Thứ Ba 16/4/2024 -- 8/3/2024 (Âm lịch) -- 2568 (Phật lịch)
Cái tôi hoàn lại đất trời, trả tôi mặt mũi muôn đời chưa sanh. Chẳng rời trước mắt thường lặng trong, Còn tìm liền biết anh chưa thấy

Xuân trong cửa thiền - Con người hạnh phúc - Đức hỷ xả

CON NGƯỜI HẠNH PHÚC
- ĐỨC HỈ XẢ -
Xuân Mậu Ngọ - 1978
Con người hạnh phúc, có thân khỏe tâm an. Muốn được thân tâm đều khỏe thì chúng ta phải làm sao?
Sở dĩ chúng ta hay áo não sầu bi là tại trong lòng có những điều không vui, bất như ý. Nếu gặp ai, mình muốn cười xã giao một chút thì cười ra sao? - Nửa cười nửa mếu. Cười như vậy chưa phải là thật cười. Đức Phật Di-lặc cười một cách hỉ hả không có gì gượng gạo hết, còn chúng ta xã giao nên nhiều khi cười gượng gạo, vì không phải thật vui vẻ trong lòng. Nếu trong lòng thật vui vẻ, gặp ai mình cũng cười, lúc nào cũng tươi. Thấy trời mây đất nước, tất cả cảnh đều vui tươi, không có gì bận tâm rối loạn trong lòng. Được như vậy chúng ta mới hạnh phúc, dù buổi sáng chỉ ăn vài củ khoai. Tâm hồn an vui, thì ở cảnh nào cũng an vui. Nếu tâm hồn bực bội rối loạn, thì ở cảnh nào chúng ta cũng sầu bi hết. Vì vậy nên mỗi năm, ngày đầu Xuân, chúng ta cần đến lễ đức Di-lặc.
Lễ đức Di-lặc không phải là lễ suông để Ngài ban phước cho mình. Ta lễ Ngài với cả tâm hồn hướng về và học theo hạnh của Ngài. Làm sao mỗi năm cho đến suốt cả đời, cuộc sống chúng ta vui tươi và hạnh phúc như Ngài, đừng sống trong sầu não bi thảm. Muốn vui tươi thì điều kiện thiết yếu phải thế nào? Phải hỉ xả, vì đức Di-lặc do tu hạnh hỉ xả mà được vui tươi.
“Hỉ” là vui, “xả” là buông hết. Có việc gì hoặc ai động đến, Ngài cũng cười cũng buông hết, chớ không giận. Còn chúng ta? Ai nói một câu trái lỗ tai, mình có vui không? Nếu vui chỉ là vui gượng chớ không thật vui. Do đó muốn vui trọn vẹn thì chúng ta phải buông hết những buồn phiền trong lòng. Lúc nào chúng ta sống ngây thơ như đứa bé. Đừng sống với nhiều nếp nhăn, mặt ủ rũ, mắt chớp lia lịa, không tỉnh táo sáng suốt. Sống như vậy, chúng ta sẽ chết lần chết mòn do lửa phiền não thiêu đốt. Con người quí ở cuộc sống hạnh phúc. Muốn sống hạnh phúc phải có thân khỏe tâm an. Muốn thân khỏe tâm an phải tu theo hạnh hỉ xả của đức Di-lặc.
Khi Ngài thị hiện ở Trung Quốc, làm một vị Hòa thượng mập mạp mang cái đãy to, nên được gọi là Bố Đại hòa thượng. Ngài không có của tiền gì hết, khi ra chợ, ai cho thức ăn gì đều bỏ vô túi, gặp con nít móc túi ra chia cho chúng nó ăn. Gặp ai Ngài cũng vui vẻ. Khi sắp tịch Ngài để lại một bài kệ:
Di-lặc chân Di-lặc
Hóa thân thiên bách ức
Thời thời thị thời nhân
Thời nhân giai bất thức.
Dịch:
Di-lặc thật Di-lặc
Phân thân trăm ngàn ức
Thường thường dạy người đời
Người đời đều chẳng biết.
Nhờ bài kệ này, người sau mới biết Ngài là đức Di-lặc hóa sanh, chớ không phải người thường. Cho nên trong chùa hay thờ Ngài qua hình tượng một vị Hòa thượng mập mạp mang cái đãy to.
Nói đến đức hỉ xả chúng ta nên nhớ thật kỹ ý nghĩa của nó. Tôi lặp lại “hỉ” là vui, “xả” là buông. Buông mà vui chớ không phải buông mà bị bắt buộc. Thí dụ mình ghét người nào đó, nhưng vì một người thân của mình thương họ, bảo ráng vui với họ, vị tình người thân mà mình vui, cái vui đó là vui gượng gạo, chớ không phải thật sự vui. Khi nào trong lòng không có buồn phiền, tức tối bực bội gì hết, chỉ một niềm vui an ổn, gặp ai mình cũng vui, đó mới thật là vui. Muốn được vậy, chúng ta phải hỉ để mà xả, tức là vui để mà buông.
Chúng ta sống trên thế gian này, cũng như đám trẻ con đông năm bảy chục đứa chạy loạn. Chạy một hồi, thế nào cũng va đầu, chạm trán với nhau. Đứa u đầu, đứa chảy máu, trặc chân, nhưng rồi thôi, bỏ qua vui vẻ với nhau. Nếu cố chấp, khi đụng nhau chúng giận cả năm, cả đời không bao giờ vui được. Một người đụng, ta giận và ôm ấp mối giận đó, hai người cho tới trăm người, ngàn người đụng, thì giận chừng bao nhiêu? Khối giận ấy tưởng tượng chắc bằng cái chùa. Thế gian này chúng ta sống với mấy chục triệu người, chớ đâu phải với một người, nếu cứ cố chấp hờn giận thì khối buồn phiền biết bao to? Trong mấy chục triệu người, chắc gì được một triệu người thương mình, cao lắm chỉ vài trăm người thôi. Còn người những người khác, họ đối không phải với mình một vài điều, ta cứ ôm ấp thì chắc rằng không bao giờ vui được. Cả một đời từ thuở bé cho tới già năm, sáu mươi tuổi, mỗi năm ít nhất cũng đụng nhau vài chục lần. Con số đó cộng lại thì chừng bao nhiêu lần giận hờn? Mỗi lần giận hờn đều giữ, như vậy trong A-lại-da thức hay Tàng thức của mình chứa toàn là giận. Thế thì khi nhắm mắt sẽ ra sao? Tức là thù giận sẽ dẫn mình đi, trở lại gặp thù giận nữa. Đời này hận thù, đời sau hận thù, thù hận tiếp nối, thì cuộc đời chỉ toàn là khổ đau với khổ đau. Cho nên muốn được an vui chúng ta phải tập hỉ xả. Những gì qua rồi tha thứ cho nhau, sống vui vẻ.
Bảo tha thứ thì dễ quá, nhưng làm sao tha thứ đây? Cứ nghĩ người đó hơn mình, người đó ăn hiếp mình, khinh mình v.v... thì không thể nào tha thứ được. Muốn tha thứ được, phải có phương pháp, có đường lối, chớ không thể nói suông.
Trong nhà Phật dạy rằng, muốn hỉ xả phải có từ bi, có thương thì mới có tha thứ. Người đó làm khổ mình mà mình không giận tại vì mình thương họ. Khi thương chuyện lớn cũng biến thành nhỏ. Khi ghét chuyện nhỏ cũng biến thành lớn. Do đó muốn hỉ xả phải biết thương người. Có từ bi thì có hỉ xả, có lòng thương thì mới tha thứ được. Như người dưng kẻ lạ làm khổ mình một chút, mình giận cả đời. Còn con ruột làm khổ, mình giận chừng bao lâu? Chỉ một lát thôi. Rõ ràng mình dễ tha thứ vì thương nó, nếu không thương thì không bao giờ tha thứ cho nó được. Chúng ta không có lòng thương mà nói tha thứ thì không phải tha thứ chân thật.
Làm sao có lòng thương? Nói thương suông được không? Thường chúng ta nói thương tất cả, khi tất cả không chửi ta, chớ họ chửi là hết thương họ. Làm sao người ta chửi mà mình vẫn thương họ được, cái đó mới là khó. Muốn có lòng thương tất cả, tức là từ bi thì phải có trí tuệ. Nhờ có trí tuệ chúng ta mới có lòng thương rộng rãi, mới hỉ xả cho nhau được. Tóm lại đầu mối là trí tuệ, kế đó là từ bi, sau cùng là hỉ xả. Hỉ xả là kết quả của trí tuệ và từ bi.
Nói về trí tuệ, trước hết chúng ta phải quán xét cuộc đời là vô thường để có lòng thương nhau. Nhưng quán xét vô thường thế nào? Quán sự nghiệp, quán của cải, quán cây cối, quán đất nước là vô thường chưa đủ có lòng từ bi. Ở đây muốn có từ bi chúng ta phải quán thẳng vào tánh chất vô thường của con người. Ngày xưa đức Phật thấy rõ con người sanh ra, ai rồi cũng đi đến già bệnh chết. Bây giờ chúng ta cũng quán về lẽ đó, nhưng khác hơn: Ai sanh ra cũng đều bị kêu án tử hình. Quán mạnh như vậy đó. Tôi và quí vị đều có án tử hình, nhưng bản án đó không định ngày xử. Có thể lát nữa đây, hoặc mai, hoặc hai ba mươi năm, hoặc lâu hơn là bốn năm mươi năm nữa xử cũng được. Biết như vậy, chúng ta có giành giựt, có tranh hơn thua từ lời nói không? Cứ nhớ án tử hình thì có thể tha thứ cho nhau hết.
Như vậy muốn thương nhau chúng ta nên nhớ rằng: Sanh ra, ai nấy đều mang án tử hình rồi. Có sanh tự nhiên phải có tử, chắc chắn như vậy. Mọi người đều mang sẵn bản án tử hình, nên lúc nào cũng hồi hộp như có tên đao phủ ở bên cạnh. Nhớ hình ảnh đó, ai có chửi thì chửi, mai mốt chết rồi, còn đâu hơn thua. Hơn thua rồi cũng phải chết. Án tử hình đó bình đẳng cho tất cả mọi người, không kể người giàu kẻ nghèo, người có quyền thế, kẻ không quyền thế. Chi bằng chúng ta tha thứ nhau, thương yêu nhau, đùm bọc nhau, sống vui với nhau, làm khổ nhau chi nữa. Hay hơn nữa là vui hòa cùng tiến tu để phá tan bản án đó. Tuy ai cũng mang bản án tử hình, nhưng người biết đạo lý thì còn có cửa để thoát khỏi tử hình. Nghĩ đến cửa đó, chắc rằng năm nào tháng nào ngày nào, chúng ta cũng chỉ lo làm sao giải quyết được bản án tử hình hơn là giành giựt hơn thua. Bản án chưa giải quyết, có thua thiệt chúng ta cũng làm thinh, chuyện kia mới là chuyện lớn. Kẻ bị án tử hình, được người chỉ dạy để thoát khỏi án đó, lại không chịu làm, cứ lo hơn thua phải quấy thì khờ khạo hay khôn ngoan? Nếu nói theo thế gian thì đó là người ngu. Điều quan trọng thiết yếu mà ngó lơ, cái tầm thường mà cố chấp, không phải ngu là gì?
Biết có phương pháp thoát khỏi bản án tử hình, tức nhiên chúng ta phải cố gắng làm sao đem hết khả năng của mình lo giải quyết bản án. Đó là điều trên hết. Cho nên tu để thoát khỏi sanh tử là điều hết sức cần đối với người biết đạo. Nếu chưa khỏi sanh tử thì ít ra chúng ta cũng tha thứ cho nhau, vì tất cả đều mang án tử hình. Ngày nào còn sống trên thế gian là ngày an ổn, đừng làm khổ cho nhau. Như vậy mới là người có lòng từ bi. Đó là điểm thứ nhất.
Điểm thứ hai là chúng ta phải dùng trí tuệ xét rõ tánh chất giả tạm của con người. Thí dụ có kẻ cuồng loạn, vừa mượn đồ đạc của người ta, liền nói của mình. Người như thế là người khôn hay khờ? Đó là kẻ cuồng si. Vì điên cuồng nên đồ đạc của người mà nói là của mình, nói không đúng sự thật.
Hiện nay chúng ta có thấy mình là kẻ cuồng si hay không? Thân này là giả mà nói giả thì không ai bằng lòng hết. Chúng ta sống đây là đang sống hay đang vay mượn? Nếu thật sống thì cần gì phải vay mượn bên ngoài. Nếu vay mượn bên ngoài thì không phải thật sống. Trong nhà Phật nói thân này do tứ đại: đất, nước, gió, lửa kết hợp mà thành. Từ lúc ra khỏi bào thai mẹ, cuộc sống là cuộc sống vay mượn chớ không phải thật.
Chúng ta thấy từ đứa bé cho đến người lớn, ai cũng như ai, lỗ mũi có lúc nào nghỉ thở không? Chúng ta sống mà quên mình đang mượn không khí ở ngoài, đem vô rồi trả ra, trả ra rồi hít vô, cả ngày như vậy. Đó là sự sống, sự sống này do vay mượn mà có. Khi ở ngoài là không khí của trời đất, hít vô mũi, liền nói là hơi thở của tôi. Đó là nói lỗ mũi mượn không khí, mượn gió.
Đến miệng mượn cái gì? Như khô cổ thì xin một tách nước. Khi còn ở ngoài nói là nước trà hoặc nước lạnh. Vô khỏi cổ rồi nói là nước của tôi. Mượn vô ở miệng, xuống thân trả ra, chỉ đi có một đường quanh, như vậy mà cũng nói là của tôi. Mượn hơi gió, mượn nước, rồi tới mượn đất, lửa nữa. Tức là mượn thức ăn, chất bột để nuôi dưỡng phần đất; chất nóng để nuôi dưỡng phần lửa. Chúng ta cứ mượn rồi trả, mượn rồi trả. Nếu một phút giây nào không mượn thì phút giây đó còn sống hay không?
Như vậy chúng ta là thật hay giả? Nói giả thì ngán quá không dám nói. Nhưng chân lý là vậy. Con người có những cố chấp lạ, si mê không bao giờ chịu thấy lẽ thật. Một lẽ thật trăm phần trăm, mà nghe qua mình sẽ nổi giận liền. Thí dụ sáng dậy chưa kịp súc miệng rửa mặt, khách tới buộc lòng phải tiếp chuyện, vô tình hơi bay vào mũi khách. Nếu người đó nói thẳng: “chà! hơi thở chị hôi quá”, nghe như vậy mình giận liền. Tại sao sự thật trăm phần trăm, mình biết rõ mà lại giận? Như vậy có phải là chạy trốn sự thật không? Không dám thấy sự thật, không dám nghe sự thật, phải chăng là kẻ cuồng si?
Thân này rõ là thân vay mượn, mà lúc nào chúng ta cũng nói là thân thật. Bởi nói thân mình thật nên quan trọng nó. Bởi quan trọng nó, nên những gì nuôi dưỡng nó, những lời khen ngợi nó mình đều quan trọng theo. Thân ta là trọng, vật ta dùng là quí, nên ai đụng chạm đến, chê bai hay làm hư hại thì ta nổi tức lên. Sở dĩ chúng ta buồn thương giận ghét… là tại thấy thân thật, nên thấy khen chê cũng thật. Nếu ta thấy thân này giả tạm, thì khen chê đối với thân này không còn quan trọng. Khi sự khen chê không còn quan trọng nữa, chúng ta sẽ dễ tha thứ những gì đụng chạm đến mình. Hỉ xả không còn khó khăn nữa.
Giờ đây, ai chấp thân này là thật, ta thấy người đó rất đáng thương. Mình tỉnh mà thấy người mê thì thương, cũng như thấy người điên ta thương vì họ không biết lẽ thật. Vì vậy nên tha thứ những sai lầm của họ. Giả sử bị người điên chửi, ta có giận không? Dù bị họ đánh hai, ba bạt tai, mình chạy chớ không giận họ. Vì họ là kẻ điên, mình phải thương họ, đâu nỡ giận. Mình biết thân là giả, người chấp thân là thật, nếu họ lỡ xúc phạm đến, chúng ta sẵn sàng tha thứ, vì ta biết họ si mê. Người si mê là người đáng thương không đáng giận. Nghĩ như vậy chúng ta thương được tất cả. Đó là điểm thứ hai.
Hai điểm then chốt trên là do trí tuệ quán chiếu mà phát sanh lòng từ bi. Một là quán vô thường, chúng ta đều mang án tử hình, sớm muộn gì rồi cũng chết; do đó thương yêu giúp đỡ, không nỡ làm khổ thêm cho nhau. Hai là quán thân này giả tạm, vay mượn thì hơn thua, khen chê chỉ là chuyện thường, không có gì quan trọng. Nhờ thế chúng ta có thể tha thứ, có thể hỉ xả hết. Muốn có lòng từ bi, chúng ta phải có trí tuệ là vậy.
Trong kinh A-hàm kể lại: Ngày xưa, đức Phật đi hoằng hóa ở chỗ ngoại đạo, có một Bà-la-môn ghét Ngài, phỉ báng mạ nhục nói nhiều lời nặng nề. Đức Phật vẫn lặng thinh. Nói một lúc, Bà-la-môn hỏi:
- Cù-đàm có nghe không?
Phật đáp:
- Ta nghe.
- Tôi nói như vậy sao ông không trả lời?
Đức Phật bảo:
- Giả sử ở nhà ngươi có một buổi lễ mời bà con thân quyến tới. Sau khi dự lễ xong họ ra về, ngươi đem quà bánh tặng cho họ. Những người đó không nhận thì quà bánh về ai?
- Về tôi.
- Cũng vậy, ngươi mắng chửi ta mà ta không nhận, có dính dáng gì đến ta đâu.
Đức Phật biết thân này là giả, ngôn ngữ khen chê đâu có gì quan trọng mà hơn thua.
Lần khác, đức Phật đi khất thực gặp một Bà-la-môn còn quá hơn ông trên. Đức Phật đi trước, ông theo sau chửi hoài. Phật cũng từ từ đi, tới ngã ba đường, Phật trải tọa cụ ngồi, ông chạy lại trước mặt hỏi:
- Cù-đàm thua tôi chưa?
Đức Phật thong thả đáp bằng bốn câu kệ:
Kẻ hơn thì thêm oán
Người thua ngủ chẳng yên
Hơn thua hai đều xả
Ấy được an ổn ngủ.
Phật dạy hơn người thì người oán mình, còn thua thì trằn trọc ngủ không yên. Một bên thêm oán, một bên ngủ không yên. Chỉ hơn thua đều bỏ hết thì ngủ khò không gì bận tâm. Người hơn thua đều xả thì an ổn nhất trên trần gian. Đó là người hạnh phúc, cần ăn thì ăn cần ngủ thì ngủ, không bận bịu ưu tư gì hết. Đức Phật đối với cảnh người ta khinh bỉ hạ nhục mà Ngài vẫn tự tại, không rối rắm không bực bội. Tại sao? Tại Ngài đã giác ngộ rồi, đầy đủ lòng từ bi nên hỉ xả không khó khăn gì hết.
Chúng ta thấy rõ trước có trí tuệ, kế đó có lòng từ bi, rồi sau đạt được hỉ xả cùng tột. Nếu không có trí tuệ, thiếu từ bi thì hỉ xả không bao giờ có. Ở thế gian này phần nhiều người ta sống hăng say với sự hơn thua. Kẻ ngồi mãi trong sòng bạc không biết mỏi lưng là sao? Tại nghĩ hơn thua. Người xem đá bóng, mỏi mắt không biết chán cũng tại nghĩ ăn thua. Vì hơn thua mà người ta say mê trong cuộc sống. Càng say mê thì càng giành giựt để được hơn thua. Còn người biết hơn thua không có gì quan trọng, thì không bận bịu giành giựt chi hết. Người đó vẫn bình tĩnh điềm đạm trước mọi cảnh, không có gì nóng nảy lo sợ. Vì nghĩ được mất hơn thua mà lòng chúng ta lúc nào cũng hồi hộp lo âu. Nếu hơn thua không còn thì mọi vấn đề không còn quan trọng nữa, lo âu hồi hộp hết liền. Như vậy cái khổ của tất cả chúng sanh gốc từ tranh hơn tranh thua. Chính vì tranh hơn tranh thua, chúng ta mới cố chấp để rồi thù địch hại nhau v.v... nếu coi thường hơn thua thì chúng ta an ổn và hỉ xả hết. Đối với người khác không buồn không giận, không oán thù, đó là do tự biết mình không thật. Biết mình cùng mọi người ở trong cảnh khổ, nên chúng ta thương nhau và tha thứ cho nhau. Thương nhau tha thứ cho nhau gốc từ trí. Như vậy rõ ràng trí tuệ đến đâu, thì từ bi theo đó. Có từ bi mới hỉ xả được. Sở dĩ đức Di-lặc hạnh phúc vui cười hoài là vì Ngài có trí tuệ, đầy đủ từ bi, hỉ xả nên mới vui vẻ như vậy.
Hôm nay là ngày đầu năm, tôi nhắc lại cho quí vị nhớ, hạnh phúc của chúng ta là phải có trí tuệ, thấy được lẽ thật để thương yêu nhau và đùm bọc nhau. Còn chúng ta cứ câu mâu hơn thiệt, thì chưa chắc có bao nhiêu lần vui mà có thể buồn nhiều, vì thế gian lúc nào cũng đụng chạm. Người tu theo đạo Phật là tự lợi lợi tha tức tự cứu và cứu người. Vậy chúng ta phải nỗ lực làm sao cho mình được vui tươi hạnh phúc, để rồi niềm vui đó lan tỏa đến mọi người.
Năm mới tôi cầu nguyện Tam Bảo gia hộ cho quí vị một năm đầy đủ hạnh phúc, thân khỏe tâm an, hỉ xả như đức Phật Di-lặc. Đó là lời cầu chúc của tôi, mong quí vị cố gắng thực hiện.

Gá thân mộng
Dạo cảnh mộng
Mộng tan rồi
Cười vỡ mộng

Ghi lời mộng
Nhắn khách mộng
Biết được mộng
Tỉnh cơn mộng

HT Thích Thanh Từ
a

Bài đọc nhiều nhất

Thống kê truy cập

413176
Hôm nay
Hôm qua
Tuần này
Tuần trước
Tháng này
Tháng trước
Tất cả
717
3144
11869
387297
38711
73473
413176