NÓI THÊM VỀ TÂM TÁNH – CÁI BIẾT
NÓI THÊM VỀ TỰ TÁNH GIÁC SÁNG
1. CHƯA NGỘ, CÒN TRONG SANH DIỆT.
Qua các phần trên cho thấy, gạn tột cùng công phu, sẽ nhận ra “Giác là tu”. Có thể chưa tột được nguồn tâm, nhưng khi còn trong quá trình hạ thủ công phu tu tập thì giác sáng là cách dụng công thẳng đến tâm tánh. Sống ngay tánh giác sáng đó mới khế hợp tự tâm, mới có lúc đủ duyên bừng ngộ. Sẽ thấy rõ, công phu như thế là đã khế hợp với chỗ Thiền sư Hàm Thị nói: “Ngoài phân biệt vẫn lưu lại căn tánh để chờ đợi phát minh”.
2. ĐÃ TỎ NGỘ.
2.1. Nhận ra tánh thấy nghe.
Thông qua căn mắt thì nhận ra tánh thấy, thông qua căn tai nhận lại tánh nghe… Nhận tánh qua một căn nào đó thì được gọi là tánh của căn ấy. Kinh Lăng Nghiêm nói đây là “Mặt trăng thứ hai”. Tổ Bá Trượng nói là “Lối rẽ tạm thời”. Do còn hạn cuộc trong căn ấy, chưa suốt thông, trùm khắp.
2.2. Thể tánh hiện tiền.
Các căn suốt thông, thể tánh hiện tiền. Kinh Lăng Nghiêm gọi là đập vỡ sáu cái lu (tánh thấy biết qua sáu căn) đồng về một. Nhân sáu mà có một. Khi sáu đã hết thì tên gọi một cũng không còn. Đây là thể tánh suốt thông, viên dung, trùm khắp hiện bày. Tuy nhiên, lúc này trí thể trong ngần, linh thông tự tại, nhưng diệu dụng chưa phát huy đúng mức cho nên hành giả còn phải bảo nhậm.
Ví như ngôi nhà có sáu cửa, bên trong thắp một ngọn đèn. Ngọn đèn dụ cho bản tâm chân thật. Sáu cửa ví dụ cho sáu căn. Có người đứng bên ngoài, thông qua một ô cửa nào đó để thấy ánh sáng của ngọn đèn qua ô cửa đó chứ chưa nhận ra ngọn đèn. Đây là dụ cho hành giả ngộ qua một căn nào đó, chưa ngộ tột tự tánh nên gọi là mặt trăng thứ hai. Tức là gần giống rồi, nhưng chưa phải, chưa thấu triệt tự tánh.
Có người thông qua một cửa nào đó, thấy suốt ngọn đèn bên trong chứ không chỉ thấy ánh sáng ngay cửa của ngọn đèn. Vị này kiến tánh, không còn bị hạn cuộc vào một căn nào cả, nhưng chưa thấu triệt.
Một người khác vào thẳng trong nhà, cầm lấy ngọn đèn và thấy biết suốt hết từ trong ra ngoài, không còn hạn cuộc vào một ô cửa nào cả. Đây là ví dụ cho hành giả thấu triệt tự tánh, suốt thông trong ngoài, thấy biết như thị, vượt thoát căn và cảnh, sở và năng, không còn ngăn ngại.
2.3. Thể dụng không hai, hay sanh muôn pháp.
Công phu đắc lực, tánh này thuần thục, thể dụng không hai. Khắp nơi chính là nó, tức tướng tức tánh, không có chỗ cho tình thức mê mờ xen vào. Nhồi đi ép lại thành một khối, diệu huệ vô thượng hiện tiền. Đến đây, tánh này vốn tự không động chứ không phải do tu mà được định. Bất động, nhưng lại linh thông đến chủ động, hay sanh muôn pháp, diệu dụng bất khả tư nghì.
3. TÂM NÀY CHỈ MỘT, NGỘ CÓ CẠN SÂU.
Tâm này chỉ một, nhưng do căn cơ và công phu tu tập mà thể ngộ có cạn, có sâu. Thực tế hành giả không phải ngộ một lần liền được rốt ráo viên mãn, mà hầu hết phải ngộ nhiều lần mới thấu tột. Sau đó phải khéo bảo nhậm mới thường hiện tiền và phát huy được diệu dụng phi thường. Vì vậy, Thiền sư Đạo Giai Phù Dung nói:
Ngộ vô sanh tử, bất như khế vô sanh tử.
Khế vô sanh tử bất như nhập vô sanh tử.
Nhập vô sanh tử bất như dụng vô sanh tử.
Đã ngộ được chỗ “Không còn sanh tử”, nhưng chưa viên mãn, vì chưa bằng khế được chỗ “Không còn sanh tử”. Bởi buổi đầu mới tỏ ngộ chỉ là bất chợt hay ra. Theo thời gian, công phu thuần thục, tiến sâu hơn mới phát minh đầy đủ, khế hợp với tâm tánh vô sanh này. Cho nên Thiền sư Đạo Giai Phù Dung nói: “Ngộ vô sanh tử, bất như khế vô sanh tử” là vậy.
Tiếp tục sống và công phu như thế cho đến khi thực sự thuần thục thì tự tánh mới hiển lộ trọn vẹn sờ sờ ra đó, đuổi dẹp không thể được. Mãn mục thanh sơn; khắp nơi là một màu của núi xanh, không có kẻ hở cho màu khác của tình thức xen vào. Đến đây ngài gọi là “Nhập vô sanh tử ”.
Sống trọn vẹn bằng thể tánh ấy là tu hành. Lúc này, nhúc nhích, động tịnh gì cũng chính là “kẻ ấy”. Cho đến khi chín muồi, diệu dụng mới phát huy đúng mức, sống động, chủ động nhưng không còn động nữa. Thiền sư Đạo Giai Phù Dung gọi là: “Dụng vô sanh tử ”.
4. KHÔNG THỂ NÓI ĐẾN TỘT CÙNG TÂM TÁNH.
Thiền sư Vân Nham Đàm Thạnh nói với ngài Đạo Ngô Viên Trí: “Nói tột cùng lời nói, chỉ nói được tám phần”. Phần còn lại là việc của mỗi người phải nhận lại, tự hay ra và thấy rõ ngay nơi chính mình, chứ không phải từ bên ngoài, từ ngôn ngữ mà được.
- Tâm tánh vốn vô tướng cho nên không phải có một hay có nhiều tâm tánh khác nhau.
- Ngộ nhập thì không phải do tính toán, tạo tác hay theo một khuôn mẫu nào đó đã được định sẵn.
- Ngộ sâu hay cạn là tùy thuộc vào công phu tu tập và phương pháp dụng công của hành giả từ nhiều đời trước cho đến nay, chứ không phải nhờ ai hay do bất kỳ lý do nào khác mà được. Có người một ngộ liền xong. Nhưng có nhiều người phải ngộ nhiều lần mới thấu tột. Đây là chuyện rất bình thường và thực tiễn.
Qua những thực tế trên cho thấy, tâm tánh vốn đã sẵn đủ nơi mình, cho nên rất gần gũi, bình dị. Nhưng lại rất phi thường, cao vót bởi vô tướng, thênh thang. Và cũng rất sâu mầu, bởi nó là thể vô sanh, sâu kín.
Sẵn nơi chính mình, lẽ ra khéo nhận lại liền xong. Nhưng do nó vô tướng, sâu mầu; căn cơ của chúng sanh thì có cao thấp, mức dụng công thì có cạn sâu khác nhau, cho nên ngộ cũng có sâu cạn không đồng, không phải tỏ ngộ một lần liền đạt được rốt ráo viên mãn.
Do vậy, khó có thể bàn nói đến được tột cùng tâm tánh, cũng không thể nào dùng cái hiểu biết của thức tình suy lường phân biệt để hiểu về tâm tánh được. Chỉ là đến để thấy, chứ không thể đứng từ xa để tư duy, nhìn nhận, hiểu biết và bàn nói về nó. Vì thế hành giả cần nắm vững pháp hành và hướng tiến, quyết chí hạ thủ công phu thì mới có ngày uống nước nóng lạnh tự rõ ràng.