước chảy về nguồn, danh từ nhà thiền gọi là nhập Phật giới. Từ chỗ không ngã không pháp (bức tranh thứ tám) bước qua một chặng nữa mới thể nhập được Pháp thân thanh tịnh tràn đầy của chúng ta, gọi là nhập Phật giới (bức tranh thứ chín). Khi chúng ta thể nhập được Pháp thân thanh tịnh rồi, nếu hài lòng ẩn trú trong cảnh tịnh đó là chưa đủ công đức giáo hóa lợi tha. Vì vậy sau khi nhập Phật giới rồi liền phải bước vào ma giới (bức tranh thứ mười). Trong mười bức tranh chăn trâu, bức thứ mười vẽ một Thiền sư đóng cửa am trên núi, tay cầm gậy, tay xách xâu cá chép với bầu rượu đi xuống chợ, gọi là “Nhập triền thùy thủ” tức là buông thõng tay vào chợ. Chính chỗ đó trong nhà thiền gọi là vào ma giới. Khi được thanh tịnh rồi, chúng ta phải lăn mình vào trong chợ đời để cảm hóa chúng sanh, hoà mình với mọi người còn đang mê muội, còn đang xấu xa mà không bị lầm lẫn, không bị hoen ố. Trong nhà thiền còn dùng danh từ là “đầu tro mặt đất”, tức là chúng ta bị bụi bặm nhem nhuốc vì làm lợi ích chúng sanh, chớ không phải chính mình bị bụi bặm làm nhơ nhớp. Giai đoạn này gọi là “hoà quang đồng trần”, tức trộn lẫn ánh sáng trong bụi bặm. Ánh sáng và bụi bặm tuy hoà lẫn, nhưng là một hay là hai? Ánh sáng không là bụi bặm được, ánh sáng bao giờ cũng là ánh sáng. Như vậy chúng ta phải thể nhập được Phật giới rồi mới đi vào ma giới. Nếu chưa vào Phật giới mà đi vào ma giới sớm quá, kết quả sẽ ra sao? Vì vậy sau khi ngộ đạo rồi, ngài Huệ Khả mới đi vào chợ đời, đến quán rượu, nhà hát v.v… Các Phật tử thấy vậy hỏi Ngài: “Hoà thượng tu hành, sao lại đến nơi này?” Ngài đáp: “Ta thử tâm ta, có liên hệ gì đến ông!” Đây là lúc Ngài vào ma giới.
Chúng ta phải thấy rõ là khi nào nên vào ma giới, khi nào không nên. Như chúng ta hiện nay chưa thấy đạo mà vào ma giới là bệnh. Khi chúng ta nhập được Phật giới rồi mới nói đến việc vào ma giới. Nhiều người chưa biết Phật giới, muốn vào ma giới sớm quá, bắt chước các bậc đạt đạo vào chợ đời, ngồi quán rượu và nói “tôi đây vào ma giới, buông thõng tay vào chợ”. Đó là những người dùng ngôn ngữ nhà thiền, ngôn ngữ Phật Tổ để che đậy lòng tham dục của chính mình, chớ không phải người tu chân thật.
Rõ được bệnh, chúng ta phải biết dùng những loại thuốc nào đúng lúc đúng lượng mới mong hết bệnh. Nếu không biết cách dùng thuốc, bệnh không hết mà lại tăng thêm. Trên đường tu hành chúng ta phải biết nên làm gì ở mỗi giai đoạn. Đang lúc nỗ lực tiến tu, buông bỏ các phiền não xấu xa, dù có ai rủ vào ma giới, chúng ta cũng không dám vào, vì việc tu chưa xong. Khi nào chúng ta thật tình thanh tịnh, hoàn toàn không còn nhiễm ô nữa, lúc ấy nếu có ai rủ vào ma giới, chính là lúc mình vào. Phải biết mình cho thật rõ, việc làm mới có lợi ích.
Chúng tôi vừa chỉ cho quí vị biết đâu là thuốc, đâu là bệnh, dùng thuốc đúng thời thì có lợi, nếu sai thời có hại. Vì vậy người tu phải rất thận trọng. Có nhiều người ban đầu tu hành rất hay, sau trở thành dở, vì sử dụng thuốc không đúng thời.
Nói vào ma giới, chúng tôi xin dẫn bài kệ “Nhập Trần” của Tuệ Trung Thượng Sĩ như sau:
Thiều thiều khoát bộ nhập trần lai,
Hoàng sắc mi đầu đỉnh đỉnh khai.
Bắc lí ưu du đầu mã phúc,
Đông gia tán đản nhập lư thai.
Kim tiên đả sấn nê ngưu tẩu,
Thiết sách khiên trừu thạch hổ hồi.
Tự đắc nhất triêu phong giải đống,
Bách hoa nhưng cựu lệ xuân đài.
Dịch:
Vào vòng cát bụi
Vào vòng cát bụi nhịp chân đưa,
Vàng óng đầu mi rực rỡ đùa.
Xóm bắc rong chơi gieo bụng ngựa,
Nhà đông vui bước nhập thai lừa.
Roi vàng đánh đuổi trâu bùn chạy,
Dây sắt lôi về cọp đá thua.
Bỗng được một hôm băng giá hết,
Trăm hoa như cũ rộn xuân xưa.
Trúc Thiên dịch.
Ngài Tuệ Trung Thượng Sĩ là một cư sĩ tại gia, mà đã nói được những câu siêu thoát như vậy! Sau đây là ý nghĩa của bài kệ:
Vào vòng cát bụi là vào ma giới.
Vào vòng cát bụi nhịp chân đưa: là chỉ hình ảnh vị Hoà thượng tay xách xâu cá chép đi vào chợ (Tranh Thiền tông thứ 10).
Vàng óng đầu mi rực rỡ đùa: tuy đi vào cát bụi nhưng đầu mi đầu mày của ngài vẫn rực rỡ, óng ánh chớ không nhem nhuốc đen tối. Câu này nói lên nghĩa “hoà quang đồng trần”, đem ánh sáng đến chỗ tối tăm (chớ không phải đem cái tối vào bóng tối).
Xóm bắc rong chơi gieo bụng ngựa: đến xóm bắc để nhập vào trong bụng ngựa thọ thai.
Nhà đông vui bước nhập thai lừa: nhập vào thai lừa ở bên nhà đông.
Hai câu này ý nói: Khi vào trong vòng cát bụi, không chọn nơi tốt, không tránh nơi xấu, nơi đâu cần làm lợi ích chúng sanh, các ngài cũng đến được. Không chọn lựa, không chê nơi xấu dở, các ngài vào những chỗ ấy để làm gì?
Roi vàng đánh đuổi trâu bùn chạy, dây sắt lôi về cọp đá thua: cầm roi vàng đánh con trâu đất, nó cũng chạy mịt. Nắm dây sắt kéo con cọp đá, cọp đá cũng phải đầu hàng. Trâu đất có biết chạy không? Cọp đá có phục ai không? Tại sao ở đây lại nói đánh trâu đất chạy, lôi cọp đá thua? Ý nói khi đến được thể thanh tịnh sáng suốt tròn đầy, chúng ta lăn mình vào cuộc đời để giáo hóa chúng sanh. Lúc ấy chúng ta diệu dụng, không phải là tầm thường, cho nên trong nhà thiền thường nói nắm đất hóa thành vàng, khuấy nước biển thành đề-hồ, tô-lạc. Khi con người đạt đến mức đó rồi, dù ở trong cảnh xấu xa bẩn thỉu cũng không bị vướng mắc, hay bị che lấp mờ lối đi. Hình ảnh đánh trâu đất chạy, lôi cọp đá thua là để chỉ diệu dụng không thể lường được của người đạt đạo.
Đến hai câu kết:
Bỗng được một hôm băng giá hết: công dụng giáo hóa được viên mãn (tức là băng giá đã hết).
Trăm hoa như cũ rộn xuân xưa: lúc đó là một mùa Xuân đầy đủ trăm hoa như thuở nào.
Đại ý bài kệ nói khi chúng ta lao mình trong cát bụi tuy làm những việc rất tầm thường, rất xấu xa mà đầy đủ diệu dụng, chớ không bị nhiễm, không bị ô uế. Làm tròn những việc ấy rồi, chúng ta cũng trở về với thể thanh tịnh sáng suốt như thuở nào, tức là trở về chỗ mùa Xuân ngàn đời, đầy đủ trăm hoa không thiếu loại nào.
Trên đường tu nếu ai cũng thể hiện được tinh thần đạt đạo thì cuộc đời đẹp biết dường nào! Đâu còn phải than vắn thở dài, thiên hạ xấu quá tôi không thể giúp gì cho họ được, trái lại ta thấy mỗi chúng sanh đều có thể giáo hóa được. Chúng ta nỗ lực tiến tu để đến chỗ viên mãn thanh tịnh. Được thanh tịnh rồi, chính trong chỗ ô uế, xấu xa chúng ta dùng những diệu dụng không lường cảm hóa họ. Được như vậy, chúng ta an nhiên tự tại an trú Niết-bàn, thể nhập Pháp thân, trở về mùa Xuân tràn đầy hoa thơm cỏ lạ.
Để kết luận, tất cả quí vị nên nhớ: Chúng ta có hai bệnh. Một là bệnh chưa thanh tịnh mà tưởng mình thanh tịnh, rồi chê hết mọi người, đó là bệnh nan y. Ai bị bệnh này, phải sám hối một ngày bốn lần, chớ một hay hai lần cũng chưa hết bệnh được. Hai là nếu thật tình tu hành chín chắn, giữ giới trong sạch, ngôn ngữ hành động đều thanh tịnh, tâm niệm rất sáng suốt, rồi nhìn thấy mọi người còn dở, còn xấu quá nên muốn tách rời họ, muốn tránh xa họ để sự thanh tịnh của mình được trọn vẹn, đó cũng là bệnh. Vì sao? Vì trên cuộc đời này, chúng ta đều có sự liên hệ với nhau. Nếu chúng ta chỉ thấy riêng có một mình, không chịu kết chung với mọi người để chuyển hóa họ, đó là chúng ta tách rời mình ra khỏi nhân loại, ra khỏi chúng sanh. Tách riêng ra như vậy, e rồi chúng ta rơi xuống biển sâu, không đứng trên thế gian, không đứng trên mặt đất được. Vì vậy chúng ta ráng đừng bị bệnh thanh tịnh này. Còn một bệnh nữa là bệnh chưa thanh tịnh mà xưng là thanh tịnh rồi xông pha mọi nơi. Càng xông pha càng nhiễm ô, rốt cuộc một ngày nào đó mình làm kẻ tệ hơn tất cả thiên hạ, không phương cứu chữa.
Chúng tôi mong rằng tất cả Tăng Ni và Phật tử biết tu phải ráng tỉnh sáng, biết đúng thời, đúng lúc dùng thuốc trị tâm bệnh của mình. Sạch được những bệnh trong tâm rồi, một ngày kia chúng ta mới có thể làm tròn bổn phận của người xuất gia, của người tu theo đạo giác ngộ giải thoát. Đó là điều mong mỏi cuối năm của chúng tôi. Mong tất cả quí vị nỗ lực cố gắng.
TINH THẦN GIẢI THOÁT
TRONG GIÁO LÝ PHẬT-ĐÀ
Xuân Mậu Thìn - 1988
Hôm nay là ngày Tết Nguyên Đán năm Mậu Thìn, tất cả Tăng Ni và Phật tử về đây mừng tuổi chúng tôi. Chúng tôi nghĩ mồng một Tết không gì hơn là nhắc lại mục đích tối thượng của người tu Phật. “Ôn cố tri tân” là nhắc lại việc cũ để cùng nhớ, biết những điều mới để chúng ta thực hiện cho kỳ được. Đề tài chúng tôi nói hôm nay là Giải thoát.
Trong kinh đức Phật đã dạy: “Tất cả nước biển chỉ có một vị là vị mặn, tất cả giáo pháp của ta chỉ có một vị là vị giải thoát.” Như vậy mục tiêu tối thượng của người tu Phật là lấy sự giải thoát làm cứu kính. Nếu không nắm vững ý nghĩa giải thoát thì trên đường tu chúng ta khó đạt được mục đích của mình. Giải thoát là giải thoát những gì?
Nói đến giải thoát, chúng ta phải thấy nghĩa trái của nó. Trái với giải thoát là gì? Là triền phược tức trói buộc. Vì thấy bị trói buộc nên chúng ta cầu giải thoát. Trong vòng vây của phiền não, không làm sao tự thoát ra được nên chúng ta phải nương giáo pháp đức Thế Tôn chỉ dạy để thoát khỏi trần lao phiền não. Giải thoát có nghĩa là cởi mở, là mở trói, là tự do. Khi ở trong hoàn cảnh bị trói buộc, chúng ta khao khát được cởi mở. Ở trong hoàn cảnh bị gò bó hết sức chật hẹp, chúng ta muốn được tự do, được thoát ra ngoài. Vì vậy nói đến giải thoát là khi đang bị bủa vây ép ngặt, chớ không phải đang tự do tự tại. Bủa vây ép ngặt tức nhiên là khổ đau. Nói rõ hơn ý nghĩa giải thoát là giải thoát nỗi khổ đau của kiếp người.
Đi sâu vào vấn đề giải thoát, tại sao chúng ta cầu giải thoát? Và giải thoát như thế nào? Chúng ta phải nhìn thật kỹ, thấy thật rõ những điều đang trói buộc, đang làm mình đau khổ để từ đó cầu giải thoát. Mỗi khi lễ Phật nguyện hương, chúng ta đều nguyện đức Thế Tôn gia bị cho chúng con giải thoát hết khổ đau, dẹp sạch hết phiền não. Như vậy dẹp phiền não, dứt khổ đau là nhờ sự gia bị của đức Phật. Nhưng sự thật đức Phật có làm cho chúng ta giải thoát được không? Đó là một vấn đề. Hơn nữa, có nhiều người nghĩ rằng nói tới giải thoát là nói một việc gì xa xôi cao cả lắm, mình không bao giờ với tới được. Nói tới giải thoát là nói chuyện của những bậc Thánh chớ không phải của kẻ phàm. Cho nên khi nói tu với mục đích giải thoát, chúng ta xem như chuyện không bao giờ có, không bao giờ đến được, rồi tự khi mình và lui sụt, đó là bệnh.
Thuở xưa ở Trung Hoa có Thượng tọa Minh và Thượng tọa Thâm cùng đi qua sông Hoài. Khi ngồi đò sang sông, hai vị thấy nhiều người đánh cá đang kéo lưới. Lúc lưới kéo gần đến bờ, có một con cá từ trong lưới nhảy vọt ra ngoài. Thượng tọa Minh vỗ tay khen: “Hay thay! Giống như người xuất gia.” Thượng tọa Thâm bèn nói: “Đâu có hay gì, phải ở ngoài lưới mới hay chứ!” Thượng tọa Minh bảo: “Thế là huynh Thâm chưa hiểu.” Đi được một đoạn đường xa, Thượng tọa Thâm mới bừng hiểu mình đã sai.
Qua câu chuyện trên, chúng ta thấy thế nào? Thượng tọa Thâm nói cũng có lý, đợi ở trong lưới mới nhảy ra chi bằng ở ngoài lưới chẳng thích hơn sao. Nhưng tại sao Thượng tọa Minh lại nói huynh Thâm chưa hiểu? Như chúng tôi đã định nghĩa, đang bị trói buộc ép ngặt, thoát được sự trói buộc ép ngặt gọi đó là giải thoát. Nếu không bị trói buộc, không bị ép ngặt còn nói giải thoát làm gì? Như con cá đang bị lưới bủa vây, không có lối thoát nó mới nhảy vọt lên để ra khỏi vòng lưới, đó là nó giải thoát được mành lưới. Nếu ở ngoài lưới rồi, nó đâu cần nhảy chi nữa. Cũng vậy, nếu chúng ta là Thánh rồi, không có phiền não, không có khổ đau, nói tu để giải thoát có đúng không? Hẳn là không vậy. Sở dĩ nói tu, nói cầu giải thoát là vì chúng ta bị phiền não, bị trói buộc nhiều bởi những tâm niệm xấu xa đen tối mà chính mình chưa chinh phục được. Vì thế chúng ta phải cố gắng nỗ lực bứt cho đứt hết mọi sợi dây phiền não, để nhảy tung ra một chân trời mới, đó gọi là giải thoát. Tóm lại, đang bị bao vây, đang bị đau khổ, chúng ta mới nói đến giải thoát. Đó là ý nghĩa câu chuyện của hai vị Thượng tọa khi xưa.
Sau này, Thiền sư Khuê ở Cổ Sơn bình câu chuyện đó bằng bốn câu tụng:
Võng trung đào xuất tiện nghi đằng,
Hà cá thiên nhiên tuấn nạp tăng.
Hà tợ đương sơ vị nhập võng,
Ngộ lai phương thủy thị tri âm.
Dịch:
Nhảy ra khỏi lưới lại bay xa,
Nào phải thiên nhiên bậc tác gia.
Đâu giống buổi đầu chưa vào lưới,
Tỉnh ra mới biết thật người nhà.
Nhảy ra khỏi lưới lại bay xa: Diễn tả hình ảnh con cá khi vượt ra khỏi lưới, nó bơi lội tung tăng, không dám lẩn quẩn ở đó nữa.
Nào phải thiên nhiên bậc tác gia: Bậc tác gia là người tu đạt đạo. Người đạt đạo không tự có sẵn, mà do công phu huân tu khó nhọc để chinh phục nội tâm của mình. Có vị Phật, vị Bồ-tát, vị A-la-hán nào bỗng dưng thành Phật, thành Bồ-tát, thành A-la-hán chăng? Chắc hẳn là không! Thành A-la-hán, thành Bồ-tát hay thành Phật gốc từ công phu tu hành, vượt khỏi phiền não, chinh phục được nội tâm của mình. Sau đó mới gọi là bậc tác gia, mới thành A-la-hán, mới chứng quả Bồ-đề, không phải bỗng dưng mà được. Nếu chúng ta quan niệm không cần tu, tự nhiên được kết quả, điều đó không bao giờ có.
Ý của Thượng tọa Thâm nói phải ở ngoài lưới, không đợi vô lưới mới nhảy ra cho phí công, nên câu sau nói: Đâu giống buổi đầu chưa vào lưới: Buổi đầu không vào lưới mới sung sướng, mới an ổn. Quan niệm như vậy là không đúng.
Tỉnh ra mới biết thật người nhà: Khi thức tỉnh rồi mới biết Sư huynh của mình nói hợp lý. Chúng ta đang ở trong vòng vây của phiền não, cám dỗ của sáu trần, khi thoát ra được mới gọi là giải thoát. Đó chính là sức mạnh của người tu. Nếu không như vậy thì không nói xuất gia làm gì.
Việc giải thoát có những trình tự cao thấp sai khác, không phải thuần như nhau. Các kinh theo tinh thần Nguyên thủy và các kinh theo tinh thần Phát triển nói về giải thoát khác nhau. Theo tinh thần Nguyên thủy, kinh A-hàm có câu chuyện ngài Phú-lâu-na đến hỏi Phật: “Bạch Thế Tôn, xin Thế Tôn dạy cho pháp yếu để con đến chỗ vắng vẻ tu hành.” Đức Phật liền dạy: “Nếu mắt thấy sắc không đuổi theo, không chấp chặt, đó là gần với Niết-bàn. Ngược lại nếu mắt thấy sắc mà đuổi theo, chấp chặt đó là xa với Niết-bàn. Lỗ tai nghe tiếng, lỗ mũi ngửi mùi, thân xúc chạm, ý duyên với pháp trần nếu không đuổi theo, không chấp chặt là gần với Niết-bàn, còn đuổi theo, chấp chặt đó là xa Niết-bàn.” Khi nhận được pháp yếu rồi, ngài Phú-lâu-na đi đến chỗ vắng vẻ tu hành. Chỉ trong vòng ba tháng, Ngài đắc quả A-la-hán. Như vậy pháp yếu đức Phật dạy tu để giải thoát đâu có khác với chúng ta, sáu căn tiếp xúc với sáu trần mà không đuổi theo, không dính mắc hay chấp chặt đó là giải thoát. Nếu đuổi theo, nếu chấp chặt đó là trầm luân. Trầm luân hay giải thoát rất đơn giản, không đợi tới kiếp nào khác, mà ngay nơi hiện tại mắt thấy sắc, tai nghe tiếng, mũi ngửi mùi, lưỡi nếm vị, thân xúc chạm, ý duyên với pháp trần, chúng ta không đuổi theo, không dính mắc, ngay đó chúng ta đã giải thoát rồi. Giải thoát không phải là chuyện xa vời, không với tới được, mà chính là thực tế, cụ thể. Ngay nơi chúng ta ai cũng có khả năng giải thoát. Có người nào nghĩ rằng việc đó mình không thể làm nổi không? Ai cũng có thể làm được. Vì vậy nói đến tu giải thoát mới nghe tưởng như xa vời, cao siêu tuyệt đỉnh, nhưng sự thật hết sức gần gũi, hết sức thực tế. Ngược lại sự trầm luân cũng không xa lạ. Nếu mắt đuổi theo sắc rồi bám chặt vào sắc, tai đuổi theo tiếng rồi bám chặt vào tiếng v.v… đó chúng ta là trầm luân.
Trong kinh A-hàm, đức Phật kể một câu chuyện cho chư Tỳ-kheo nghe: Có một bầy khỉ, khỉ chúa dạy những khỉ nhỏ: Các ngươi đi ăn phải theo lệnh của ta chỉ dẫn, đừng tẽ đoàn đi lang thang sẽ bị nguy hiểm. Khỉ chúa khôn ngoan biết chỗ nào có bẫy rập, có thợ săn, nó tránh né không cho đoàn khỉ tới những chỗ ấy. Nhưng trong đoàn có một con khỉ hơi ngạo mạn lại tham ăn, nó nghĩ nếu đi theo đoàn mình ăn uống không được đầy đủ, chi bằng tách riêng kiếm thức ăn một mình, tha hồ ăn uống no nê. Nó tách đoàn đi đến một chỗ kia, chẳng may gặp người thợ săn dùng cây nhựa để bẫy khỉ. Cây nhựa rất dẻo và chắc, bên cạnh cây nhựa có để miếng mồi nhử khỉ. Khỉ con dại khờ thấy mồi mừng quá, nhảy tới chụp. Vừa đưa tay mặt chụp mồi liền bị nhựa dính, tay trái chụp vào để gỡ bị dính luôn. Thế là hai tay đều bị dính nhựa. Nó đưa chân mặt vô để quào dính chân mặt, đưa chân trái quào dính chân trái. Như vậy là hai tay hai chân đều bị dính. Nó cúi đầu xuống cạp gỡ cũng bị dính luôn. Chỉ còn cái đuôi ngoắt ngoắt, nó cố gắng vùng vẫy để quật cái bẫy ra cũng bị dính luôn. Như vậy hai tay, hai chân, đầu và đuôi đều bị dính nhựa không thoát thân được. Lúc ấy người thợ săn đến lượm khỉ bỏ vô giỏ đem về.
Qua câu chuyện trên, đức Phật muốn dạy chúng ta điều gì? Vì quyền lợi vì thích thụ hưởng, con khỉ tách đoàn ra đi, nên bị thợ săn đánh bẫy. Khi sáu bộ phận bị dính bẫy rồi, người ta bắt đem về dễ dàng không còn ai cứu được. Cũng vậy, người xuất gia ở trong đoàn thể Tăng hay Ni, có vị thầy chỉ dạy hướng dẫn, nhưng họ thích thụ hưởng riêng, thích làm theo ý mình, dù thiếu kinh nghiệm mà vẫn đi ra ngoài. Khi ra ngoài, mắt thấy sắc liền nhiễm sắc, tai nghe tiếng liền nhiễm tiếng, cho đến sáu căn bị cột dính với sáu trần. Lúc đó Ma vương dẫn đi một cách dễ dàng, như chú thợ săn lượm con khỉ bỏ vào giỏ một cách dễ dàng, không khó khăn chút nào.
Khi sáu căn dính với sáu trần, chúng ta lọt vào bàn tay của ai? Của Ma vương. Lọt vào bàn tay của Ma vương rồi, khó hi vọng được giải thoát. Vì vậy người tu muốn được giải thoát phải gan dạ như lời đức Phật dạy: Sáu căn tiếp xúc với sáu trần đừng đuổi theo, đuổi theo là tham cầu; đừng dính mắc, dính mắc là nhiễm trước. Không tham cầu, không nhiễm trước, tức nhiên chúng ta được giải thoát, sự giải thoát đến với chúng ta hết sức dễ dàng. Nếu chúng ta đuổi theo sáu trần là tham cầu, dính mắc nó là nhiễm trước, khi ấy có vùng vẫy mấy cũng khó thoát khỏi bàn tay của Ma vương.
Người tu muốn được giải thoát không phải là chuyện xa xôi, mà chính là chuyện thực tế trong cuộc sống hằng ngày. Nếu một người sáu căn tiếp xúc với sáu trần không dính không mắc, không đuổi theo, người ấy có hào quang chưa? Đâu có, chỉ là không dính mắc sáu trần thôi. Người ấy có biết chuyện quá khứ, vị lai chưa? Đâu biết quá khứ, vị lai gì. Nhưng người ấy có giải thoát thật chưa? - Có. Như vậy không phải có hào quang, không phải biết quá khứ vị lai mới giải thoát, mà chính sáu căn không bị sáu trần lôi cuốn, cột trói, đó là giải thoát. Sáu trần cột trói mình hay mình cột vào nó? Sự thật là mình cột vào sáu trần, nghĩa là thấy nó ta đuổi theo rồi bám chặt vào nó, đó là dính mắc vào sáu trần, rồi than van cầu xin Phật Trời cứu giúp. Ai trói buộc mà mình kêu cứu, thắp hương cầu giải thoát? Phật bảo buông mà chúng ta nắm chặt quá, kẹt tay trong đó, rồi than Phật Trời không cứu! Muốn cứu chúng ta, đức Phật dạy: “Ngươi chịu khó buông đi.”
Chúng ta thật giống như đứa bé thò tay vào hũ kẹo. Khi tay không nó thò vào hũ được, nhưng vì thích kẹo quá nên nắm đầy cứng, rút tay ra không được rồi kêu khóc. Mẹ thương con, bảo: “Con buông đi, tay không rút ra dễ dàng, chớ có khó gì.” Như vậy thuật giải thoát là gì? Chỉ một cái buông, nếu tay cứ nắm đầy kẹo, làm sao mẹ cứu con được!
Đức Phật bảo chúng ta đừng dính với sáu trần, các Thiền sư cũng dạy buông đi, hiện nay chúng tôi cũng nhắc quí vị đừng chạy theo sáu trần. Câu nói hết sức đơn giản mà tràn đầy tinh thần giải thoát. Nếu khéo một chút, gan dạ một chút, đừng tiếc, như đứa bé không tiếc kẹo, thì lấy tay ra dễ dàng, không phải than khóc.
Trên đường tu, chính vì cầu giải thoát, chúng ta đừng tham luyến, đừng đắm trước sáu trần. Không tham luyến, không đắm trước sáu trần là nhân của giải thoát, chớ không tìm điều gì khác lạ. Không phải có thần thông, không phải biết quá khứ vị lai, không phải có hào quang sáng chói mà giải thoát được. Các quỉ thần cũng có hào quang, biết quá khứ vị lai, nhưng vẫn không giải thoát. Lý giải thoát của đạo Phật vừa cụ thể vừa thực tế mà cũng rất dễ dàng. Chỉ cần đừng làm đứa bé tham kẹo thôi, nếu tham kẹo thì khó, không tham kẹo thì dễ. Tất cả quí vị xuất gia và tại gia có ai nghĩ mình ngu khờ như đứa bé ham kẹo đó không? Tất nhiên không ai ngu khờ như vậy, chỉ cần buông thì lấy tay ra dễ dàng. Đức Phật đã dạy: “Các ngươi buông đi, đừng dính với sáu trần, đó là giải thoát.” Nếu chúng ta không chịu buông, mà cầu xin Phật giúp con được giải thoát, thì giống như đứa bé tham ăn kẹo vậy. Buông đi thì hết đau khổ. Đây là giải thoát theo tinh thần Nguyên thủy.
Kế đến, chúng tôi nói sự giải thoát trong nhà thiền. Ngày xưa, có một Thiền khách đến hỏi Thiền sư Huệ Hải: “Thế nào là giải thoát?” Ngài Huệ Hải trả lời: “Căn trần không dính nhau là giải thoát.” Câu trả lời hết sức đơn giản! Sáu căn không dính mắc sáu trần, đó là giải thoát. Câu trả lời vừa đơn giản vừa thực tế, nhưng mới nghe qua chúng ta thấy khó hiểu. Vì sao? Vì chúng ta tưởng tượng giải thoát rất xa vời, phải có thần thông biến hóa, đi đến các cõi trời v.v…, không ngờ sáu căn không dính với sáu trần là giải thoát. Sự thật quá đơn giản này làm người đọc sách thiền cho là khó hiểu.
Câu chuyện thứ hai trong nhà thiền là: Tổ Đạo Tín khi còn Sa-di đến hỏi đạo với Tổ Tăng Xán: “Bạch Hòa thượng, làm sao được giải thoát?” Tổ Tăng Xán liền hỏi: “Ai trói buộc ngươi?” Ngài Đạo Tín đáp: “Không ai trói buộc cả.” Tổ Tăng Xán bảo: “Cầu giải thoát làm gì?” Ngài Đạo Tín liền nhận được lý giải thoát. Ngài quan niệm như chúng ta hiện giờ, nghĩ mình đang bị trói buộc, đang bị bủa vây rất khổ sở, nên mới cầu giải thoát. Nhưng chúng ta phải nhìn thẳng xem cái gì trói buộc, cái gì bủa vây mình? Nếu nhìn thẳng không thấy cái gì trói buộc, cái gì bủa vây cả, ngay đó chúng ta được giải thoát rồi. Câu chuyện đối đáp giữa Tổ Tăng Xán và Tổ Đạo Tín nói lên ý nghĩa đó: “Không ai trói buộc thì cầu giải thoát làm gì?” Chúng ta nghĩ rằng những phiền não, những tâm niệm đen tối xấu xa đang trói buộc chúng ta nên cầu giải thoát. Nhưng Tổ bảo chúng ta nhìn thẳng xem những phiền não, những tâm niệm ấy có thật sự trói buộc mình hay không? Khi nhìn thẳng lại chúng nó liền biến mất, còn gì nữa mà cầu giải thoát!
Cũng chính với tinh thần này Tổ Bồ-đề-đạt-ma đã dạy Tổ Huệ Khả pháp an tâm. Tổ Huệ Khả than: “Tâm con bất an, xin Hòa thượng dạy con pháp an tâm.” Tổ Bồ-đề-đạt-ma bảo: “Đem tâm ra ta an cho.” Tâm bất an của Tổ Huệ Khả là tâm gì? Tâm phiền não, tâm trói buộc, tâm xấu xa. Các tâm đó đang làm cho Ngài bất an nên Ngài cầu được an tâm, cũng như Tổ Đạo Tín cầu được giải thoát. Khi ấy Tổ Bồ-đề-đạt-ma chỉ cần bảo “đem tâm ra ta an cho”, ngài Huệ Khả nhìn sững lại xem tâm ra làm sao mà đem. Nhìn sững lại thì nó mất tiêu, nó tan hoang không còn, Ngài liền trả lời: “Con tìm tâm không được.” Tổ Bồ-đề-đạt-ma bảo: “Ta đã an tâm cho ngươi rồi.” Như vậy pháp an tâm của Tổ Đạt-ma và “cầu giải thoát làm gì” của Tổ Tăng Xán có khác nhau không? Thật là không hai, hình thức có khác, nhưng tinh thần không khác. Tổ Tăng Xán chỉ cho Tổ Đạo Tín con đường giải thoát bằng cách nhìn lại xem cái gì trói buộc mình. Nhìn lại không thấy có gì trói buộc, ngay đó đã giải thoát rồi.
Chúng tôi hiện nay sống cách xa Tổ hơn ngàn năm, chúng tôi dạy quí vị tu phải làm gì? Quí vị nghĩ rằng các phiền não làm cho mình khổ đau, buồn phiền, bực bội. Chúng tôi bảo quí vị hãy buông các thứ phiền não ấy đi. Nhìn lại nó, thấy biết mặt thật của nó rồi, buông đi đừng theo thì hết phiền não, hết khổ đau, đó là tu vậy. Việc này đâu có khác với lời dạy người xưa bao nhiêu. Tinh thần giải thoát nằm ngay chỗ nhìn thẳng, thấy mặt thật của những phiền não. Thấy được mặt thật của chúng rồi, tự chúng tan hoang. Nói biết vọng, nói buông đi là một lối nói thôi. Sự thật nhìn lại thấy nó thì nó đã mất hết rồi, còn gì nữa mà phải biết, còn gì nữa mà phải buông. Đây là trọng tâm chỉ dạy của Thiền tông. Trọng tâm này, chính Tổ Bồ-đề-đạt-ma đã dạy Tổ Huệ Khả, Tổ Tăng Xán đã dạy Tổ Đạo Tín. Đó là chủ đích chúng tôi muốn chỉ cho quí vị.
Các Tổ dạy chúng ta tu giải thoát đúng với tinh thần đức Phật đã nói: “Tất cả nước biển chỉ có một vị, vị mặn; tất cả giáo pháp của ta chỉ có một vị, vị giải thoát.” Như đoạn trên đã nói sáu căn tiếp xúc với sáu trần, không dính không mắc là giải thoát. Đoạn này Tổ dạy nhìn các tâm niệm đang chạy theo sáu trần, biết chúng không thật, đó là giải thoát. Đoạn trước nói về các căn bên ngoài không cho dính với trần cảnh, đoạn này nói về các tâm niệm bên trong. Ngay từ cội gốc, các tâm niệm vừa dấy khởi chạy theo cảnh, chúng ta biết sự thật về chúng nó thì chúng tan hoang ngay từ trứng nước. Chúng ta dẹp các tâm niệm ngay lúc còn trong bào thai, không đợi nó dính với cảnh mới tháo gỡ. Như vậy sự giải thoát này là ngay bên trong, sâu hơn và tế nhị hơn. Giải thoát theo tinh thần Nguyên thủy là sáu căn không dính mắc với sáu trần. Giải thoát theo tinh thần nhà thiền là dẹp các tâm niệm ngay khi còn trong trứng nước. Các niệm vừa dấy khởi đã bị tiêu diệt ngay, không có niệm đuổi theo trần cảnh. Mắt thấy sắc không dính với sắc, tai nghe tiếng không dính với tiếng, mũi ngửi mùi không dính với mùi… Các niệm đã diệt rồi, lo gì chúng ra nơi mắt, nơi tai, nơi mũi mà dính với sáu trần được. Đó là chủ yếu của Tổ sư Thiền.
Để hiểu rõ hơn tinh thần giải thoát trong nhà thiền, chúng tôi xin dẫn bài kệ “Sơn Phòng Mạn Hứng” của một Thiền sư đời Trần ở Việt Nam, ngài Điều Ngự Giác Hoàng, tức vua Trần Nhân Tông:
Thùy phược cánh tương cầu giải thoát,
Bất phàm hà tất mịch thần tiên.
Viên nhàn, mã quyện nhân ưng lão,
Y cựu vân trang nhất tháp thiền.
Dịch:
Ai trói lại mong cầu giải thoát,
Chẳng phàm nào phải kiếm thần tiên.
Vượn nhàn, ngựa nhọc, người cũng lão,
Như cũ am mây một giường thiền.
Ngài Trần Nhân Tông nói rất rõ: Chúng ta cầu giải thoát vì thấy bị trói buộc, nhưng ai trói buộc ta? Chẳng qua là những tâm niệm tham mê đắm trước trói buộc chúng ta. Những tâm niệm ấy vừa dấy lên, chúng ta thấy nó rồi, tức thì nó tan hoang, còn ai trói buộc mình mà cầu giải thoát? Biết các tâm niệm là tạm bợ, hư dối, chúng ta không chạy theo nó, đó là giải thoát.
Hơn nữa, nói trói buộc là trói buộc thân năm uẩn này, còn một cái không bao giờ bị trói buộc, đó là cái gì? Đó là cái không tên. Cái đó không phải phàm, không phải Thánh. Không phải phàm, cầu thành tiên làm gì? Không phải phàm, cần cầu Thánh hay không? Sở dĩ chúng ta muốn được thành Thánh vì thấy mình là phàm. Cái đó không phải phàm, tức nhiên không cầu thành Thánh, cũng không cầu thành thần tiên chi nữa.
Vượn nhàn, ngựa nhọc, người cũng lão: Vượn chỉ cho các niệm dấy khởi của chúng ta lăng xăng như khỉ vượn. Ngựa chỉ cho ý rong ruổi bên ngoài. Tâm viên ý mã đã yên rồi, không còn lăng xăng nữa, khi ấy chúng ta cũng già rồi không còn ham muốn, không còn đuổi theo cái gì nữa. Lúc ấy ra sao?
Như cũ am mây một giường thiền: Lúc ấy chỉ còn một giường thiền ở trong am mây mà thôi. Giường thiền đó giống như giường của ông Duy-ma-cật nằm bệnh. Trên đường tu lúc nào tâm viên ý mã chịu dừng chịu lặng, lúc đó chúng ta sẽ hiện tiền giải thoát viên mãn. Sự giải thoát viên mãn đó được tượng trưng bằng chiếc giường thiền, giường của ông Duy-ma-cật nằm bệnh v.v… Đối với sự tu hành, cốt làm sao tâm viên ý mã nằm yên ngủ, lúc đó cái chân thật hiện tiền, không phải tìm kiếm ở đâu xa xôi.
Ngũ Tổ giảng kinh Kim Cang đến đoạn ngài Tu-bồ-đề hỏi Phật: Người cầu Vô thượng Bồ-đề làm sao an trụ được tâm của mình. Phật trả lời: “Bất ưng trụ sắc sanh tâm, bất ưng trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp sanh tâm, ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm.” Nghĩa là người phát tâm cầu Vô thượng Bồ-đề không nên trụ nơi sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Không có chỗ trụ, đó là trụ. Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm, tức là không nên có chỗ trụ mà sanh tâm Vô thượng Bồ-đề. Nghe tới câu đó, Lục Tổ đại ngộ thốt lên:
Đâu ngờ tánh mình xưa nay vốn thanh tịnh,
Đâu ngờ tánh mình xưa nay vốn tự đầy đủ,
Đâu ngờ tánh mình hay sanh muôn pháp v.v…
Các chữ đâu ngờ, nói lên chỗ ngộ của Lục Tổ, Ngài ngộ cái gì? Ngài ngộ sáu căn không dính với sáu trần là giải thoát, phải không? Chưa phải. Nếu ngộ sáu căn không dính với sáu trần, Ngài là Nhị thừa, không phải là Tổ trong Thiền tông. Câu hỏi: “Người phát tâm Vô thượng Bồ-đề, muốn an trụ tâm ấy, phải làm sao?” Đáp: “Không dính với sáu trần là an trụ tâm Vô thượng Bồ-đề.” Ngay câu đáp này Lục Tổ thấy rõ tâm không chạy theo sáu trần là Vô thượng Bồ-đề hiện tiền. Vô thượng Bồ-đề đó đã sẵn thanh tịnh, đã sẵn đầy đủ và diệu dụng vô cùng.
Ở đoạn trên nói sáu căn không dính với sáu trần đó là giải thoát, chúng ta không biết cái gì giải thoát. Ở đây, khi nghe câu đáp, Lục Tổ thấy được mặt thật của sự giải thoát. Vì thấy được mặt thật đó nên Ngài mới thốt lên những câu “đâu ngờ”. Khi nghe như thế, Ngũ Tổ biết đệ tử đã ngộ, nên ngay đó truyền y bát.
Chúng ta thấy đối với Thiền tông không phải chỉ gỡ hết những dính mắc bên ngoài, gọi là giải thoát mà phải thấy được mặt thật của sự giải thoát, điều này các bộ kinh Nhị thừa chưa đề cập tới. Giải thoát là cởi mở, cởi mở là động từ chớ không phải chủ từ. Cởi mở cái gì? Ở đoạn trước, theo tinh thần Nguyên thủy, chúng ta nghĩ được giải thoát mà không biết cái gì được giải thoát. Với tinh thần nhà Thiền, Lục Tổ không thấy như vậy, Ngài thấy cái giải thoát đó là tánh Bồ-đề sẵn có của chính chúng ta. Tánh Bồ-đề đó thanh tịnh từ thuở nào, tánh Bồ-đề đó đầy đủ muôn pháp, tánh Bồ-đề đó đầy đủ diệu dụng. Sống được với tánh Bồ-đề đó gọi là giải thoát. Giải thoát là tánh Bồ-đề không bị nhiễm với sáu trần, nó là cái chủ thật của mình. Vì vậy trong nhà thiền gọi nó là Bản lai diện mục, là Chủ nhân ông v.v… Hiểu như vậy quí vị mới thấy trình tự tu tiến của người tu, nếu không chúng ta có thể hiểu lầm. Lục Tổ ngộ được lý giải thoát, không phải chỉ là động từ giải thoát mà Ngài thấy được Ông chủ là người không bị trói buộc, Ông chủ mới là chủ từ. Ông chủ đó mới thật là mình, sống được với Ông chủ đó mới thật viên mãn giải thoát.
Ngài Ngưỡng Sơn đến hỏi đạo với ngài Trung Ấp: “Bạch Hòa thượng, thế nào là nghĩa Phật tánh?” Ngài Trung Ấp đáp: “Ta nói thí dụ thì ông hiểu. Như có con khỉ ở trong cái nhà sáu cửa. Bên ngoài có một con khỉ đến mỗi cửa kêu chéo chéo, con khỉ bên trong cũng đáp lại chéo chéo.” Nghe tới đó ngài Ngưỡng Sơn hỏi: “Bạch Hòa thượng, nếu con khỉ trong nhà ngủ thì sao?” Hòa thượng Trung Ấp liền từ giường thiền bước xuống, nắm tay ngài Ngưỡng Sơn nói: “Chéo chéo! Ta và ông đã thấy nhau rồi.”
Qua câu chuyện trên, chúng ta hiểu thế nào? Cái nhà sáu cửa là dụ cho sáu căn của chúng ta, con khỉ ở ngoài kêu chéo chéo là dụ cho sáu trần. Khi sáu căn duyên với sáu trần, con khỉ ở trong ứng lên đối đáp, nên gọi là dính mắc. Nếu con khỉ ở trong ngủ, con khỉ ở ngoài kêu chéo chéo cách mấy, nó cũng không ứng đáp. Tuy mỗi cửa đều có kêu, có động, nhưng vì nó ngủ nên không đáp lại, chớ vẫn có mặt trong nhà. Hình ảnh con khỉ ngủ giống như chỗ Lục Tổ thấy. Ngài thấy cái đó nó sẵn có, thanh tịnh từ thuở nào.
Tinh thần Thiền tông chỉ cho chúng ta thấy cái không dính với sáu trần gọi là giải thoát, không phải động từ giải thoát suông, mà có Ông chủ nằm yên không chạy ra. Sống được với Ông chủ đó mới thật sự giải thoát. Chúng ta tu thiền cốt làm sao sống được với Ông chủ đó.
Có một Phật tử nói rằng nước biển nổi sóng ầm ầm mà nó không biết có chứa muối bên trong. Đến khi nước tràn vào bờ, bị ngăn chận lại rồi khô đi, bấy giờ chất muối mới hiện ra. Như vậy muối khi ở biển hòa tan với nước, nó đã có sẵn trong nước. Nước bốc hơi muối cô đọng lại thì nước và muối là hai. Tôi chấm câu chuyện đó dưới điểm trung bình.
Ở đây Lục Tổ nói “không phải hai”, Ông chủ đó đâu ai khác hơn ngoài mình. Nhưng vì mê, ta sống với điên đảo vọng tưởng, bị nó dẫn chạy, nên luân hồi, trói buộc. Nếu tỉnh chúng ta không chạy theo vọng tưởng điên đảo, sống thật với Ông chủ, thì Ông chủ lúc nào chẳng hiện tiền. Bên ngoài có kêu gọi, dù không đáp lại, ông vẫn mở mắt nhìn mà không dính mắc. Trường hợp con khỉ trong nhà cũng vậy, đừng tưởng đợi đối đáp, nó mới có mặt. Chính khi không đối đáp, nó cũng vẫn hiện hữu.
Chúng ta giải thoát bằng cách là phải sống thật với Ông chủ, hay là với Bản lai diện mục của mình, cái đó đã có sẵn trong chúng ta muôn đời mà mình quên đi. Ngày nay được Phật Tổ nhắc chỉ, chúng ta phải ráng nỗ lực sống trở lại. Quên Ông chủ, gọi là mê, sống trở về với Ông chủ gọi là tỉnh là giác. Kẻ mê làm chúng sanh trầm luân trong sáu đường, đau khổ, bị phiền trược. Nếu tỉnh trở về với Ông chủ, không còn bị sáu trần lôi kéo nữa, khi đó hoàn toàn giải thoát. Giải thoát không có nghĩa là chúng ta phải nhờ ai phụ giúp, mà tự biết tỉnh giác, biết trở về với chính mình. Bổn phận chúng ta là phải trở về, chớ không ai làm thế, cũng không ai bắt buộc. Rất đáng thương cho chúng sanh tự có của báu mà không biết, lại thở than, đau khổ muôn đời. Chúng ta được vinh hạnh, được phước đức nhờ Phật Tổ chỉ, tuy chưa thấy tận mặt tận mày, nhưng cũng mang máng biết, mang máng tin, đó cũng là phước đức lớn.
Mỗi một năm qua là một lần đưa chúng ta đến gần chỗ chết, chúng ta có duyên phúc lớn, phước lành nhiều, mong tất cả cố gắng làm tròn bổn phận của mình để khỏi uổng một đời làm người mà không tỉnh giác, không để bị gạt, chạy theo cái giả dối, điên cuồng, quên mất cái chân thật của chính mình. Được như vậy mới xứng đáng là con dòng họ Thích, xứng đáng là kẻ quyết chí đi theo con đường Phật Tổ đã đi.
Hôm nay là ngày đầu năm, chúng tôi mong sang năm mới này, tất cả quí vị có được sức tỉnh giác mạnh hơn, càng ngày càng nhận thấy tường tận cái chân thật của chính mình, sống trở về, đừng bị ngoại cảnh lôi cuốn mà phải phiêu bạt, trầm luân đau khổ.
NHỮNG NIỀM VUI CHÂN THẬT
Xuân Mậu Thìn - 1988
Mỗi năm đến ngày Tết Nguyên Đán, tất cả Phật tử gần xa đều tựu hội về đây trước là lễ Phật nhân ngày vía đức Di-lặc, sau là mừng tuổi chúc thọ chư Tăng.
Theo tinh thần đạo Phật, không phải mỗi khi Tết đến, chúng ta chúc mừng nhau sống lâu trăm tuổi. Chúc như vậy không có kết quả gì, chỉ là lời rỗng suông thôi. Vì vậy chúng tôi sẽ nhắc nhở quí Phật tử đường lối tu hành, đồng thời cũng là chúc mừng nhau trên đường tu mỗi ngày một thăng tiến, không để dừng lại một chỗ mãi. Vì lẽ đó hôm nay chúng tôi sẽ nói về cái vui của đời và cái vui của đạo trong mùa Xuân.
Đầu xuân ai ai cũng thấy vui tươi, ấm áp, hi vọng, nên tất cả cùng chúc mừng, cùng vui vẻ với nhau. Vì vậy chúc xuân hay vui xuân đã có từ xưa đến giờ. Hôm nay chúng ta phải tìm cho tường tận thế nào là vui xuân, cái vui thật sự của cuộc đời và cái vui thật sự trong đạo. Hai cái vui đó gần nhau không? Nó có lợi ích thiết thực như thế nào?
Trước hết chúng tôi nói cái vui của đời. Ngoài đời lúc nào người ta vui mừng? Đó là lúc được cái gì hơn thiên hạ, được cái gì thắng hơn người. Thí dụ quí vị đi vào các cuộc chơi như đá banh hay đánh cờ v.v… khi mình cười là lúc thua hay lúc thắng? Lúc thắng thì vỗ tay hoan nghênh cùng vui, cùng cười. Người thắng thì cười, còn người thua cuộc tự nhiên buồn khổ. Như vậy cái vui của cuộc đời là vui khi mình thắng, mà người thua phải buồn. Cái vui ấy là vui trọn vẹn của những người trong cuộc, hay có người vui có người buồn? Vui của đời là vui trong thắng cuộc, mình thắng thì người khác phải thua. Kẻ thắng thì vui, người thua phải khổ. Rõ ràng chúng ta vui trong cái đau khổ của người khác, chớ không phải cái vui trọn vẹn. Người thế gian nghĩ làm sao cho mình được vui, nghĩa là chơi thế nào cho hơn người, một lần thua là một lần buồn. Những người khác đến chơi với chúng ta, cũng muốn hơn để được vui. Đó là vui trong giành giật hơn thua, ai được hơn thì vui, ai bị thua thì khổ. Như vậy mới thấy rõ cái vui của thế tục là vui trong đau khổ.
Ngược lại, cái vui của người tu khác hơn cái vui của người thế tục. Người thế tục vui khi thắng được người, người tu vui khi thắng được mình. Thí dụ người Phật tử khi bị ai nói những lời kích bác làm tự ái nổi lên, vừa khi cơn sân bừng bừng nổi dậy, lúc đó liền tỉnh biết sân là xấu, không xứng đáng với người Phật tử, vừa biết như vậy liền bỏ nó đi. Do buông bỏ, qua được cơn nóng giận, mình cảm thấy bình tĩnh trở lại, lúc đó có vui không? Vui vì mình đã thắng được mình, đã chiến thắng chớ không phải đầu hàng. Một lần thắng được mình là một lần vui. Cái vui đó có làm ai khổ không? Rõ ràng mình vui mà người kích bác, họ thấy mình không trả lời, không phản đối, họ cũng không buồn. Vui thắng mình mới là vui trọn vẹn, vui thắng người là vui của đau khổ, chớ không phải cái vui thật. Người đời cứ đuổi theo cái vui đó để người khác phải khổ. Người biết tu chỉ vui khi thắng mình. Một lòng tham dấy lên thắng được nó là vui, một cơn giận nổi lên thắng được nó là vui, những cám dỗ thắng được nó là vui. Vui đó có lợi cho nội tâm mình, mà không hại ai. Như vậy vui của đạo mới là vui thật sự, vui mà không gây khổ cho ai. Đó là bước thứ nhất.
Đến bước thứ hai, người đời vui khi nào họ được cái mình ưa thích. Thí dụ đi đường thấy ai làm rớt một món đồ quí giá, họ lượm được, dĩ nhiên lúc đó rất vui. Người được may mắn vui, nhưng người mất vật quí có vui không? Cái được mà mình vui đó đổi lại bao nhiêu nước mắt của kẻ bị mất. Hơn nữa, trong cuộc sống hằng ngày, gặp thời gặp thế, chúng ta mua đâu được đó, bán đâu đắt đó, cái gì cũng hơn người, lúc ấy mình vui quá, nhưng người khác thì sao? Thí dụ ngày hôm qua mình mua món đồ giá một ngàn đồng, hôm nay bỗng dưng lên giá một ngàn rưỡi, mình vui vì được lời, nhưng người bán cho mình hôm qua, có buồn không? Tất nhiên là buồn, vì họ lỗ, họ thiệt thòi. Như vậy cái vui của mình là cái buồn của kẻ khác.
Phật tử nếu biết vui thì phải vui làm sao? Không phải vui trong cái được, mà vui trong cái lìa. Nghe thế thì buồn quá, lìa mà vui cái gì? Nhưng không ngờ lìa mới là vui. Người đời được là vui, trái lại người tu lìa là vui. Tại sao? Thí dụ khi trước bị bệnh ghiền thuốc hành mình cay đắng, tốn tiền tốn bạc, bây giờ bỏ được bệnh ghiền thuốc, mình có vui không? Lìa được bệnh ghiền đó là vui. Vui đó có ai khổ không? Niềm vui đó làm cả nhà vui lây, phải không? Đó mới là cái vui thật. Hồi xưa mình say rượu mê man, nay quán này mai quán nọ, bao nhiêu tiền cũng không đủ. Bây giờ bỏ rượu tức lìa được rượu, gia đình vui không? Mình thắng được rượu, lìa được ghiền rượu, bản thân mình vui mà gia đình cũng vui. Do lìa mà vui đó là người tu, do được mà vui đó là người đời. Khi biết tu, lìa những bệnh ghiền rượu, ghiền thuốc, ghiền á phiện… đó là vui.
Xa hơn nữa, lìa được ngũ dục ở thế gian là nguồn vui chân chánh của người học đạo. Người tu thiền khi được định Sơ thiền gọi là Ly sanh hỉ lạc. Ly tức là lìa, lìa cái gì? Lìa mê đắm ngũ dục: sắc, thanh, hương, vị, xúc. Năm điều này lìa được, không dính không nhiễm gọi là ly. Lìa được ngũ dục rồi thì lòng khoan khoái nhẹ nhàng gọi là được định Sơ thiền Ly sanh hỉ lạc. Thí dụ khi trước mình có tật thích đi xem hát, gánh hát nào lại gióng trống lên là mình nôn nao phải đi xem hát cho kỳ được. Bây giờ biết tu, khi nghe gánh hát gióng trống, mình nhất định không đi xem hát. Cho đến khi gánh hát dọn đi mình cũng không bén mảng tới rạp hát, lìa được cái mê xem hát, là mình thắng mình, nên cảm thấy vui. Cái vui đó không tốn tiền tốn bạc mà mình được sự an ổn. Vui đó do xa lìa ngũ dục, không bị nhiễm trước, gọi đó là Ly sanh hỉ lạc, được định Sơ thiền.
Kế nữa người đời thích vui trong cảnh nhộn nhịp, chỗ đông đảo ồn ào, như rạp hát, sân đá bóng, phòng trà v.v… nhưng cái vui ồn náo nhộn nhịp đó có lâu bền hay không? Như nơi rạp hát, khi người hề khéo giễu làm cho mình cười ồ lên, cười đến nôn ruột đi nữa, nhưng một lát ra về cũng hết cười. Ta chỉ cười khi trước mắt mình thấy, lỗ tai mình nghe những chuyện họ khéo gợi, lúc ấy vui. Ra khỏi nơi đó rồi, không được vui nữa, nhất là đi xem hát tới mười một mười hai giờ đêm mới về, vừa đi dọc đường vừa buồn ngủ, có vui không? Hết vui rồi. Nếu người tiền bạc eo hẹp, khi xem hát về, túi tiền trống rỗng, nhớ lại ngày mai không đủ tiền mua gạo, lúc đó còn vui không? Cho nên cái vui ở chỗ ồn náo, chỉ là vui nhất thời, tạm bợ, không có lâu bền.
Ngược lại, người học đạo, người biết tu không thích cái vui ồn ào mà lại thích vui trong yên lặng, ngồi những nơi yên tĩnh, một mình nhìn trời, nhìn mây, ngắm hoa ngắm kiểng, lòng phơi phới nhẹ nhàng. Đó là niềm vui của người trong đạo. Người tu thiền lấy thiền định làm niềm vui của mình, cho nên gọi Nhị thiền là Định sanh hỉ lạc. Do tâm được yên định sanh ra vui mừng, cái vui mừng đó có tốn hao gì không? Do tâm định, vui mừng phát ra, không có tốn hao gì cả. Vui trong yên định là vui sáng suốt, tỉnh táo, khỏe khoắn, an nhàn, không phải cái vui ồn ào, nhọc nhằn mỏi mệt. Vui ở chỗ nhộn nhịp làm cho mình mất sức khỏe, tiêu hao nghị lực, vừa tốn của vừa tốn công, vừa làm cho mình phải suy mòn sức lực. Vui của người tu nơi yên lặng, trong lúc thiền định, cái vui đó nhẹ nhàng thanh thoát, tâm hồn sáng tỉnh đó mới là cái vui chân thật.
Kế nữa, người đời vui trong mê lầm, không phải vui trong tỉnh giác. Mê lầm là sao? Thí dụ họ cho đánh bạc là vui. Cái vui đó có phải là vui thật không? Khi đánh ăn thì vui, nếu thua thì khổ. Đến sòng bạc họ nói là đi mua vui, cái vui đó là vui trong mê lầm. Rồi đến uống rượu họ cho là vui. Thí dụ năm bảy người rủ nhau tới quán rượu, chén thù chén tạc, người nào người nấy say túy lúy, như thế vui không? Người đời cho ăn nhậu là vui nhưng khi say túy lúy rồi nôn mửa, có vui không? Ngồi quán uống rượu làm cho sức khỏe tiêu mòn, tiền bạc tốn hao, tăng trưởng si mê. Như vậy có phải là vui trong mê lầm không?
Đối với người học đạo, vui của mình là vui giác ngộ. Thí dụ đang ngồi thiền có vấn đề khi trước mình không hiểu, nay bỗng dưng hiểu ra, đó thật là vui, có khi vui quá mình cười to lên… đó là do giác ngộ mà vui. Hoặc khi đang đi, một vấn đề khi trước chưa thông, bỗng dưng tâm sáng ra mình hiểu được, lúc ấy vui không? Rất vui, do giác ngộ mà vui. Cái vui đó có nhọc nhằn tốn hao gì đâu, càng vui trí tuệ càng sáng. Cái vui đó đưa chúng ta đến chỗ an lạc hoàn toàn vì đó là cái vui của giác ngộ giải thoát. Ngày xưa các vị Thiền sư ngồi tu, đến khi bừng ngộ, các ngài rất hoan hỉ, do giác ngộ mà hoan hỉ. Như vậy cái vui của người tu khác với cái vui của người đời. Người đời lấy mê lầm cho là vui, người tu do giác ngộ mà vui.
Thêm nữa, người đời vui trong ràng buộc. Ràng buộc là sao? Là thương yêu, quyến luyến. Thí dụ như bà nội có một đứa cháu nội, nó chạy theo nắm tay bà nũng nịu, bà có vui không? Hoặc đứa cháu ngoại chạy theo nói ríu rít đủ điều, bà có thương không? Càng vui, càng thương, càng phải lo nhiều. Vì thương cháu quá, nên lo cho nó ăn ngon, mặc đẹp… lo hết con tới cháu, lo hoài đến ngày nhắm mắt cũng chưa xong. Vui như vậy là vui trong ràng buộc.
Lại nữa, người nào được nhiều người thương, người đó vui không? Thấy mình được thiên hạ quí trọng, kính nể, lúc đó là vui. Nhưng một người thương là một sợi dây trói buộc, hai người thương là hai sợi dây, mười người thương là mười sợi dây… thương nhiều thì gỡ khó. Vậy mà người ta vui khi được thiên hạ thương, được thiên hạ chú ý, quí mình như ngọc như ngà v.v… Do đó, người đời càng vui thì càng đắm mình trong sự trói buộc, trói buộc trong tình thương gia đình, tình thương những người chung quanh v.v… càng thương nhiều thì càng bị buộc nhiều!
Ngược lại người tu, nhất là người tu Phật, vui là khi giải thoát. Những gì ràng buộc, làm cho mình bị rối rắm, phải cắt bỏ nó đi. Cắt bỏ được một mối là vui mừng một mối. Cắt bỏ đây không có nghĩa là bỏ chồng bỏ con… mà cắt bỏ là bỏ những tình thương không lợi ích, gây thêm tai hại cho mình. Thí dụ người đó với mình không phải thân thuộc, mà họ nói những lời ngọt ngào, những lời thương yêu rồi mình tưởng họ thương thật, tự nhiên mình tự trói mình rồi khổ. Ở thế gian có những lời nói không đúng với tâm niệm, họ nghĩ một đàng mà nói một nẻo để cầu lợi, để nắm giữ những gì họ thích. Mình phải biết rõ những lời nói đó không thật, đừng để bị cột trói. Tình thương chân thật nhất là tình thương cha mẹ với con cái, mà có khi còn phai nhạt, còn gặp những đứa con bất hiếu thay! Huống nữa là những người ngoài chắc gì họ thương mình thật. Nghe họ nói thương, mình vui mừng thích thú, e rằng có ngày sẽ phải khổ. Vì vậy những tình cảm thương yêu quyến luyến vô tình trói cột làm cho mình phải khổ. Người tu lấy sự giải thoát làm vui, không thể bị trói buộc bởi những tình cảm riêng tư và những ngũ dục bên ngoài.
Người đời nghĩ rằng cuộc đời mình phải được an vui hạnh phúc, nhưng từ thuở nhỏ cho đến hiện nay năm mươi, bảy mươi tuổi, quí vị thấy đời mình vui nhiều hay khổ nhiều? Khổ nhiều! Vì sao mình muốn vui mà lại khổ? Vì mình muốn vui mà vui trên cái khổ của người khác, cho nên người khác cũng muốn vui mà vui trên cái khổ của mình. Vì sát phạt lẫn nhau để được vui, nên cái vui đó khó vẹn toàn. Những người từ sòng bạc đi ra đâu phải ai ai cũng đều hớn hở. Trong mười người, độ hai người vui mừng, còn tám người thì âu sầu đau khổ. Như vậy tại sao người ta cứ đến sòng bạc mãi? Tám lần khổ chỉ có hai lần vui. Có khi đủ cả mười lần khổ là khác!
Ở đời nếu chúng ta tìm vui trong sự thắng người, trong cảnh nhộn nhịp v.v… thì cái vui đó chỉ là tạm bợ mong manh, không lâu bền được. Chúng ta phải tìm những niềm vui chân thật ở đạo, vui khi thắng mình, lìa được những tật xấu, vui khi được ở chỗ yên tĩnh, tâm hồn an ổn, vui khi được tỉnh giác, thoát ly những buộc ràng. Nếu sáng suốt chúng ta tìm cái vui chân thật, thì cái vui ấy sẽ lâu dài bền bỉ, còn mê lầm chúng ta đuổi theo những cái vui giả dối thì vui ít mà khổ nhiều. Mong rằng quí vị luôn luôn sáng suốt để được an vui hạnh phúc mãi mãi.
Để kết thúc buổi nói chuyện hôm nay chúng tôi đọc bốn câu kệ sau đây dùng làm kim chỉ nam cho quí vị trong năm mới:
Nguồn vui mãi vô tận,
Khi nhìn ánh nguyệt chân.
Nơi nơi đều cực lạc,
Phút phút hiện chân thân.
Nguồn vui mãi vô tận, là nguồn vui nào?
Khi nhìn ánh nguyệt chân: Khi nhìn thấy mặt trăng thật, là mặt trăng nào? Trong kinh Lăng Nghiêm, đức Phật nói mặt trăng thật và mặt trăng thứ hai, chúng tôi nói thêm nữa là bóng mặt trăng. Mặt trăng chân thật chỉ Tâm thể bất sanh bất diệt của mình, mặt trăng thứ hai chỉ cái chân thể đó hiện nơi sáu căn, còn bóng mặt trăng là chỉ ý thức duyên với pháp trần. Muốn được nguồn vui vô tận là khi nào chúng ta thấy được mặt trăng chân thật. Khi ấy thì thế nào?
Nơi nơi đều cực lạc: Nơi nào cũng cực lạc, không phải chỉ riêng cõi Tây phương.
Phút phút hiện chân thân: Phút nào cũng hiện thân chân thật.
Chúng tôi xin chúc tất cả quí Phật tử sang năm Mậu Thìn được một nguồn vui vô tận, khi nhìn thấy mặt trăng thật, nơi nào cũng là cực lạc, giờ nào cũng là Niết-bàn. Đó là lời chúc lành của chúng tôi gởi đến quí vị.
TÌM LẠI MÌNH, BIẾT ĐƯỢC
MÌNH LÀ TRÊN HẾT
Tất niên Mậu Thìn - 1989
Đề tài chúng tôi nói chuyện hôm nay là Tìm lại mình, biết được mình là trên hết. Đề tài này, mới nghe qua thấy quá đơn giản, nhưng thật là thiết yếu trong cuộc sống của chúng ta.
Chúng ta có thói quen chạy ra tìm kiếm bên ngoài. Vì thế tuy hiểu biết rất nhiều việc, nhưng khi trở lại tìm hiểu bản thân mình thì rất là thiếu sót. Nói như vậy không có nghĩa chúng tôi phủ nhận ngành y khoa nghiên cứu về con người. Ở đây tôi muốn nhấn mạnh chúng ta còn có một giá trị khác ngoài cái thân hiện đang đi đứng nằm ngồi này. Đó là điều mà chúng ta cần tìm hiểu. Xoay lại tìm cho ra cái chân thật của chính mình là điều tối quan trọng. Nếu không thì đời sống chúng ta trở thành lạt lẽo vô vị. Chẳng lẽ chúng ta sống chỉ để ăn mặc ngủ nghỉ... rồi chờ đến ngày chết sao? Nếu chúng ta cứ phóng ra bên ngoài thì sẽ mất mình mà không biết. Vì vậy chúng tôi nhắc tìm lại mình, biết được mình là trên hết.
Chúng ta thường hiểu lầm đạo Phật là huyền bí, cao siêu, nhưng thật ra đạo Phật rất thực tế, vì luôn luôn chủ trương xoay lại tìm con người chân thật của chính mình. Biết được mình chẳng phải là điều rất thực tế hay sao? Các giác quan của chúng ta như mắt, tai, mũi, lưỡi... quen phóng ra bên ngoài để tìm hiểu, phân tích, mà quên nhìn lại nơi mình. Vì lẽ đó trong nhà thiền dạy: phản quan tự kỷ bổn phận sự, nghĩa là xoay lại chính mình mới là bổn phận chánh. Nếu chúng ta biết được tất cả bên ngoài cho đến những vì sao xa xôi trên bầu trời, mà không biết tí gì về chúng ta, đó là một thiệt thòi lớn lao. Người thế gian khi làm điều gì đều muốn được thành công, nhưng sự thành công đó kéo dài lắm cũng chỉ năm ba mươi năm rồi cũng phải buông, không giữ được mãi mãi. Chỉ có cái chân thật của chính mình mới lâu dài vĩnh cửu. Nghĩ mới hôm nào chúng ta đôi ba mươi tuổi mà ngày nay đã già rồi, đời sống con người ngắn ngủi làm sao! Nếu chúng ta nghĩ tất cả của cải thế gian là nguồn hạnh phúc, nguồn an vui tuyệt đối, điều này không hợp với lẽ thật. Chỉ có biết rõ được mình mới là điều quan trọng và thực tế. Ví dụ như người đời rành rẽ việc làng xóm, đất nước, thế giới, nhưng việc trong nhà lại không biết tí nào, người đó có thiếu thực tế không? Việc trong nhà là nơi gốc họ sống mỗi ngày, mỗi tháng, mỗi năm mà không biết, chỉ biết chuyện bên ngoài, quả là thiếu thực tế lắm vậy.
Mọi người thường nói về mình, xưng là tôi, là ta. Nhưng thử hỏi, cái gì là mình, là ta, thì khó trả lời cho thông được. Nếu nói thân này là mình, khi chưa có thân thì chưa có mình sao? Nếu có thân rồi mai kia thân hoại thì mình ở đâu? Nếu nói thân này là mình, thân này do đất nước gió lửa hợp thành, đúng ra là vô tri, chẳng lẽ mình lại vô tri hay sao? Nếu nói thân này có cả phần tinh thần lẫn vật chất, thì phần nào là mình? Tinh thần hay vật chất? Những điều đó rất thiết yếu mà ít người quan tâm đến! Chúng ta cứ mải lo tìm sanh kế, sống ngày này qua ngày khác, cuối cùng từ giã cuộc đời. Rồi ngang đó chúng ta không biết ra sao nữa, đó là điều thật đáng buồn. Vì vậy người tu là biết quay lại tìm cho ra mình là cái gì? Là thân tứ đại này chăng? Là những tình cảm vui buồn thương ghét chăng? Hay là cái gì cao siêu hơn nữa? Chúng ta tu cốt phải làm sao thấy được con người mình, con người chân thật.
Một Thiền sư cư sĩ đời Trần, ngài Tuệ Trung Thượng Sĩ có bài kệ soi lại mình, nhan đề “Chiếu Thân”.
Tiêu đầu lan ngạch bị kim bào,
Ngũ thất niên gian thị xưởng tào.
Túng giả siêu quần kiêm bạt tụy,
Nhất hồi phóng hạ nhất hồi cao.
Dịch:
Soi Thân
Sém đầu dập trán bởi đua chen,
Năm bảy mươi năm kiếp ngựa hèn.
Ví thực bạt siêu ngoài thói tục,
Một lần buông xuống một lần lên.
Trúc Thiên
Sém đầu dập trán bởi đua chen: Trải qua bao nhiêu thời gian chạy theo thế tục làm cho đầu phải sém, trán phải dập, cũng bởi đua chen với đời, rốt cuộc rồi không tới đâu, vất vả nhiều mà kết quả chẳng bao nhiêu, cho nên nói:
Năm bảy mươi năm kiếp ngựa hèn: Như con ngựa yếu, chúng ta trải qua năm bảy mươi năm mệt mỏi cũng không được gì!
Ví thực bạt siêu ngoài thói tục: Nếu thật vượt ra được ngoài thói tục, tức là thói đua chen giành giựt, thì sẽ ra sao?
Một lần buông xuống một lần lên: Vì sao buông xuống lại được lên? Vì buông đi một gánh nặng là chúng ta nhẹ bớt một phần. Nếu buông nhiều chừng nào chúng ta càng nhẹ chừng nấy, cho nên càng buông thì càng lên. Nếu chúng ta giành giựt tranh đua nhau mãi, chỉ là làm khổ cho nhau, chớ có lợi ích gì! Biết nhường nhịn nhau, biết trở lại tìm mình, và vượt ra ngoài thói tục, chúng ta sẽ buông xả những tranh đua giành giựt. Lúc ấy chúng ta sẽ cảm thấy nhẹ nhàng siêu thoát. Là người biết tu, biết học đạo, chúng ta phải xoay trở lại mình, thấy rõ mình, đó là điều hết sức thiết yếu.
Biết được mình có giá trị gì? Ví dụ có người muốn bất cứ điều gì trong cuộc đời đều được toại nguyện, người đó được hạnh phúc chưa? Mới nhìn qua tưởng chừng như được đại hạnh phúc vậy. Nhưng đến khi cái chết gần kề, họ muốn sống cũng không được, thì lúc đó đau khổ ngần nào! Được tất cả sự vật bên ngoài, mà ngay bản thân mình không tự cứu được, cũng không ai cứu được. Như vậy tất cả sự vật bên ngoài đối với người đó còn có giá trị hay không? Lại có người tuy tiền của không bao nhiêu, đời sống rất đạm bạc nhưng họ đã thấy rõ được mình, biết cái gì là thật, cái gì là hư. Đời của họ có một chỗ tựa, một chỗ đứng vững vàng không còn hồi hộp, lo sợ gì nữa. Họ sống an nhàn tự tại, không còn sợ ngày mai khi chết rồi sẽ ra sao? Họ tự thấy mình một cách rõ ràng tỉnh táo, biết mình sẽ không còn phải đau khổ nữa, không còn phải sa vào ba đường ác: địa ngục, ngạ quỉ và súc sanh. Chính mình biết được mình, đó mới là giá trị cao nhất của cuộc đời.
Trong kinh Pháp Hoa có ví dụ: Một ông vua sai binh tướng đi đánh giặc. Khi binh tướng thắng trận trở về, nhà vua thưởng cho vị tướng tài giỏi nhất hòn ngọc ngài cất trong búi tóc, còn các tướng khác chỉ được tặng những vật phẩm thường thôi. Trong câu chuyện này Vua dụ cho đức Phật, vị tướng tài giỏi nhất dụ cho những Bồ-tát đã ngộ được Tri kiến Phật, nên được tặng cho hạt minh châu. Ngộ được Tri kiến Phật tức là thấy được chính mình, đó là giá trị cao nhất. Con người mà mình tìm biết được là con người nào? Chúng tôi gọi đó là con người chân thật. Con người nặng bốn mươi năm mươi ký là con người tạm bợ, chỉ sống mấy mươi năm rồi tan rã. Chỉ có con người chân thật mới không bị hủy hoại, không bị tiêu mất.
Con người chân thật đã từng được nói đến trong kinh Phật, từ kinh Nguyên thủy cho đến kinh Đại thừa và Thiền tông. Trong kinh A-hàm hay các bộ Nykàya, đức Phật thường dạy: Nếu diệt hết tham sân si, dẹp hết các phiền não thì mầm sanh tử dứt, gọi là được giải thoát hay là nhập Niết-bàn. Trong kinh Phật chủ trương vô thường, khổ, không, vô ngã. Nếu vô ngã, khi nói giải thoát, nhập Niết-bàn thì cái gì giải thoát, cái gì nhập Niết-bàn? Đó là một vấn đề mà đa số người học Phật đều thắc mắc. Thật ra thời đức Phật, đức Phật phải đương đầu với giáo lý Bà-la-môn. Giáo lý này chủ trương có thần ngã, người tu chín chắn sau khi chết, thần ngã sẽ nhập vào Đại ngã hay còn gọi là trời Đại Tự Tại hay Phạm thiên. Thần ngã trong đạo Bà-la-môn là cái hiểu biết, cái suy tính của con người cũng giống như linh hồn mà người bình dân thường tin tưởng. Để phá chấp về thần ngã hay linh hồn, đức Phật thuyết lý vô ngã. Nói vô ngã là để phá chấp hữu ngã của đạo Bà-la-môn, vì chấp như thế không đến được cái chân thật. Những suy nghĩ, phân biệt, hiểu biết là hiện tượng của thần ngã, tức là tướng sanh diệt, mà cho rằng không sanh diệt, đó là điều sai lầm. Vì vậy Phật nói cái đó không phải là ngã. Nếu nói giải thoát, nói nhập Niết-bàn là cái ngã giải thoát, cái ngã nhập Niết-bàn, thì người ta sẽ hiểu lầm đó là cái ngã của đạo Bà-la-môn. Vì vậy đức Phật chỉ nói giải thoát, chỉ nói nhập Niết-bàn, mà không nói cái gì giải thoát cái gì nhập Niết-bàn. Đức Phật dạy chúng ta đừng chấp, để chúng ta tu hành giải thoát, giải thoát rồi sẽ biết.
Chúng ta không khỏi thắc mắc nói giải thoát, nói nhập Niết-bàn, là phải có chủ từ. Ví dụ như nói được mở trói, được mời vào nhà sang trọng, thì phải có ai được mở trói, ai được mời vào nhà sang trọng. Ở đây, đức Phật không nêu lên con người chân thật nghĩa là do đạt được con người chân thật mà chúng ta giải thoát, do đạt được con người chân thật mà chúng ta nhập Niết-bàn là để tránh cái lỗi chấp thần ngã như bên đạo Bà-la-môn. Nếu lầm chấp cái được giải thoát, được Niết-bàn là thần ngã thì không giải thoát. Vì vậy các kinh Nguyên thủy không nói ai được giải thoát, ai được Niết-bàn.
Tuy nhiên, đức Phật không phải không nói về vấn đề ấy. Kinh Phật Sở Thuyết, trang 382 Tiểu Bộ Kinh, tạng Pali, Phật dạy: “Này các Tỳ-kheo, có sự không sanh, không hiện hữu, không bị làm, không hữu vi. Này các Tỳ-kheo, nếu không có cái không sanh, không hiện hữu, không bị làm, không hữu vi, thời ở đây không thể trình bày sự xuất ly khỏi sanh, hiện hữu, bị làm, hữu vi. Vì rằng, này các Tỳ-kheo, có cái không sanh, không hiện hữu, không bị làm, không hữu vi nên có sự trình bày sự xuất ly khỏi sanh, hiện hữu, bị làm, hữu vi.” Trong đoạn kinh này đức Phật xác nhận có cái không sanh, không hiện hữu, không bị làm, không hữu vi. Vì có cái đó cho nên mới có xuất ly, tức là có giải thoát. Đức Phật xác nhận rõ ràng có cái không nói tên, nhưng chúng ta ngầm hiểu đó là con người chân thật của chúng ta.
Qua đến kinh điển Đại thừa, con người chân thật được nêu lên rất rõ ràng. Trong kinh Kim Cang, Phật nói kệ:
Nhược dĩ sắc kiến ngã
Dĩ âm thanh cầu ngã
Thị nhân hành tà đạo
Bất năng kiến Như Lai.
Dịch:
Nếu do sắc thấy ta
Do âm thanh cầu ta
Người ấy hành đạo tà
Không thể thấy Như Lai.
Chữ “ta” (ngã) trong bài kệ chỉ cái gì? Nếu “ta” chỉ hình tướng đức Phật khi còn tại thế ở Ấn Độ, thì hình tướng đó ngày nay không còn nữa. Nếu “ta” chỉ cái khi đức Phật nhập Niết-bàn thì cũng không hợp lý. Chữ “ta” chỉ cái ta mà mọi người sẵn có, cái ta đó còn gọi là Pháp thân hay Phật tánh.
Kinh điển Đại thừa nói cái thân hiện có của chúng ta là cái thân tạm bợ giả dối. Ngay trong cái thân tạm bợ giả dối này có cái chân thật bất sanh bất diệt, gọi là Pháp thân hay Phật tánh. Chữ “ngã” là chỉ cho Pháp thân. Pháp thân không phải là sắc tướng, cho nên không do sắc mà thấy. Pháp thân không phải là âm thanh, cho nên không do âm thanh mà cầu. Sắc tướng âm thanh là tướng sanh diệt tạm bợ, nếu dùng sắc tướng âm thanh mà cầu gọi là hành đạo tà, không thể thấy được Pháp thân, cho nên nói không thể thấy Như Lai, Như Lai là chỉ cho Pháp thân. Kinh điển Đại thừa đã nêu lên cho chúng ta thấy mỗi người đều sẵn có Pháp thân.
Ngày xưa khi còn ở Phật học đường, chúng tôi thắc mắc không hiểu vì sao các nhà tạc tượng ở Việt Nam, khi tạc hình đức Phật lại giống người Việt Nam. Chẳng lẽ các vị ấy không biết đức Phật là người Ấn Độ hay sao? Ở Trung Hoa cũng vậy, hình đức Phật giống người Trung Hoa, ở Nhật Bản thì giống người Nhật Bản...Vì sao các nhà điêu khắc lại tạc tượng như vậy? Ngày nay khi học kỹ kinh điển Đại thừa rồi, chúng tôi mới biết tinh thần Đại thừa không chỉ thừa nhận đức Phật với ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp như ở Ấn Độ, mà luôn luôn đề cao Phật pháp thân. Phật pháp thân là Tánh giác mỗi người sẵn có. Dù ở Trung Hoa, Nhật Bản hay Việt Nam, ai cũng có Tánh giác như đức Phật ở Ấn Độ. Nếu khéo tu, khéo chuyển thì tất cả đều giác ngộ thành Phật như Ngài. Các nhà điêu khắc hiểu được lý này, nên tạc hình đức Phật giống như người của nước mình. Đó là để nói lên tinh thần Đại thừa, chỉ thấy Phật là Phật pháp thân. Phật pháp thân thì ở nơi nào cũng có, chớ không riêng ở quốc độ nào. Chỉ có người nhận được cái chân thật nơi mình ngoài âm thanh, ngoài sắc tướng, mới có thể thấy Như Lai, tức là Phật pháp thân.
Trong nhà thiền, con người chân thật còn được gọi là Bản lai diện mục hay Ông chủ. Lục tổ Huệ Năng khi nhận được y bát của Ngũ Tổ rồi, rời Huỳnh Mai ra đi. Có một đoàn người dẫn đầu là Thượng tọa Huệ Minh đuổi theo để đoạt lại y bát… Khi gặp Lục Tổ, Thượng tọa Minh thưa: Tôi đến đây vì cầu pháp, chớ không phải giành y bát. Lục Tổ bảo: Nếu muốn cầu pháp, ông hãy bình tĩnh lắng tâm nghe tôi hỏi. Thượng tọa Minh yên lặng giây lâu, Lục Tổ hỏi: “Không nghĩ thiện, không nghĩ ác, chính khi ấy cái gì là Bản lai diện mục của Thượng tọa Minh?” Ngay đó ngài Huệ Minh ngộ, nhận được Bản lai diện mục, tức là bộ mặt sẵn có của mình từ xưa đến giờ.
Trung Hoa có Thiền sư Sư Ngạn thường ngồi tu trên tảng đá, ngồi một lát, thấy hơi lơ là, tự gọi: “Ông chủ!” Rồi ứng thanh: “Dạ!” Bèn bảo tiếp: “Tỉnh tỉnh, đừng bị người lừa nghe!” Lâu lâu Ngài tự gọi rồi tự đáp. Tu như vậy, về sau Ngài trở nên một Thiền sư nổi danh thời bấy giờ.
Danh từ Ông chủ hay Bản lai diện mục, trong nhà thiền thường hay nhắc đến là để chỉ cái chân thật sẵn có nơi mọi người. Rất tiếc vì chúng ta không nhận thấy, hay vì quên nên không sống được với cái chân thật đó. Bởi thế đức Phật bảo chúng ta mê, mê là quên mình có con người chân thật, rồi đuổi theo, lo lắng cho con người tạm bợ giả dối, đến khi con người tạm bợ sắp tan rã lại hoảng sợ cuống cuồng lên, không biết rồi mình sẽ ra sao? Ngộ là nhận được và hằng sống với cái chân thật ấy, đó là nguồn hạnh phúc vô cùng, nên gọi là Niết-bàn, an lạc, giải thoát.
Muốn biết được Ông chủ hay con người chân thật quả là thiên nan vạn nan. Thiền sư Ngộ Ấn đời Lý ở Việt Nam, khi sắp tịch có bài kệ:
Diệu tánh hư vô bất khả phan,
Hư vô tâm ngộ đắc hà nan.
Ngọc phần sơn thượng sắc thường nhuận,
Liên phát lô trung thấp vị càn.
Dịch:
Diệu tánh rỗng không chẳng thể vin,
Rỗng không tâm ngộ việc dễ tin.
Tươi nhuần sắc ngọc trong núi cháy,
Lò lửa hoa sen nở thật xinh.
Trong lò lửa cháy hực, một đóa sen đang nở tươi thắm, điều đó có tin được hay không? Thật là khó tin. Tuy khó tin mà có thật, mới là lạ chứ! Thân chúng ta từ hình thức vật chất đến tinh thần, nghĩ suy tính toán đều luôn luôn sanh diệt đổi thay. Nhưng trong cái sanh diệt đổi thay đó, có cái chưa bao giờ sanh diệt đổi thay. Đức Phật ví cái đổi thay vô thường như là lửa, lửa đốt cháy làm sự vật phải tiêu mòn. Vì vô thường nên con người luôn luôn thay đổi không bao giờ dừng, từ trẻ đến già, từ già đến chết. Thân tâm đều vô thường. Trong cái vô thường đó, muốn tìm cái không vô thường rất khó, chẳng khác nào trong lò lửa mà có một đóa sen nở tươi thắm, không bao giờ bị khô héo. Điều này tuy khó tin mà có thật. Thấy được điều này thật là hãn hữu. Thấy được rồi, chúng ta không còn lo sợ vì trong cuộc sống vô thường còn có cái miên viễn không bao giờ mất. Thân này, cảnh này dù có mất đi, nhưng cái chân thật nơi chúng ta luôn luôn hiện hữu. Đối với sanh tử, các vị đạt đạo xem như trò chơi, chúng ta vì chưa thấy đạo nên khi thân này sắp tan hoại, lại lo sợ kinh hoàng. Lúc ấy nếu cho được sống thêm năm mười năm nữa, chúng ta vui mừng vô hạn. Còn trong vô thường, mất trong vô thường mà mừng sợ làm gì? Có cái chưa bao giờ vô thường, chưa bao giờ mất, chúng ta lại không thấy. Vì thế cái không vô thường, không tan hoại được ví như viên ngọc quí trên ngọn núi đang cháy, lửa hừng hực mà ngọc vẫn tươi nhuần, cũng như hoa sen trong lò lửa mà vẫn tươi thắm. Hình ảnh trái ngược này, người thế gian không bao giờ tưởng tượng được, nhưng người tu Phật khi công phu viên mãn thì thấy rõ điều đó không nghi ngờ. Vì thế người tu còn gọi là người xuất thế gian, tức là người vượt qua sự tưởng tượng, sự nghĩ bàn của thế gian.
Trong hai câu đầu của bài kệ, ngài Ngộ Ấn dạy chúng ta:
Diệu tánh rỗng không chẳng thể vin,
Rỗng không tâm ngộ việc dễ tin.
Tánh nhiệm mầu rỗng không, không thể vin theo hay nắm bắt được. Muốn ngộ được diệu tánh ấy, tâm mình phải rỗng rang, không còn những ý niệm lăng xăng dao động. Nhưng hiện nay tâm mình lúc nào cũng đầy tràn. Muốn tâm được rỗng rang, chúng ta phải buông hết đi, ném sạch hết đi, thì mới thấy cái chân thật rỗng rang đó.
Tươi nhuần sắc ngọc trong núi cháy,
Lò lửa hoa sen nở thật xinh.
Khi tâm mình được rỗng rang thanh tịnh rồi, chúng ta mới thấy ngay nơi thân vô thường này có cái chân thật không vô thường, giống như trong ngọn núi đang cháy có hòn ngọc tươi nhuần, trong lò lửa hừng hực có một đóa sen xinh tươi đang nở. Điều này rất khó tin nhưng có thật. Nếu chúng ta khéo tu, khéo ứng dụng thì sẽ thấy được, chắc chắn không nghi ngờ. Chính đức Phật đã sống với diệu tánh chân thật ấy nên Ngài ung dung tự tại trước mọi hoàn cảnh. Chư Tổ khi xưa cũng thấy được và sống được với cái chân thật đó, nên xem sanh tử như trò chơi, không có nghĩa lý gì.
Ở Trung Hoa, Thiền sư Tỉnh Niệm khi sắp tịch nói kệ:
Bạch ngân thế giới kim sắc thân,
Tình dữ phi tình cộng nhất chân.
Minh ám tận thời câu bất chiếu,
Nhật luân ngọ hậu kiến toàn thân.
Dịch:
Thế giới bạch ngân thân sắc vàng,
Tình với phi tình một tánh chân.
Tối sáng hết rồi đều chẳng chiếu,
Vầng ô vừa xế thấy toàn thân.
Khi Ngài thấy được con người chân thật rồi thì cái thân vô thường bại hoại này có mất đi, chẳng qua như bọt nước dưới biển, tan ra rồi trở về biển chớ có mất mát gì đâu. Cho nên nói vầng ô vừa xế thấy toàn thân là khi tịch, Ngài thấy được toàn thân chớ không có mất.
Ở Việt Nam, Thiền sư Liễu Quán có nói bài kệ:
Thất thập dư niên thế giới trung,
Không không sắc sắc diệc dung thông.
Kim triêu nguyện mãn hoàn gia lý,
Hà tất bôn man vấn tổ tông.
Dịch:
Hơn bảy mươi năm ở cõi trần,
Không không sắc sắc thảy dung thông.
Hôm nay nguyện mãn về quê cũ,
Nào phải bôn ba hỏi tổ tông.
Đối với Ngài khi thân này tan hoại, đó là lúc trở về quê cũ, không có gì mất mát, không có gì phải âu lo buồn khổ. Thấy đạo tức thấy mình có con người chân thật rồi thì sự sống chết chỉ là trò chơi không quan trọng, vì thế Ngài ra đi thảnh thơi tự tại, không sợ sệt.
Trở lại thực tế, như tôi là một Phàm tăng, sanh trong thời mạt pháp, lại thêm phước mỏng nghiệp dày. Nhưng trên đường tu với tâm cố gắng mãnh liệt, tôi vẫn tin rằng mình có con người chân thật, lòng tin của tôi kiên cố không chút nghi ngờ. Chúng tôi không nói vấn đề tu chứng chi cả, chỉ nói lòng tin vững chắc: Nơi tôi có con người chân thật.
Ngày trước tôi có mặc cảm là mình không đủ phước duyên như quí Hoà thượng đi tu từ thuở nhỏ, năm bảy tuổi, hay mười một mười hai tuổi. Đến năm ngoài hai mươi tuổi tôi mới xuất gia, kể ra là quá muộn rồi, thật là phước mỏng nghiệp dày! Khi vào chùa tôi được biết là mình tu nhằm thời mạt pháp, chắc không sao tiến nổi. Tu là để gieo duyên lành cho đời sau tiếp tục, chớ không có chút hi vọng gì tìm ra đạo lý cao siêu! Các bậc Thầy Tổ của chúng tôi thường nhắc: “Mình sanh nhằm thời mạt pháp, thôi thì dùng lục tự Di-đà, niệm Phật rồi sau Phật rước về nước của Ngài. Qua được bên ấy, dù là hàng hạ sanh, hạ phẩm cũng còn vui hơn ở cõi Ta-bà đau khổ này.” Yên lòng như vậy, tôi không nghĩ gì hơn là cố gắng gieo chút duyên lành với Phật pháp.
Tuy nhiên tôi có thói quen là làm việc gì cũng không dám tự mãn. Dù Thầy Tổ có dạy như vậy, nhưng khi học kinh điển, thấy đức Phật do ngồi thiền mà thành đạo, vì thế tôi mò mẫm cố làm sao thấy được điều Phật đã dạy. Rõ ràng đức Phật do ngồi thiền dưới cội bồ-đề mà được giác ngộ, vì vậy noi gương Ngài, tôi tập ngồi thiền. Nhưng khổ nỗi, ai dạy mình ngồi, đọc sách nào đây? Tôi mới lục trong Tạng kinh, đọc thêm các sách Thiền tông. Sao mà khó hiểu quá! Nhưng tôi có niềm tin vững chắc đối với con đường mà Phật và chư Tổ đã đi. Thế nên tôi quyết chí tu thiền, mặc cho sự việc ra sao. Lấy bản thân mình làm thí nghiệm, sống được cũng tốt, mà chết đi cũng tốt. Sau đó khi bắt đầu thực hành, chúng tôi phải dọ dẫm lần hồi vì không có thầy bạn hướng dẫn. Nhờ hồng ân của Phật Tổ, chúng tôi thấy được một chút đạo lý để giữ vững niềm tin mình có một con người chân thật. Và chúng tôi khẳng định điều đó không còn nghi ngờ gì nữa. Giả sử bây giờ có bao nhiêu lý luận hay thế mấy mà nói rằng không có con người chân thật, tôi vẫn lắc đầu không chấp nhận.
Tôi tự ví mình như Thiền sư Đại Mai Pháp Thường. Ngài Pháp Thường sau khi tham vấn Mã Tổ, về núi Đại Mai ẩn tu. Mã Tổ nghe tin Ngài ở núi mà không biết Ngài ngộ cái gì, nên sai một vị Tăng đến thăm dò. Vị Tăng đến hỏi:
- Ngài gặp Mã Tổ được cái gì mà về ở núi này?
Ngài đáp:
- Tôi chỉ nghe Mã Tổ nói “tức tâm tức Phật”, nên về ở núi này.
Vị Tăng nói:
- Gần đây Mã Tổ lại nói “phi tâm phi Phật”.
Ngài nói:
- Ông già mê hoặc người, mặc ông nói “phi tâm phi Phật”, tôi chỉ biết “tức tâm tức Phật” thôi.
Vị Tăng trở về bạch lại Mã Tổ. Mã Tổ nói với đại chúng: Trái Mai đã chín. Như vậy “chín” là sao? Tức là được lòng tin không thối chuyển. Chính Mã Tổ là thầy của Ngài, đã nói “tức tâm tức Phật” mà bây giờ đổi lại “phi tâm phi Phật” nhưng Ngài vẫn cả quyết mặc ông già mê hoặc người, ta chỉ biết “tức tâm tức Phật”. Chính lòng tin đó khiến Ngài tu hành không thối chuyển.
Tuy chúng tôi tu không bằng ngài Đại Mai, nhưng cũng tin chắc rằng nơi mình có cái không sanh không diệt. Dù có ai nói gì đi nữa tôi vẫn khẳng định niềm tin này. Vì có con người chân thật đó chúng ta mới giải thoát, mới nhập Niết-bàn. Nếu không thì ai giải thoát? Ai nhập Niết-bàn? Cái chân thật nơi mình không phải là điều xa xôi huyền bí mà rất thực tế. Nếu chúng ta chịu khó dụng tâm nghiền ngẫm thì sẽ thấy được điều đó không nghi ngờ. Khi thấy được cái chân thật rồi, dù chúng ta chưa làm chủ thân này, chưa được tự tại trong sanh tử, song chúng ta không phải khổ đau khi mất nó. Riêng tôi, tuy chưa làm chủ được thân, nhưng tin chắc rằng mất thân này tôi không lo sợ. Và những ai có chí tu hành cũng đừng mặc cảm như tôi ngày trước, cho rằng mình sanh thời mạt pháp, phước mỏng nghiệp dày... mà phải thấy rằng chúng ta còn có duyên với đạo, cho nên ngày nay mới phát tâm tu hành, mới được sự nhắc nhở của thầy bạn và đọc được bao nhiêu kinh sách của Phật, chưa phải chúng ta vô phần.
Ngày trước chúng tôi rất bi quan khi nghĩ rằng thời mạt pháp người tu không bao giờ có chứng đắc. Nhưng sau này học sử Phật giáo rồi, chúng tôi mới thấy không hẳn luôn luôn như vậy. Thời chánh pháp, khi đức Phật tại thế, vẫn có nhiều Tỳ-kheo thối Bồ-đề tâm vì không quyết chí tu hành. Còn tuy là thời mạt pháp mà nếu chúng ta quyết tử trên đường tu, thì cũng có thể tiến được. Vì thế chánh pháp hay mạt pháp là cốt ở tâm mình, nếu quyết chí tu hành thì thời mạt pháp coi như là thời chánh pháp, nếu không quyết chí tu hành thì ngay trong thời chánh pháp coi như là mạt pháp. Vậy chúng ta không nên có mặc cảm là mình đang sanh thời mạt pháp rồi thả trôi cuộc đời tu hành. Chúng ta phải nỗ lực tiến tu để có thể chuyển mạt pháp thành chánh pháp. Tinh thần của người tu là, dù sống trong thời buổi nào cũng phải cố gắng vươn lên, tu hành tinh tấn cho đến ngày công hạnh viên mãn. Như vậy, chúng tôi đã dẫn từ các kinh điển Nguyên thủy cho đến Đại thừa và Thiền tông, để quí vị thấy nơi chúng ta đều có sẵn con người chân thật, nếu quyết chí tu hành thì sẽ thấy được điều đó không nghi ngờ.
Kết thúc bài giảng hôm nay chúng tôi dẫn bài kệ “Khuyến Thế Tiến Đạo” của Tuệ Trung Thượng Sĩ, để nhắc nhở tất cả quí vị thức tỉnh và cố gắng lên:
Tứ tự tuần hoàn xuân phục thu,
Xâm xâm dĩ lão thiếu niên đầu,
Vinh hoa khẳng cố nhất trường mộng,
Tuế nguyệt không hoài vạn hộc sầu.
Khổ thú luân hồi như chuyển cốc,
Ái hà xuất một đẳng phù âu,
Phùng trường diệc bất mô lai tỹ,
Vô hạn lương duyên chỉ mạ hưu.
Dịch:
Khuyên đời vào đạo
Thời tiết xoay vần xuân đến thu,
Cái già sồng sộc đã lên đầu,
Giàu sang ngó lại trơ tràng mộng,
Năm tháng mang theo chất hộc sầu.
Nẻo khổ, vành xe lăn lóc khắp,
Sông yêu, bọt nước mất còn đâu,
Trường đời nếu chẳng rờ lên mũi,
Ngàn thuở lương duyên chỉ bóng màu.
Trúc Thiên
Thời tiết xoay vần xuân đến thu,
Cái già sồng sộc đã lên đầu.
Hết xuân, hạ đến thu, đông, rồi lại sang xuân... thời tiết cứ như thế mà tiếp tục, tiếp tục mãi. Khi thời gian xoay vần biến chuyển thì cái già đã đáp lên đầu chúng ta rồi. Thời gian biến chuyển, bản thân chúng ta cũng biến đổi theo. Mỗi một ngày qua là già thêm một chút, sức sống giảm đi một phần. Rồi một tháng qua, một năm qua chúng ta lại càng già hơn, mạng sống lại càng mong manh hơn! Nếu chúng ta mong cho mau hết ngày, hết tháng, hết năm, tức là mong cho mau già, mau chết chớ gì? Như vậy nếu cái già cái chết đến, lẽ ra chúng ta phải vui mừng, mà tại sao khi ấy lại lo sợ hoảng hốt? Thật là mâu thuẫn. Vì sống mâu thuẫn, không thấy được lẽ thật, nên chúng ta đau khổ. Ngày nay không ra gì, chúng ta mong cái gì mới lạ ở ngày mai, không ngờ cái lạ chắc chắn là mái tóc mình sẽ bạc: trẻ rồi già, già rồi chết. Đó là cái lạ mà chúng ta không chịu chấp nhận. Thời gian và bản thân mình nhịp nhàng theo nhau, nếu không mong cái chết đến với chúng ta, thì thôi đừng mong thời gian qua mau làm gì!
Giàu sang ngó lại trơ tràng mộng,
Năm tháng mang theo chất hộc sầu.
Hai câu này mới thấm thía làm sao! Tất cả giàu sang phú quí trên đời này, khi chúng ta sắp tắt thở nằm liệt trên giường, nhớ lại giống như giấc mộng thôi. Cái gì đã qua rồi, không tìm lại được. Như ban đêm mình mộng thấy giàu sang tột đỉnh, sáng ra tỉnh dậy mới biết chỉ là giấc mộng thôi. Cảnh trong mộng làm sao tìm ra được. Thế nên dù giàu sang sung sướng bao nhiêu, khi tuổi già đến, nhớ lại quãng đời trước chẳng khác nào giấc mộng, đâu có gì tồn tại lâu bền! Đã là mộng vì sao lại khổ đau? Mỗi một ngày qua, có khi nào chúng ta thản nhiên vô sự đâu, hết buồn giận người này đến phiền trách người kia, rồi chứa chất trong lòng không biết bao nhiêu là sầu khổ! Như vậy suốt cuộc đời từ trẻ đến già, khổ đau tràn ngập. Thân thì tiêu mòn mà buồn phiền đau khổ tăng lên gấp bội, đó là cái mâu thuẫn đáng thương của chúng ta. Đến khi thân này tan hoại, thì những khổ đau đầy ắp đó sẽ dẫn mình đến chỗ nào đây?
Nẻo khổ, vành xe lăn lóc khắp,
Sông yêu, bọt nước mất còn đâu.
Phiền não quá nhiều sẽ lôi chúng ta đi vào những con đường đau khổ xấu xa, chẳng khác nào vành xe lăn hết nơi này đến chốn kia, mà toàn là đến chỗ khổ đau. Nếu trong lòng đang ngập tràn phiền não, giả sử có người dẫn chúng ta đi ngắm cảnh đẹp cho vui, thử hỏi làm sao vui được! Thế nên lúc đang đau khổ mà mất thân này, chắc chắn chúng ta sẽ bị đưa đến những chỗ khổ đau. Muốn ngày mai được an vui, thì ngang đây phải buông đi tất cả phiền não trong lòng.
Sông yêu, chữ yêu đây tức là ái, nếu còn tâm ái trước thân này và trìu mến cảnh vật chung quanh thì khi mất thân này chúng ta lại tạo thân khác, sanh tử nối tiếp không dừng, giống như bọt nước ngoài biển, cơn sóng đùa qua bọt nước nổi lên rồi bể nát, nổi lên rồi bể nát không biết bao nhiêu lần. Nếu trong lòng chứa nhóm thù hận chúng ta sẽ đi vào con đường đau khổ, nếu còn chứa nhóm lòng yêu mến thân và cảnh, chúng ta sẽ bị dẫn đi trong sanh tử liên tục không dừng.
Trường đời nếu chẳng rờ lên mũi,
Ngàn thuở lương duyên chỉ bóng màu.
Nếu gặp cơ hội mà chúng ta không rờ lên mũi thì duyên lành muôn thuở đó cũng chỉ là chuyện bóng màu, phớt qua rồi mất, uổng đi một đời. Rờ lên mũi là ý nghĩa gì? Trong nhà thiền, khi nói tới lỗ mũi là để chỉ cái sẵn có ở trước mặt mà mình không thấy. Lỗ mũi lại là nơi thở ra hít vào tức là nguồn sống của chúng ta. Như vậy lỗ mũi dụ cho con người chân thật hiện hữu nơi chúng ta, mà chúng ta lại không thấy. Rờ lên mũi nghĩa là nhận được con người chân thật nơi mình. Nhận được, cuộc đời chúng ta mới có giá trị. Bằng không thì duyên lành muôn thuở của chúng ta chẳng qua là ảo ảnh mà thôi.
Trong hai câu kết ngài Tuệ Trung Thượng Sĩ đã nhắc chúng ta, nhất là người đã thế phát xuất gia, có duyên lành với Phật pháp nếu không nhận được con người chân thật nơi mình, thì uổng phí cả một đời tu. Thế nên chúng ta phải nỗ lực cố gắng làm sao để duyên tốt đó được hữu ích và thực tế hơn.
Hôm nay là ngày cuối năm. Đêm ba mươi tháng chạp là đêm chuyển mình từ năm cũ sang năm mới. Trong nhà Phật thường ví đêm này như thời gian sắp tắt thở của chúng ta, chuyển mình từ thân cũ sang thân mới, hay từ thân tiền ấm chuyển sang thân hậu ấm. Từ cũ chuyển sang mới thì cái mới phải tốt đẹp hơn. Nhưng đó là còn trong vòng sanh tử. Nếu thân cũ này bại hoại đi, chúng ta được thảnh thơi giải thoát, đó mới đúng là người chân thật xuất gia, đúng là người cầu đạo giải thoát.
Mong rằng tất cả Tăng Ni và Phật tử được phước duyên lành sống trong nhà đạo, chúng ta phải nhớ đừng hủy hoại duyên lành của mình mà phải luôn luôn cố gắng. Trong năm cũ nếu chúng ta tạo được những gì hay đẹp thì hãy lấy đó làm nền tảng để sang năm mới càng hay đẹp hơn. Nếu trong năm cũ chúng ta đã lỡ gây ra những gì hư dở, thì sang năm mới chúng ta dứt khoát không tiếp tục làm những điều ấy nữa, mà phải chuyển sang làm những việc hay đẹp.
Nhân ngày cuối năm cũng là lúc chuẩn bị đón giao thừa, chúng ta nhắc nhở nhau tiến trên con đường đạo, gọi là tùy theo thế tục để trở về chân. Chúng tôi mong rằng tất cả quí Tăng Ni và Phật tử có mặt nơi đây và ở những nơi khác, không ủ dột âu sầu như năm cũ mà đều cố gắng chuyển mình từ năm cũ sang năm mới với gương mặt rạng rỡ hân hoan, để giữ vững những gì cao quí và hay đẹp của con người chúng ta.
RA KHỎI HẦM LỬA
Tết Kỷ Tỵ - 1989
Hôm nay Tăng Ni, Phật tử về đây để mừng năm mới và tha thiết chúc tụng chúng tôi. Thật ra chúng ta mừng thêm một tuổi hay buồn bớt đi một năm sống? Lần lượt hết năm này sang năm khác, cứ thế mà chúng ta trải qua mấy mươi năm từ thuở bé cho đến ngày nay. Riêng tôi thì tóc bạc da nhăn rồi, còn quí vị có người tóc đã bắt đầu bạc, cũng có người còn trẻ hơn. Trên con đường sanh tử, có người đi hơn nửa đường, có người đi nửa đường, có người mới đi một phần ba, một phần tư đường, đã đi thì nhất định là phải đến, không ai không đến. Thế nên trong nhà Phật lẽ sanh tử là một việc lớn. Vì sợ vô thường nửa chừng, qua được một năm là thấy mình sống thêm một tuổi, sang năm tới chưa biết có tròn được một năm không, nên năm mới mừng tuổi có nghĩa là mừng sống thêm một tuổi. Mừng thêm một tuổi là buồn bớt đi một năm sống, nhưng vì thêm một tuổi là qua được cái yểu và thêm cái thọ, nên tạm gọi đó là mừng.
Riêng chúng tôi, thấy Tăng Ni là những người mình cưu mang từ bao năm nay, chúng tôi muốn những người đó mỗi ngày một hay, mỗi ngày một cao thượng, mỗi ngày thêm sáng suốt, giác ngộ và giải thoát. Thế mà nhiều khi chúng tôi thấy có những người không tiến bao nhiêu, hi vọng được giải thoát nhưng lại trói buộc nhiều, muốn được giác ngộ nhưng ngọn đèn trí tuệ lu từ từ. Đó là những điều làm cho chúng tôi phải lo lắng. Vì vậy mỗi năm, chúng tôi đều nhắc nhở Tăng Ni và Phật tử, phải có cái nhìn xuyên suốt từ buổi ban sơ cho đến hiện nay, để thấy rõ bước tiến của mình mỗi năm mỗi khác, chớ không nên giậm chân một chỗ hoặc thối lui, vì như thế là điều đáng buồn. Đề tài tôi nhắc nhở quí vị hôm nay là Ra khỏi hầm lửa.
Nếu không có chủng duyên lành từ nhiều đời trước, chắc chúng ta khó có thể xuất gia, cạo tóc, ở chùa tu hạnh giải thoát. Từ khi lọt lòng mẹ đến khi khôn lớn, chúng ta có bổn phận đối với cha mẹ quyến thuộc và có trọng trách đối với gia đình, xã hội. Vậy mà chúng ta dứt bỏ được tất cả manh mối trói buộc để một mình an ổn thảnh thơi nơi đạo tràng tu hành thanh tịnh, đó là do đầy đủ phước duyên chớ không phải ai muốn cũng được. Đã có phước duyên lớn như vậy, chúng ta không nên chần chờ, thờ ơ để cho duyên tốt đó bị mai một, như thế là hủy hoại nhân lành đã gieo từ bao đời, đến nay mới được thành tựu. Là người từ trong trăm mối buộc ràng của gia đình, xã hội mà cắt đứt tất cả, ở yên tu hành chúng ta phải nhớ làm tròn bổn phận để khỏi hổ là mở việc này lại cột việc khác. Tránh sự bận rộn phiền toái của gia đình, vào chùa lại cũng phiền toái bận rộn, đó là điều sai lầm, không đúng tinh thần người học đạo.
Kinh Nguyên thủy có kể thầy Sa-di Sanu, đi tu từ thuở năm bảy tuổi cha mẹ gởi vào tinh xá ở với chư Tăng. Một thời gian sau, học hành khá thuyết pháp hay, nhưng không biết vì lý do gì thầy lui sụt tâm Bồ-đề, về xin mẹ hoàn tục. Bà mẹ là người tha thiết với đạo, thấy thầy chán nản việc tu hành nên bà buồn khóc. Thầy Sa-di lấy làm lạ hỏi:
Thưa mẹ người ta khóc,
Khóc vì người đã chết,
Hay có khóc người sống,
Khi sống không được thấy.
Thưa mẹ con đang sống,
Và mẹ đang thấy con,
Vậy vì sao thưa mẹ,
Mẹ lại khóc cho con?
Ý thầy muốn hỏi: Ở thế gian người ta khóc vì đau khổ khi con chết, hoặc vì còn sống mà phải chia tay mỗi người một nơi. Thầy còn sống và còn về gặp mẹ, vậy tại sao mẹ khóc. Bà mẹ đáp:
Người ta khóc cho con,
Là khóc khi con chết,
Hay khóc cho con sống,
Nhưng không được thấy mặt.
Ai đã bỏ dục vọng,
Lại trở lui đời này,
Này con, người ta khóc,
Là khóc cho người ấy,
Vì người ấy được xem,
Còn sống cũng như chết.
Này con, được kéo ra,
Khỏi than hầm lửa rực,
Con còn muốn rơi vào,
Đống than hồng ấy chăng?
Bà mẹ nói lý do quá rõ ràng: Không phải bà khóc vì con chết hay vì sống mà không thấy mặt nhau, mà khóc cho đứa con đã bỏ dục lạc thế gian, nay muốn trở lui lại, giống như kẻ đang sống mà thành chết. Khóc cái chết là khóc cho người bỏ tâm hồn trong trắng, sáng suốt, trở lại thành con người tối tăm u mê, chính đó là niềm đau khổ của bà mẹ. Thứ nữa bà thấy con mình xuất gia, chẳng khác nào người được kéo ra khỏi hầm lửa. Đã ra khỏi hầm lửa, nay lại nài nỉ xin trở vào, biết cái khổ đó, bà thương xót nên khóc. Đó là hai lý do khiến bà buồn khổ. Như thế đối với bậc cha mẹ biết đạo lý, khi thấy con đi tu, đã thâm nhập đạo lý và sống được trong đạo một thời gian thì niềm vinh hạnh của cha mẹ rất lớn, mừng con mình có hạnh xuất trần thoát tục, mừng con được rảnh rang nhàn hạ trong đạo đức, rồi mai kia sẽ làm lợi ích cho nhiều người. Khi con được cha mẹ đặt hi vọng, đặt niềm tin, nay trái lại muốn bỏ đạo lý để trở thành người thế tục, điều đó khiến cha mẹ đau khổ hơn lúc cho con đi tu. Một là nhục nhã vì con mình không tròn chí nguyện cao cả, hai là thương con đã có chí giải thoát xuất trần, đã được thảnh thơi nhàn hạ, nay lại trở thành người tầm thường, lăn trong trần tục, bị muôn mối buộc ràng. Vậy đã là người xuất gia chúng ta phải làm thế nào? Chần chờ để qua ngày tháng hay có niệm thối lui trở về tìm hưởng dục lạc? Hai quan niệm đó đều tội lỗi, đều gây khổ đau cho cha mẹ.
Thiền sư Đạo Ưng nói: “Các ông xuất gia như kẻ tội ra khỏi khám đường, nên ít muốn biết đủ, chớ tham danh lợi ở đời... được ở trong Phật pháp phải mười phần sống chín phần chết...” Lời nói của Ngài đơn giản, nhưng thấm thía biết bao! Người xuất gia không phải chỉ bỏ nhà cha mẹ vào trong chùa là đủ. Xuất gia có ba nghĩa, vượt ra khỏi nhà thế tục, vượt ra khỏi nhà phiền não và vượt ra khỏi nhà luân hồi trong Tam giới. Ngày xuất gia chúng ta thệ nguyện ra khỏi nhà phiền não, nhà trầm luân trong Tam giới, có khác nào ra khỏi khám đường. Đã ra khỏi khám đường mà còn nài nỉ xin trở vào thì có hợp lý không? Dĩ nhiên là không. Một lần ra khỏi vĩnh viễn không trở lại, đó mới là người khôn ngoan sáng suốt. Nếu ra rồi còn muốn trở lại thì thật là rất dại khờ, làm cho những người chung quanh nhìn chúng ta với đôi mắt thương xót. Đã ra khỏi khám đường rồi chúng ta phải làm gì nữa? Ngài nhắc nên ít muốn biết đủ, tức là bớt lòng tham lam, đừng muốn nhiều, đừng gây tạo nhiều, để có thì giờ tu hành. Dừng tâm tham muốn không chạy theo danh lợi, vì nó là sợi dây, là miếng mồi nhử chúng ta trở lại vòng đau khổ của khám đường. Muốn thực hiện bản nguyện ra khỏi vòng trầm luân Tam giới, Ngài dạy chúng ta ở trong Phật pháp, mười phần sống phải chết hết chín phần. Ngày nay chúng ta phải chết chín phần thế tục, chỉ còn một phần nhỏ là phải ăn phải mặc, phải tới lui qua lại, cái còn đó rất đơn giản, rất ít oi, chớ đừng sống trọn vẹn như người thế tục. Chính sự tinh tấn tu hành là gốc để chúng ta thoát ly Tam giới. Muốn được như thế chúng ta phải hạn chế những nhu cầu, những mong muốn. Chúng ta phải bớt đi, càng bớt nhiều thì tinh thần tu hành càng tăng trưởng. Trái lại chúng ta cứ đòi hỏi, cứ chạy theo chúng thì tinh thần tu hành ngày càng giảm sút. Thế nên Ngài dạy mười phần sống phải chết chín phần.
Trong kinh Tứ Thập Nhị Chương, đức Phật cũng đã từng dạy: “Người xuất gia ra khỏi dục lạc của thế gian, chẳng khác nào người khạc đàm dãi nhổ xuống đất.” Khi khạc đàm dãi nhổ xuống đất rồi, chúng ta có muốn ngó lại nó không? Chắc gớm lắm, không muốn ngó lại. Ngó lại còn không muốn, huống nữa lấy tay sờ, lấy lưỡi liếm. Cũng thế, người đã xuất gia, thấy rõ những cái dở, cái xấu, cái hại của thế gian, thì phải dứt khoát vượt ra khỏi trần lao để làm lợi ích cho mọi người, nói cách khác là để dìu dắt mọi người cùng ra khỏi trần lao. Thế nên chúng ta không thể xem thường, phải thấy dục lạc thế gian là mối họa lớn cần phải tránh, cần phải không nhìn đến thì mới có thể vươn lên được. Nếu còn ưa thích, còn mơ ước nó, chúng ta sẽ chìm đắm, đau khổ.
Sư ni Subha nói lại việc tu hành của bà trong một bài kệ dài, tôi dẫn một đoạn:
Dục làm cho điên cuồng,
Loạn ngôn tâm thác loạn,
Làm uế nhiễm chúng sanh,
Sắp rơi bẫy ác ma.
Dục nguy hiểm không cùng,
Nhiều khổ, thuốc độc lớn,
Ngọt ít, tạo đấu tranh,
Héo tàn ngày tươi sáng.
Ta quyết định như vầy:
Không trở lui dục nhân,
Tác thành điều bất hạnh,
Luôn vui hưởng Niết-bàn...
Bà biết rõ dục lạc làm cho chúng sanh điên cuồng, nói những lời không đúng lẽ thật, nên gọi là loạn ngôn. Dục lạc làm cho tâm chúng sanh thác loạn ô uế, nhiễm nhơ rồi dẫn dắt, lôi chúng sanh vào bẫy của ác ma, bị trói buộc trong vòng ma. Dục lạc nguy hiểm không thể nào kể hết, nó tạo nhiều khổ, là thuốc độc, là nhân của đấu tranh. Chúng ta cãi nhau giành giật nhau vì dục lạc. Chính vì tìm kiếm, theo đuổi dục lạc mà thân chúng ta héo tàn, kiếp sống trở nên khô khan, không tươi sáng. Biết như thế chúng ta quyết định không trở lại với dục lạc, vì đó là nhân gây bất hạnh, đau khổ. Mục tiêu chánh yếu của người tu là dứt hết nhân khổ đau, tiến tới an lạc Niết-bàn thanh tịnh. Không phải chỉ riêng bản thân chúng ta hết khổ, được vui, chúng ta sẽ chỉ cho bằng hữu, cho huynh đệ, cho mọi người chung quanh cũng hết khổ, được an vui. Nếu chúng ta càng tu càng phiền não, càng héo hắt khổ đau, làm sao có thể đưa mọi người đến chỗ an vui? Thế nên chủ yếu là chúng ta phải tự mình bỏ hết những mầm khổ đau để được an lạc tự tại, rồi hướng dẫn mọi người cùng an vui. Đó mới thật là người tu chân chánh, mới thật đạt được sở nguyện của người xuất gia.
Sơ tổ Trúc Lâm có bài phú “Cư Trần Lạc Đạo” bằng chữ nôm, đây là một đoạn trong hội thứ mười:
“... Núi hoang rừng quạnh, ấy là nơi dật sĩ tiêu dao.
Chiền vắng am thanh, chính thật cảnh đạo nhân du hí.
Ngựa cao tán cả, Diêm vương nào kể đứa nghênh ngang;
Gác ngọc lầu vàng, ngục tốt thiếu chi người yêu quí.
Chuộng công danh, lồng nhân ngã, thật ấy phàm phu;
Say đạo đức, dời thân tâm, định nên thánh trí.
Mày ngang mũi dọc, tướng lạ xem ắt bẵng nhau;
Mặt Thánh lòng phàm, thực cách nhẫn vàn vàn thiên lý...”
Người tu phải ở chỗ nào? “Núi hoang rừng quạnh, ấy là nơi dật sĩ tiêu dao”, những kẻ ẩn sĩ lúc nào cũng thảnh thơi nơi núi hoang rừng rậm. “Chiền vắng am thanh” tức là chùa ở chỗ vắng vẻ, am ở chỗ yên tĩnh; “chính thật cảnh đạo nhân du hí”, du hí là dạo chơi, bậc đạo nhân dạo chơi chỗ chùa vắng am thanh. “Ngựa cao tán cả, Diêm vương nào kể đứa nghêng ngang”, dù được ngồi ngựa cao, che tán lớn việc đó trên thế gian thấy như nghênh ngang đắc thế lắm, nhưng vua Diêm vương có sợ không? Tới ngày cũng lôi mình xuống dưới, chớ không ai tránh được. “Gác ngọc lầu vàng, ngục tốt thiếu chi người yêu quí”, người ở gác ngọc, lầu vàng là bạn yêu quí của ngục tốt, của ngưu đầu mã diện. Tại sao? Vì chính đó là gốc của ái nhiễm, người ái nhiễm là bạn để cho ngục tốt hay ngưu đầu mã diện lôi xuống dưới chơi với nó. Như vậy hai trường hợp: trường hợp được ngựa cao tán cả cũng không thoát khỏi tay Diêm vương, trường hợp được gác ngọc lầu vàng thì làm bạn với ngưu đầu mã diện. “Chuộng công danh, lồng nhân ngã, thật ấy phàm phu”, nếu tu mà còn quí mến công danh, còn ưa thích nhân ngã, quả thật chúng ta là kẻ phàm phu. Trái lại “say đạo đức, dời thân tâm, định nên thánh trí”, ở trong đạo, người nào tu hành say mê thích thú, thân tâm luôn đổi thay, ngày xưa một trăm phần phiền não, tu một năm còn chín chục phần, tu hai năm còn tám chục phần, tu mười năm thì hoàn toàn trong sạch, người đó mới thật là người tốt. Chính việc dời đổi thân tâm là điều quyết định để trở nên con người thánh trí. Như vậy phàm phu là vì chuộng công danh, lồng nhân ngã, thánh trí là vì biết mến đạo đức, biết sửa đổi thân tâm. Chúng ta muốn làm phàm hay Thánh đều tùy theo tâm niệm của mình. “Mày ngang mũi dọc, tướng lạ xem ắt bẵng nhau”, bất cứ ai dù đẹp dù xấu dù trắng dù đen... chân mày cũng ngang mũi cũng dọc xuống. Thấy dường như lạ nhưng đều bẵng nhau nghĩa là giống nhau hết. “Mặt Thánh lòng phàm thật cách nhẫn vàn vàn thiên lý”. Bài này dùng chữ mặt, chỗ khác viết lòng phàm, lòng Thánh. Tuy về thân, dáng vẻ đồng nhau nhưng về tâm, tâm phàm, tâm Thánh cách nhau muôn trùng. Câu nói gọn hơn là “như nhau dọc mũi ngang mày, lòng phàm lòng Thánh cách nhau ngàn trùng”. Như vậy ai cũng mày ngang mũi dọc giống hệt nhau, nhưng tâm hồn của người nhiễm ô trần tục và tâm hồn người được thanh thoát, tiêu dao trong cảnh thanh tịnh thì cách biệt nhau muôn trùng. Vậy tất cả chúng ta, ai là người có chí tu hành, phải cố gắng đạt cho kỳ được sự cao cả, sự thanh thản đó, đừng để trở thành kẻ phàm phu tục tử đáng chê, đáng trách.
Tôi nhắc lại một lần nữa, tất cả chúng ta đã có phước duyên lành nhiều đời nên ngày nay mới được vào đạo, xuất gia, tu hạnh giải thoát. Đó là phước đức lớn, vinh dự lớn của mình, đã được thì nên giữ và cố gắng làm tăng trưởng thêm. Có nhiều người cũng muốn xuất gia, được thong thả tu hành như chúng ta, nhưng duyên của họ chưa đến. Vậy chúng ta phải cố gắng mỗi ngày mỗi tiến, đừng đứng nguyên một chỗ, cũng đừng lui sụt.
Tôi dẫn thêm bài kệ “Sơn Phòng Mạn Hứng” của Sơ tổ Trúc Lâm, quí vị nghe rồi ứng dụng đúng như tinh thần này:
Thị phi niệm trục triêu hoa lạc,
Danh lợi tâm tùy dạ vũ hàn.
Hoa tận vũ tình sơn tịch tịch,
Nhất thanh đề điểu hựu xuân tàn.
Dịch:
Phải trái rụng theo hoa buổi sớm.
Lợi danh lạnh với trận mưa đêm,
Hoa tàn, mưa tạnh, non im lắng,
Xuân cỗi còn dư một tiếng chim.
Đỗ Văn Hỷ
Phải trái rụng theo hoa buổi sớm, buổi sáng nhìn xuống gốc mai, chúng ta thấy mai rã cánh rất nhiều. Chúng ta tu thế nào mà bao nhiêu điều thị phi rụng như những cánh hoa lả tả rơi buổi sớm, chớ không dính chặt, dính cứng trong tâm mình.
Lợi danh lạnh với trận mưa đêm, mùa thu có những trận mưa đêm tầm tã, gió lạnh. Tâm danh lợi của mình cũng phải lạnh như vậy, lạnh không còn một chút hơi ấm nào.
Hoa tàn, mưa tạnh, non im lắng, hoa tàn, mưa tạnh thì còn cái gì? Còn một ngọn núi im lắng xanh rì. Cũng thế, tâm thị phi đã rụng hết, tâm danh lợi đã lạnh hết, lúc đó vẫn còn Tâm thể thanh tịnh bất sanh bất diệt. Và còn điều gì nữa?
Xuân cỗi còn dư một tiếng chim, tuy mùa xuân tàn rồi mà còn một tiếng chim hót. Thật đẹp làm sao! Tu hành phải như vậy, phải làm sao mà thị phi rụng hết như hoa buổi sớm, danh lợi lạnh ngắt như mưa đêm. Được như vậy sớm muộn gì cũng giải thoát. Mong rằng tất cả Tăng Ni cũng như Phật tử có được tâm niệm như ngài Điều Ngự Giác Hoàng đã nhắc trong bài kệ “Sơn Phòng Mạn Hứng”.
Hôm nay là ngày đầu năm Kỷ Tỵ, tôi có đôi lời nhắc nhở chung cho Tăng Ni và Phật tử. Mong rằng tất cả hãy ghi nhớ ý của chư Tổ, các bậc tu hành trước, lấy đó làm kinh nghiệm mà cố gắng học rồi làm theo gương người xưa, để xứng đáng là người xuất gia làm tròn sở nguyện của mình, hầu trên đền đáp bốn ân, dưới cứu giúp ba cõi. Đó cũng là sở nguyện của chúng tôi.
NĂM KỶ TỴ NÓI CHUYỆN RẮN
Tết Kỷ Tỵ - 1989
Hôm nay, Tết Nguyên Đán năm Kỷ Tỵ, tất cả quí Phật tử gần xa đều về chùa lễ Phật và chúc mừng năm mới. Nhân đây chúng tôi cũng nói chuyện và chúc Tết quí vị luôn. Năm Tỵ là năm con rắn, tôi cũng tùy tục mà nói chuyện đạo lý về con rắn.
Con rắn trong nhà Phật đã có đề cập tới. Như trong kinh Niết-bàn đức Phật nói có một người nuôi bốn con rắn độc trong một cái lồng, chúng luôn luôn thù địch cắn xé lẫn nhau. Người chủ nuôi bốn con rắn này có bổn phận phải điều hòa, ngăn không cho chúng cắn nhau. Nếu con mạnh hiếp con yếu thì người chủ phải can thiệp làm sao cho chúng thuận hòa. Khổ thay bốn con rắn không bao giờ thuận hòa, con này chực hại con kia, con kia chực hại con khác. Vì thế người chủ lúc nào cũng phải đem hết tâm lực trông chừng chúng từng phút từng giây. Nhưng dù cho người chủ có thật giỏi, thật thông minh, đến một lúc nào đó, chúng cũng cắn nhau kịch liệt rồi mỗi con chạy một nơi... khi ấy người chủ hết bổn phận.
Bốn con rắn đức Phật dụ cho bốn thứ: đất, nước, gió, lửa. Rắn hổ lửa không ưa rắn nước, rắn hổ đất không ưa rắn gió, tức là rắn hổ mây, thường phóng ngược trên đầu cây. Chúng đều là rắn độc, không ưa nhau lại bị bắt ở chung một chỗ, nên lúc nào cũng cắn lộn nhau. Việc người chủ điều hòa cho bốn con rắn ở yên trong lồng cay đắng trăm phần! Cũng như thế, thân chúng ta gồm bốn đại: chất cứng trong người là đất, chất ướt là nước, động là gió, ấm là lửa. Nước kỵ với lửa, gió kỵ với đất… khi nước thắng lửa, nghe người lạnh phát run, còn khi lửa thắng nước, nghe nóng bức, nhức đầu, khó chịu. Lúc nóng phải tìm thứ gì mát uống vào để giảm nhiệt độ, hạ lửa xuống cho quân bình với nước. Lúc nước nhiều, lửa thiếu lại phải tìm thứ gì nóng uống vào để nâng lửa lên, hạ nước xuống cho quân bình. Khi gió mạnh quá, đất chịu không nổi, vì gió thổi đất rung rinh nên ê mình, lúc đó phải cạo gió. Cạo gió một lát mình bầm hết, gió bớt, đất quân bình trở lại nên hết đau.
Bốn chất đất, nước, gió, lửa cứ công kích nhau luôn, chúng ta lại là người chủ điều hòa chúng. Cả ngày làm việc này, việc kia nhưng thường chú ý đến bốn đại, xem hôm nay mình lạnh hay nóng, có bị gió hay không, nghĩa là vừa thấy trong người hơi lạ là chuẩn bị mời thầy thuốc hoặc gọi người này, người kia đánh gió liền. Như vậy từ khi bắt đầu hiểu biết cho đến ngày chết, việc làm của chúng ta chỉ là điều hòa bốn đại thôi!
Ông chủ điều hòa bốn con rắn kia nhọc nhằn từ ngày này qua tháng nọ nhưng rốt cuộc có điều nổi không? Vì chúng chống trái nhau nên đến một lúc nào điều hòa không nổi, chúng cắn nhau kịch liệt rồi chạy tứ tán và khi đó ông chủ hết việc. Cũng thế, đất, nước, gió, lửa công kích nhau đến hôm nào một thứ mạnh quá, chúng ta điều không nổi thì lúc đó tan rã ra, mỗi thứ một nơi. Khi ấy chúng ta ra sao? Chết! Như vậy xét thật kỹ, từ khi chúng ta bắt đầu khôn ngoan một chút cho đến tuổi già, suốt quãng đời đó chúng ta thấy quả là đáng buồn, nghĩa là suốt đời chúng ta cố gắng lo cho có thứ này thứ kia, làm việc này việc khác cũng đều nhằm bồi dưỡng cho tứ đại. Thở là bồi dưỡng cho gió, uống là bồi dưỡng cho nước, ăn là bồi dưỡng cho đất, khi uống lựa chất nóng uống vào, khi ăn lựa chất ấm ăn vào là bồi dưỡng cho lửa. Thế thì cả ngày chúng ta chỉ làm bao nhiêu việc đó. Nếu khi nào cổ như có gì ngăn, hơi thở không thông thì phải kiếm thầy làm cho nó thông. Khi nào ăn uống thiếu chất nóng thì sanh bệnh lạnh, thiếu chất mát thì sanh bệnh nóng, cứ phải lo bồi dưỡng điều hòa cho chúng quân bình. Nhưng chúng ta bồi dưỡng có xong không? Đến một thời gian nào đó chúng cũng phải rã, phải tan nát. Chúng ta làm việc này giống như người điều hòa bốn con rắn vậy. Thế nên ngày xưa, Thiền sư Đại Xả ở Việt Nam có bài kệ về bốn con rắn như thế này:
Tứ xà đồng khiếp bản lai không,
Ngũ uẩn sơn cao diệc bất tông,
Chân tánh linh minh vô quái ngại,
Niết-bàn, sanh tử nhậm già lung.
Dịch:
Bốn rắn chung rương trước giờ không,
Núi cao năm uẩn đâu chủ ông?
Chân tánh sáng ngời không chướng ngại,
Niết-bàn sanh tử mặc che lồng.
Qua bài kệ này chúng ta thấy ngài Đại Xả căn cứ trong kinh Niết-bàn nói về bốn con rắn. Bốn con rắn đó ở chung trong một cái rương hay một cái chậu. Trước khi bỏ vào chậu, chúng có ở tại chậu chưa? Chưa, vì mới đem bỏ vào nhưng khi ở trong chậu rồi chúng nó lại công kích, phá phách lẫn nhau. Đây là nói khi tứ đại chung hợp trong sự chống nghịch nhau.
Đến câu thứ hai Ngài nói: “Núi cao năm uẩn đâu chủ ông?” Thân năm uẩn là cộng cả sắc và thọ, tưởng, hành, thức, tức là vật chất và tinh thần. Khó có người biết trong năm uẩn cái gì là Ông chủ, nhưng thật ra trong năm uẩn này vẫn có Ông chủ. Ông chủ đó là gì? “Chân tánh sáng ngời không chướng ngại”, nghĩa là ngay nơi mỗi người chúng ta đều có cái Chân tánh, Chân tánh đó gọi là Ông chủ, Chân tánh đó lúc nào cũng trong sáng, không có gì chướng ngại nó. “Niết-bàn sanh tử mặc che lồng”, dù cho có Niết-bàn dù cho có sanh tử, nhưng đối với Chân tánh đó không dính dáng, không trở ngại gì cả.
Qua bài kệ này, chúng ta thấy rõ ngài Đại Xả nêu lên hai việc: thứ nhất là nói bốn con rắn ở chung, thứ hai là nói thân năm uẩn vô chủ. Tuy nhiên trong cái vô chủ đó, nếu chúng ta sáng suốt thì sẽ tìm ra được cái chân thật. Cái chân thật đó là Chân tánh không bị trở ngại đối với sanh tử và Niết-bàn. Như vậy từ cuộc sống vô nghĩa, nếu khéo, chúng ta biến nó thành hết sức có nghĩa. Trên nhân gian này, giỏi như các thầy thuốc, họ biết được những gì thay đổi trong người nên gìn giữ, bồi dưỡng cho thân khoẻ mạnh, nhưng rốt cuộc các ông thầy thuốc cũng chết. Cả các thầy thuốc cũng phải chết thì người nào giữ được không chết? Nếu cả đời chỉ lo cho thân tứ đại, săn sóc nó nhưng cuối cùng không giữ được nó thì mới thấy công của mình thật là công dã tràng. Thế nên người thông minh sáng suốt phải thấy được điều đó, khi lo cho thân này, mình vẫn tìm được cái gì chân thật, cao siêu, như vậy mới khỏi luống uổng công mình. Đây là điều chủ yếu trong cuộc sống. Vua Trần Thái Tông có bài kệ “Tứ Sơn Khả Hại”:
Tứ sơn thiên bích vạn thanh tùng,
Liễu đắc đô lô nhất thiết không,
Hỉ đắc lư nhi tam cước tại,
Mạch kỵ đã sấn thượng cao phong.
Dịch:
Bốn núi ngàn tường muôn bụi rậm,
Tỉnh ra mới biết thảy đều không,
Mừng nay có được lừa ba cẳng,
Sấn ngược đường lên đỉnh tuyệt cùng.
Bốn núi là chỉ cho tứ đại: đất, nước, gió, lửa. Khi chúng tụ hội thì mịt mù như rừng rậm, kín mít như tường vách. Nhưng “tỉnh ra mới biết thảy đều không”, tỉnh rồi mới thấy tứ đại không thật. Biết tứ đại không thật rồi mới được điều đặc biệt. Ở đây Ngài diễn tả: “mừng nay có được lừa ba cẳng”, con lừa có mấy chân? Lừa bốn chân, nhưng Ngài được con lừa ba cẳng. Con lừa ba cẳng đó “sấn ngược đường lên đỉnh tuyệt cùng” tức là Ngài cỡi nó chạy tuốt lên trên đỉnh tột cùng của ngọn núi. Đây là lối nói nghịch lý của nhà thiền. Thân này do tứ đại hòa hợp, vì thấy nó rõ ràng cụ thể, sờ mó được nên chúng ta tưởng nó là thật, giống như tường vách, bụi rậm. Nhưng khi dùng trí tuệ quán xét đến cùng thì thấy nó không thật, chỉ là giả tướng duyên hợp thôi. Tuy nhiên trong giả tướng không thật đó lại còn có cái chân thật vượt ngoài bình thường, chính là lừa ba cẳng mà Ngài nói ở đây. Và chính cái phi thường đó, khi chúng ta nắm được rồi mới vượt lên, mới thoát khỏi cái khổ của tứ đại, mới vượt khỏi sự tiêu mòn biến hoại của tứ đại, vì thế Ngài nói là lên được đỉnh tuyệt cùng.
Tóm lại trên đường tu, nếu biết rõ thân tứ đại không thật, chúng ta mới có thể vượt lên, mới có thể thoát khỏi nó. Trái lại, nếu nghĩ tứ đại này là thật, cả ngày cặm cụi lo bồi dưỡng cho nó được đầy đủ, rốt cuộc công lo lắng của mình chỉ là công dã tràng. Đây là điều mà trong đạo luôn luôn nhắc nhở để chúng ta tránh những việc làm tốn công vô ích, không đem lại kết quả. Nói thế không có nghĩa chúng ta bỏ nó hay hủy hoại nó, mà phải nuôi nó trong lẽ bình thường, đừng quá trọng cũng đừng quá khinh, để mượn nó tìm ra Ông chủ chân thật.
Ngài Tuệ Trung Thượng Sĩ có bài:
Đốn tỉnh
Đoạn tri không hữu bất tương soa,
Sanh tử nguyên tùng nhất phái ba.
Tạc dạ nguyệt minh kim dạ nguyệt,
Tân niên hoa phát cố niên hoa.
Tam sanh thúc hốt chân phong chúc,
Cửu giới tuần hoàn thị nghị ma.
Hoặc vấn như hà vi cứu kính,
Ma-ha Bát-nhã tát-bà-ha.
Dịch:
Chợt tỉnh
Chớ rằng không có khác nhau xa,
Sống chết cùng chung mạch nước mà.
Năm cũ hoa cười, hoa năm mới,
Đêm này nguyệt sáng, nguyệt đêm qua.
Ba sanh chớp nhoáng lằn phong chúc,
Chín cõi xoay vần bóng nghị ma.
Ví hỏi rằng sao là cứu cánh,
Ma-ha Bát-nhã tát-bà-ha.
Trúc Thiên
Chớ rằng không có khác nhau xa, sống chết cùng chung mạch nước mà. Đừng nghĩ rằng sanh tử cũng như có không khác nhau. Chính sanh tử, có không cùng chung một loại, cũng như là cùng chung một mạch nước. Tại sao? Nếu hiểu được lý luân hồi chúng ta sẽ thấy khi tử đó là nhân của sanh, khi sanh đó là nhân của tử, do có sanh nên phải có tử, do có tử nên phải có sanh. Sanh và tử thấy như hai việc khác nhau nhưng cả hai cùng một mạch, cái này làm nhân cho cái kia, vậy thì hai cái không khác mà là cùng nguồn.
Đây hình ảnh Ngài dụ rất đẹp: “Năm cũ hoa cười, hoa năm mới, đêm này nguyệt sáng nguyệt đêm qua”, nghĩa là hoa cười hay hoa nở của năm ngoái tức là đóa hoa nở của ngày hôm qua. Sáng hôm qua chúng ta thấy những nụ mai chớm nở, sáng ngày nay là năm khác thì chúng ta thấy các nụ hoa nở tròn, như vậy đóa hoa nở tròn hôm nay là từ nụ hoa chớm nở của hôm qua. Hôm qua và ngày nay tuy nói năm cũ và năm mới nhưng hôm nay đâu có rời hôm qua. Cũng như thế, đêm rằm trăng sáng, đến đêm mười sáu trăng cũng sáng. Trăng đêm rằm và trăng đêm mười sáu như là hai trăng nhưng phải hai không? Trên ngôn ngữ chúng ta thấy như hai cái khác biệt nhưng trên thực tế hai cái liên hệ nhau, chớ không tách rời nhau.
“Ba sanh chớp nhoáng lằn phong chúc.” “Phong” là gió, “chúc” là cây đuốc. Thường chúng ta hay nói đèn treo trước gió hay cây đèn cầy cầm ra ngoài gió, đèn trước gió thì dễ tắt lắm! “Ba sanh” là chỉ cho kiếp sống của con người, nhanh như cây đèn cầy để trước gió, làn gió thổi mạnh qua nó tắt liền, không ai giữ được. Trong khi đang sống, cuộc sống của chúng ta tưởng như là vững lắm, thật lắm, nhưng một cái sơ sảy, một luồng gió độc có thể làm hoại nó ngay, không ai lường trước được, nên Ngài diễn tả nó giống như là ngọn đèn treo trước gió hay là cây đèn cầy ở trước làn gió mạnh, không có gì bảo đảm.
“Chín cõi xoay vần bóng nghị ma”, “nghị” là con kiến, “ma” là cối xay. Con kiến bò trên miệng cối, nếu nó cứ bò vòng theo chiều đó thì chừng nào ra khỏi? Cứ bò vòng vòng, rốt cuộc rồi cũng trở lại điểm đầu. Nếu nó muốn ra khỏi thì phải bò xuống chớ cứ bò theo chiều vòng đó mãi thì dù cho bò một ngày, hai ngày cũng chỉ chừng ấy thôi. Cũng thế nếu chúng ta cứ mê chấp thân này là thật, cảnh này thật, chúng ta phải bị xoay vần trong lục đạo luân hồi, hay là trong cửu đạo luân hồi giống như con kiến bò trên miệng chén, cứ đảo qua đảo lại không biết ngày nào ra khỏi. Nay muốn thoát ra phải làm sao? “Ví hỏi rằng sao là cứu cánh” làm sao được chỗ cứu kính thoát ra khỏi vòng lẩn quẩn đó? Ngài nói “Ma-ha Bát-nhã tát-bà-ha”, nghĩa là phải trở về cái trí tuệ lớn lao chưa bao giờ bị kẹt trong vòng phân biệt sanh diệt. “Ma-ha” là lớn, “Bát-nhã” là trí tuệ, “tát-bà-ha” là chỉ cho tiếng lặp lại ma-ha-tát-đỏa tức là chỉ cho trí tuệ của Bồ-tát. Trí tuệ rộng lớn của Bồ-tát là trí tuệ đưa chúng ta đến chỗ cứu kính, thoát ra khỏi vòng lẩn quẩn trong chín cõi, chỗ bền bỉ, không dễ bị thổi tắt như ngọn đèn trước gió.
Tóm lại, ngài Tuệ Trung Thượng Sĩ muốn nhắc nhở: Ở thế gian, người ta mừng khi sống và sợ khi chết, ngày sanh thì ăn mừng, ngày chết là ngày giỗ, đó là ngày buồn, ngày húy kỵ. Nhưng thật ra, nếu còn trong dòng luân hồi thì sống chết chỉ là nhân và quả, cả hai hỗ tương nhau, không tách rời được, không riêng có sống mà không chết, không riêng có chết mà không sống, cả hai cùng chung một mạch. Lại nữa thân này quá tầm thường, tạm bợ, ngắn ngủi nên đừng nghĩ rằng mình sẽ sống lâu, phải nhớ rằng thân này mỏng manh lắm, ngày nào còn sống, chúng ta phải làm những gì hay, tốt để lợi mình, lợi người, chớ đừng quá nuông chiều giữ gìn nó, rốt cuộc không giữ được chỉ là uổng công. Nếu không khéo tu chúng ta phải luân hồi trong chín cõi như con kiến bò trên miệng cối, nhọc nhằn vô ích! Thế nên mỗi người phải sớm thức tỉnh, làm sao mở mang được trí tuệ cao cả của Phật, Bồ-tát, để thoát khỏi vòng lẩn quẩn trong chín cõi.
Thật thế nếu trọn cuộc đời chúng ta chỉ lo ăn ngon, mặc đẹp, sống vui, cuối cùng rồi chết thì có gì cao thượng đâu? Trái lại nếu chúng ta tìm được, thấy được cái gì chân thật hơn ngay trong tứ đại chống đối thù nghịch này, khi ấy chúng ta mới có một hướng vươn lên, như tôi vừa nói: Được con lừa ba cẳng mới vươn lên đến tận đỉnh núi tuyệt cùng. Vì lẽ đó, tất cả mọi người, nhất là Phật tử chúng ta, là những người quyết chí tiến lên, không để dục lạc thế gian lôi cuốn, nhận chìm trong dòng sanh tử. Trong khi điều hòa tứ đại, chúng ta phải khéo tìm ra cái gì cao thượng hơn, siêu thoát hơn để không phải khổ đau khi mất thân này. Chiếc thân tạm bợ mong manh như đèn trước gió, dù cố gắng gìn giữ cũng chỉ là công dã tràng! Chúng ta là những người đã biết tu tỉnh, biết kính trọng Tam Bảo, biết hướng về con đường giác ngộ giải thoát thì phải ngay nơi bốn con rắn của mình, tìm thấy được cái chân thật, vì đó là cửa để tiến đến giác ngộ giải thoát.
Hôm nay là ngày đầu năm Kỷ Tỵ, quí Phật tử đến chùa lễ Phật, thăm quí thầy. Đó là điều rất tốt nhưng chưa đủ, quí vị còn phải thức tỉnh, để biết ngay trong thân tứ đại còn có cái bất sanh bất diệt. Được như thế thì sự có mặt của chúng ta ở thế gian này mới không phí uổng. Mong rằng trong năm mới này, Tam Bảo sẽ gia hộ cho tất cả quí Phật tử, được nhiều điều an vui, gia đình được hòa thuận, tin yêu, đối với xã hội, mọi việc đều vẹn đủ, và đối với việc tu hành thì năm nay quí Phật tử sẽ tinh tấn nhiều hơn năm trước. Đó là lời chúc lành và niềm mong mỏi của chúng tôi.