Thứ Sáu 29/3/2024 -- 20/2/2024 (Âm lịch) -- 2568 (Phật lịch)
Cái tôi hoàn lại đất trời, trả tôi mặt mũi muôn đời chưa sanh. Chẳng rời trước mắt thường lặng trong, Còn tìm liền biết anh chưa thấy

Thưa Hỏi Thiền

THAY LỜI TỰA

Lý thuyết là khuôn vàng thước ngọc. Vào thực tiễn ứng dụng, thực hành, luôn có sự uyển chuyển, vận dụng, linh hoạt và bao giờ cũng có cả sự phát sinh. Đây cũng là một trong những điểm đặc trưng tạo nên sự độc đáo riêng có của tâm thiền và việc hạ thủ công phu tu tập thiền. Khuôn mực, nhưng linh hoạt, sáng tạo. Bất động, nhưng linh thông, sinh động vô cùng.

 

 Những gì trong tập sách này bao gồm những đặc điểm như thế, nhưng chưa thể đầy đủ. Bởi thể đạo vốn không, nhưng sống động, thênh thang, bất tận. Cuộc đời, con người lại luôn biến động, đổi thay. Do đó, mỗi ngày đều có sự mới mẻ; mỗi một hành giả dụng công, không ngày nào giống với ngày nào. Tất cả không ra ngoài tâm thiền rạng ngời nhưng trong lặng, đã biến thành diệu dụng không thể nghĩ nghì của sức sống thiền.

Người đến, đã đến rồi. Kẻ đi thì chưa đến, còn phải tiếp tục. Tập sách này hy vọng sẽ góp thêm phần nào cho những hành giả hữu duyên, có thể đỡ mất thời gian cho những trải nghiệm, kinh nghiệm; khỏi phải trả giá do chưa biết. Đồng thời giúp thêm một ít phương tiện nhằm rút gọn lộ trình cho lữ khách. Để dành tâm lực và thời gian còn lại cho việc tiếp tục khám phá, thẩm thấu, đi sâu và phát huy nhiều hơn nữa trên dặm đường trở về quê hương muôn thuở chính mình.

Ngày đầu Xuân năm Canh Tý – 2020.

Kính ghi:

Thích Tâm Hạnh.


 

CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT.

 

1.THIỀN LÀ GÌ?

 

Là người tu thiền, trước tiên cần phải biết thiền một cách căn bản, sau đó ứng dụng công phu mới không bị sai lệch.

 

Hôm nào đó khí trời oi bức căng thẳng, người không được khỏe, trong nhà có việc xích mích không vui, ra đường gặp toàn những việc vớ vẩn không đâu, lên công sở, ra chợ bị đồng nghiệp bạn bè hiểu nhầm hoặc quấy phá... Khi ấy, nếu phải duyệt một tập tài liệu gì đó, hoặc đọc một cuốn sách hay phải xem một tờ báo, chúng ta sẽ bị lủng củng, không trôi chảy thông suốt tí nào. Đọc thì đọc chữ vậy thôi, chứ ý này cứ đá ý kia, rất khó tiếp thu một cách đầy đủ trọn vẹn. Cho thấy, nếu để những thứ lăng xăng lộn xộn của cuộc đời chi phối trong đầu thì sẽ làm cho trí tuệ bị mờ tối, con người không được ổn định.

 

Một hôm khác thức dậy với một sức sống tràn trề, mọi chuyện trong nhà ổn định, vui vẻ, khí trời mát mẻ dễ chịu, ra đường yên ả, mọi việc tại công sở đều được trôi tròn, đồng nghiệp thân thiện đáng quý. Nhân khi rảnh rỗi, cầm một tờ báo hay một quyển sách thích ý lên đọc sẽ thấy phấn khởi, suốt thông. Không những dễ hiểu mà còn hiểu sâu, phát minh ra những điều mới lạ, thâu gọn hết ý bài văn mà tác giả muốn chuyển tải trong đó. Mới thấy, khi tâm ổn định, lóng lặng, chính là lúc trí tuệ được phát huy đúng mức của nó. Và ngay khi tâm lóng lặng, tinh thần tươi sáng, an định, trí tuệ phát huy đến mức cao tột; ngay đó, quý Thầy tạm đặt tên là Thiền.

 

Một khảo sát khác, trong cuộc sống bận rộn hằng ngày, nhiều lúc chúng ta bỏ quên một thứ gì đó, cố nghĩ xem để ở đâu. Nhưng những công việc trong ngày bao nhiêu thứ lại ập đến tới tấp buộc phải giải quyết. Lúc ấy, càng cố nghĩ để tìm thì đầu óc lại càng căng thẳng, rối bời, càng mệt. Cho đến cuối ngày, lúc xong xuôi hết mọi việc, thảnh thơi thì tự nhiên lại nhớ ra. Qua đó cho thấy, nếu không khéo tu, những công việc hằng ngày sẽ làm cho tâm trí bị xáo trộn, khuấy động nên không sáng. Khi lắng lại tất cả những tư tưởng lăng xăng trong đầu, tâm sẽ an định, sáng suốt; ngay đó là Thiền.

 

Ví như có một lu nước đang bị cợn đục, chúng ta có đổ thêm nước trong vào thì nó vẫn đục. Muốn nước trong, không có cách gì hơn là để yên cái lu đó cho những cặn đục lắng xuống thì nước sẽ tự trong. Như vậy, trong cái đục vốn đã sẵn cái trong. Nhưng vì bị lắc động cho nên tạm thời vẩn đục vậy thôi. Tâm của chúng ta cũng vậy. Tự tâm của mỗi người vốn sáng, nhưng vì theo trần cảnh, không biết cách lắng lại cho nên bị đục đi. Từ đó khiến cho con người dễ bực bội, mệt mỏi, tối tăm, rối ren, lăng xăng, lộn xộn, gặp việc gì cũng khổ đau. Như thế là đang sống với tâm phàm phu tầm thường của chúng sanh. Nếu khéo lắng lại tất cả thì tâm thể LẶNG MÀ SÁNG hiện tiền, ngay đó là THIỀN.

 

Nói thẳng đến Thiền tông, Thiền sư Tông Mật nói: “Thiền là không định, không loạn”. Hằng ngày do loạn động quá cho nên tu tập, muốn dừng cái loạn động để trở về sự an định. Vậy thì Thiền không phải loạn động là đúng rồi. Nhưng tại sao ngài Tông Mật lại nói không phải là định nữa? Bởi nếu nói thiền là định thì tâm hành giả sẽ tự nó lập nên một cái gọi là định để gìn giữ. Nhưng nếu còn có chỗ để gìn giữ là có chỗ bám cho nên tình thức sanh khởi, là đã lầm qua, không phải thiền định; là đã đánh mất thiền định rồi. Bản tâm chân thật nơi mỗi người vốn tự không loạn, muốn động cũng không xong thì cần gì nói định? Nếu còn thấy có một tâm an định để gìn giữ là có ngăn trước ngừa sau, thì đó chỉ là sự an định do chú tâm mà được, là sự an định có giới hạn, không phải là tính chất định rốt ráo sẵn đủ nơi tự tánh chúng ta. Khi nghe nói: Thiền là không phải định cũng không phải loạn, vậy có chỗ nào cho chúng ta bám vào làm cơ sở để hiểu được không? Khi rời cả hai bên định và loạn, không có chỗ cho tình thức bám hiểu, ngay khi không hiểu thì cái gì đang sáng biết không động đang hiện bày sờ sờ ra đó? Ngay đó nhận thẳng, mới hay ra, THIỀN đang bàng bạc khắp cả mọi lúc mọi nơi chưa từng thiếu vắng bao giờ! Sẽ hay ra, Thiền là Thiền, không là gì cả.

 

2. VÌ SAO CHÚNG TA PHẢI TỌA THIỀN?

 

2.1.    Thiền là cốt tủy của đạo Phật.

 

Đức Phật tu thiền, do tọa thiền mà thành đạo. Chư vị Tổ sư cũng do tu thiền mà chứng đạo; nhiều đời thay nhau trao truyền tâm thiền này. Thời cận đại, Hòa thượng Tôn sư cũng từ thao thức tu thiền và sáng đạo. Con cháu ngài đang tiếp nối tâm tông (Thiền tông) làm tỏ rạng, lan tỏa khắp muôn nơi.

 

Khi đã thành Phật, đức Phật vẫn tiếp tục tọa Thiền. Lý do để điều hòa sức khỏe, đồng thời làm gương cho đời sau; hơn hết là để khẳng định thiền là cốt tủy. Đạo Phật tuy có nhiều pháp môn hành trì, nhưng đều phải đạt đến thiền định mới có kết quả. Cụ thể trong Tam Vô Lậu Học, ba môn học rốt ráo, không còn rơi rớt của người tu chính là Giới, Định và Trí Tuệ. Cho thấy thiền định là nền tảng và trọng tâm. Vì thế chúng ta tu hành muốn thành Phật thì phải tu tập Thiền định.

 

2.2.    Tọa Thiền là phương pháp tối ưu để công phu đắc lực.

 

Trong 4 oai nghi đi đứng nằm ngồi đều có thể thực hành thiền. Nhưng ngồi là một phương pháp tối ưu giúp công phu tiến bộ mạnh nhất. Ngồi thiền giúp chúng ta chiến thắng được bản thân và tâm yếu đuối, hèn nhát, lười mỏi; là công phu chính để được suốt thông, thân tâm an lạc, đạt đến định tuệ viên mãn. Đây là nền tảng căn bản để tiến sâu vào các công phu đặc biệt tiếp theo không bị trở ngại.

 

3.XEM NHẸ, ĐỪNG QUAN TRỌNG MỌI THỨ  BÊN NGOÀI

 

Muốn giúp cho đời sống tu tập được nhẹ nhàng, sức tỉnh giác cao, khế hợp với thiền thì trước tiên cần phải phần nào làm chủ ngoại duyên. Muốn làm chủ ngoại duyên thì đừng thèm dính mắc mà nên xem nhẹ mọi thứ bên ngoài. Quý Thầy vẫn thường nói: “Cái gì thiếu mà không chết thì không cần”.

 

Chúng ta cần thân này để sống, để thực hiện lý tưởng, chứ không phải lệ thuộc nó để thụ hưởng rồi bị vật chất sai khiến, trói buộc mình.

 

Có những người ngày xưa làm ruộng, làm rẫy vất vả, cơm không có ăn, chỉ ăn toàn khoai sắn độn lẫn vào rất ít gạo, bữa nào cũng giống bữa ấy, ăn không đủ no, bụng luôn cồn cào, thế mà con người vẫn sống vui và khỏe. Bất thần mọi chuyện thuận lợi, cơ may chợt đến, bỗng chốc trở thành một doanh nhân nổi tiếng, đi xe hơi, ở nhà lầu, có người hầu kẻ hạ, hét ra lửa… Được một thời gian khá dài rồi do làm ăn thua lỗ, mất hết tài sản, chỉ còn khoảng vài tỷ đồng và nhà cửa, xe cộ… Lúc này tự nhiên thấy bị thiếu thốn, bó buộc, mặc cảm… không sống được, buồn chán, túng quẫn… Ngày xưa cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc mà vẫn sống được bình thường. Ngày nay còn chừng đó là quá nhiều so với trước kia, nhưng tại sao lại không sống nổi? Đó là do quá quan trọng về vật chất nên đã bị dính mắc. Nếu khéo lìa được sự dính mắc bên ngoài thì sẽ trả lại sự tỉnh táo nơi mình. Khi đã tỉnh táo rồi thì có thiếu cơm rách áo cũng vậy, khi danh vọng tràn trề cũng vậy. Nếu đã được “cũng vậy” rồi, thì mọi thứ chỉ là tùy duyên; có và không cũng chỉ có vậy. Vậy là chúng ta đã đủ sức chủ động để dùng mọi thứ, chứ không bị bất kỳ thứ gì sai khiến và dùng được mình. Năng lực đó sẽ giúp con người làm chủ ngoại cảnh.

 

4.LÀM CHỦ THÌ KHÔNG BỊ NGOẠI DUYÊN DÙNG MÌNH, MÀ MÌNH HAY DÙNG ĐƯỢC MỌI THỨ.

 

Ngày xưa không có gì trong tay vẫn sống được. Hiện nay văn minh, hiện đại tối tân thì chúng ta sử dụng mọi thứ tiện nghi vào việc có ý nghĩa, nhưng không để bị lệ thuộc. Và mai sau nếu không còn nữa, chúng ta vẫn sống như ban đầu thế thôi. Nó đến thì tôn trọng, nhưng không có nghĩa là quan trọng và lệ thuộc, cũng không phải bất cần; chỉ là trân trọng mà không dính mắc, không cần thiết. Điểm chính yếu là “mình dùng nó hay nó dùng mình”. Cho nên có câu: “Lòng mình đủ rộng, thì hay dung hết cổ kim”. Khi thấy có một cái khiến cho mình bực bội, đó là lòng đã bị thu hẹp, không đủ rộng, không dùng được nó mà đã bị nó làm cho ngăn ngại, mất tự chủ và không được tự do tự tại rồi.

 

Khi bàn tay bận nắm một vật gì đó, có nghĩa là đã bị trói buộc, ngăn ngại bởi vật trên tay cho nên không thể nắm những gì còn lại. Khi không nắm tất cả thì sẽ được tự do, muốn nắm cái gì cũng được. Tùy thời, tùy nghi buông nắm tự do tự tại. Tương tự, khi lòng dính mắc một cái gì đó, liền bị khu biệt giới hạn trong việc đó, vật đó; bị cái đó che khuất, làm cho ngăn ngại, lòng người không còn đủ rộng. Nếu không dính mắc hay dừng trụ trên bất cứ gì cả, thấu suốt qua tất cả thì tâm thể vốn tự rỗng lặng, sáng ngời, thênh thang. Tâm này có đủ năng lực tự chủ, các pháp không còn đủ sức chi phối cho nên chúng ta được tự tại, tùy duyên trên các hoàn cảnh, không bị các pháp sai khiến mà hay chuyển được các cảnh; đây gọi là hay dùng được tất cả. Kinh Lăng Nghiêm nói: “Nếu hay chuyển vật, tức đồng Như Lại”.

 

5.CÒN CÓ SỞ ĐẮC, CÒN CÓ CHỖ TRỤ LÀ ĐÃ  NHỐT MÌNH TRONG HẠN HẸP,  KHÔNG ĐẠT ĐẾN ĐƯỢC BIỂN LỚN ĐẠI GIÁC.

 

Ví dụ khi nghe tiếng ve kêu mà để ý theo nó là tâm mình đã bị cột vào nó, tự thu hẹp lại, không nghe được những tiếng khác. Nếu cố ý nghe tất cả các tiếng khác thì tâm cũng bị thu hẹp tương tự, sẽ căng thẳng hơn, không hợp đạo. Hoặc khi cố tình không nghe những tiếng chung quanh để tập trung lắng nghe những lời giảng giải này, tâm ta gom về một mối, ngỡ là an tịnh. Nhưng đó chỉ là tướng tịnh nhất thời. Bởi khi rời đây để đi ra ngoài kia thì tướng tịnh ấy không còn nữa. Hơn nữa, khi chú ý nghe theo những lời giảng giải là đã bỏ quên chính mình mà đi ra theo lời này rồi, tức là đã bỏ quên cái tâm chân thật chính mình đang lặng sáng biết nghe một cách lưu thông, không hề ngăn ngại. Mới biết, quên mất chính mình là tâm đã đi ra theo vật; chứ không phải đợi đến khi lao ra phan duyên dính nhiễm có tướng động rồi mới phát hiện thì đã quá muộn màn, tồi tệ. Đây chính là chỗ tâm chúng ta bị nhốt lại, bị khu biệt, giới hạn bởi những lời giảng này. Cứ ngỡ chú tâm là thanh tịnh, nào ngờ là đang bị nhốt; tâm đã rơi vào hạn lượng sanh diệt của hai tướng động và tịnh.

 

Thử buông xuống mọi thứ, an trở lại ngay tánh sáng biết chính mình, không lo ra và cũng đừng thèm để ý. Không chú tâm, không phải phớt lờ qua, cũng không khởi tâm để mặc kệ; lúc này, tánh sáng biết chính mình sẽ tự nghe biết suốt tất cả một cách tự nhiên như nhiên, không động. Cái ấy mới chân thật, luôn hiện hữu; không mất trên mọi cảnh duyên.

 

Nếu chấp cho rằng, mình đang có một cái đang nghe cả tiếng ve, cả tiếng quý Thầy nói và nhiều tiếng khác nữa thì cũng là nghe theo tiếng mà quên mất mình thôi. Cái ấy vẫn còn có sự chú tâm mới được, cho nên còn hạn lượng, còn ngăn ngại, chưa phải. Bất thần lâm vào tình cảnh súng đạn chiến tranh, thử hỏi lúc này dụng công tu tập như thế nào? Có thể chú tâm như trên để đối diện với trận mạc một cách an nhiên bình thường như không có gì xảy ra được chăng? Trận chiến có tướng hình mà không công phu được, với trận chiến tử sanh trong tâm mỗi người làm sao giải quyết xong! Mới biết, công phu theo cách chú tâm trên chưa khế với đại đạo. Nó sẽ mất khi chúng ta chú tâm mỏi quá, căng thẳng; hay khi rời khỏi chỗ ngồi này để làm một công việc khác. Ngược lại, chỉ cần an trở lại, tĩnh lặng sáng ngời, không rời cũng không trụ trên tất cả thì nghe biết suốt tất cả, không động, không ngăn ngại. Cái này mới là chân thật, không bao giờ mất. Do đó, Ngũ Tổ nói với Lục Tổ: “Nếu người thực sự thấy tánh thì dù múa đao giữa trận cũng thấy tánh”, là vậy.

 

Nếu nói chú tâm, làm việc gì biết việc đó. Điều này thích hợp cho người mới vào đạo. Nhưng nếu muốn tiến đến công phu rốt ráo hơn thì phải nhận rõ, khi tâm chăm chú vào công việc là đã đánh mất chính mình mà theo vật bên ngoài. Dù được sự an định cũng chỉ là con đường đưa đến định tánh Thanh Văn, không đạt được đại định tự tại như chư Tổ Thiền tông chỉ dạy.

 

Và nếu nói sống trở lại với hiện tại, với thực tại, vô tình tâm đã tự lập nên một cái thực tại, thấy có một cái thực tại để chú tâm. Dù cái đó có lớn lao đến dường nào đi nữa thì cũng là cái đối tượng bị biết bên ngoài mình, không thật. Chính cái thực tại này đã che khuất bản tâm chân thật rốt ráo nơi chính mình. Cụ thể là hiện nay quý vị đang chú tâm nghe quý Thầy nói chuyện, tức là không tán tâm, đang được thanh tịnh, đang trở về với thực tại. Nhưng khi chú tâm nghĩa là quý vị đã bỏ quên ngôi vị chánh định chính mình mà trụ tâm theo lời pháp này, hoặc là an trú theo cái được gọi là thực tại; thì lúc này đây, cái chân thật chính mình đã bị bỏ quên, che khuất. Đây chính là chỗ Thiền tông chưa chấp nhận là rốt ráo. Bởi chưa giúp cho chúng ta đạt đến đại định đúng nghĩa. Mà điều dễ nhận ra là đạt đến ngang đây vẫn chưa phát huy được trí huệ chiếu phá sanh tử, chưa linh hoạt, chưa tự tại đúng mức như các Thiền sư đã khai thị.

 

6. NƯỚC CHẾT KHÔNG CHỨA ĐƯỢC RỒNG

 

Kinh Hoa Nghiêm, đức Phật dạy, các bậc Bồ-tát cần giữ lại trí xảo trì mới tiến lên hành Bồ-tát đạo, viên mãn Phật đạo. Nếu triệt luôn trí đó thì chỉ dừng lại chỗ một vị A-la-hán không phát tâm thêm mà từ chuyên môn gọi là Bất hồi tâm độn A-la-hán. Chỗ này trong nhà Thiền gọi là đầu sào trăm trượng, là nước chết không chứa được rồng, bởi cái trí dụng chiếu phá sanh tử chưa phát khởi. Thiền sư Pháp Thành ở Hương Sơn nói: “Dù cho thuần thanh tuyệt điểm, vẫn còn là chơn thường lưu chú”. Dù đạt được thanh tịnh tuyệt đối, nhưng nếu chưa phát được trí chiếu phá sanh tử thì vẫn còn là một sự trôi chảy nhỏ nhiệm trong chỗ chơn thường kia, chưa được đại tự tại. Chỗ ấy vì quá nhỏ nhiệm vi tế nên chúng ta không thấy và dễ lầm tưởng cho là đã đạt đến chỗ rốt ráo rồi. Nhưng người đạt đến đây còn thấy có sanh tử đáng lìa, thấy có niết bàn cần thể nhập; sợ sanh tử, chán ngán sanh tử, ưa thích niết bàn vắng lặng. Cái thấy còn lấy bỏ, còn lấy cái này và rời bỏ cái kia, còn kẹt hai bên; đó là những dấu hiệu cho thấy trí chiếu phá sanh tử chưa được phát huy. Trí xảo trì là trí sáng biết sinh động, sống động trong tự tánh chánh định chính mình, chứ không phải là cái tinh xảo còn động trong đời thường. Cái biết này không có chỗ để biết mà hay biết suốt tất cả; không động, không mê mờ, không có gì là không biết. Vô cùng bình dị, gần gũi, bình thường. Ai chưa đến thì chưa nhận ra hết giá trị của nó cho nên hơi khó tin. Nhưng một khi đã sống được rồi thì mới thấy ngập tràn lạc an, nhưng sâu lắng khó tả, các thứ nhiệm mầu đều từ trong ấy; mới có phần tự tại và linh hoạt trong sanh tử. Do đó, Thiền sư Tử Thuần dẫn lời cổ đức bảo Thiền sư Hoằng Trí: “Tạm thời chẳng còn thì như đồng với người chết.”. Các Thiền sư đã sống trong ấy cho nên thấy rõ, tạm rời trong ấy thì đồng với người đã chết không khác. Mới thấy, trong ấy sống động như thế nào.

 

7.TÓM LẠI

 

Nếu thấy nghe mà có trụ trước là còn phan duyên, có dính mắc, chưa thoát khỏi sanh tử. Theo âm thanh sắc tướng là theo tướng bên ngoài. Thấy có sở đắc, có chỗ tu chứng, có chỗ thanh tịnh để bám giữ là theo tướng bên trong. Như thế là đã bỏ mất đại định chánh trí mà theo sở chứng, là còn có chỗ xen hở cho thức thần tồn tại. Khi hội đủ duyên, thức này sẽ phát khởi vọng niệm trở lại và vào luân hồi sinh tử. Chỗ này mới nghe qua thì thấy như là thường, nhưng có sống đến rồi mới cảm nhận được giá trị siêu việt của nó.

 

8. CHỈ CẦN GIÁC TRỞ LẠI, LIỀN XONG

 

Khi thấy cảnh, nghe tiếng, nghe những lời này, quý vị không cần trụ trên một gì cả, chỉ cần giác trở lại một cách bình thường thì tánh thấy nghe này tự lưu thông một cách phi thường, tự nghe thấy sáng biết suốt thông không động. Không cần suy nghĩ mà vẫn thấy nghe rõ biết không ngằn mé, thênh thang mà không phải có tướng của thênh thang; vượt trên những suy nghĩ phân biệt tầm thường của trí sanh diệt thế gian. Khi công phu, không khéo thường bị lầm chữ giác này. Nghĩ rằng, phải có trụ, có chú tâm để tỉnh giác. Nhưng trụ đó chỉ được tỉnh giác trong cái an định tạm thời thôi. Còn thể tánh toàn giác này thì bản chất nó vốn không động, vốn tự tịnh, tự định mà biết khắp, không một vết mê mờ, đây mới đủ lớn.

 

9. ỨNG DỤNG VÀO CÔNG PHU TU TẬP

 

Tương tự, khi áp dụng công phu biết vọng để tu tập cũng vậy. Thông thường do chưa nắm rõ yếu chỉ Hòa thượng Ân sư chỉ dạy cho nên áp dụng chưa đúng mức. Hành giả thường bị rơi vào tình trạng đợi cho đến khi vọng khởi rồi mới biết, và biết đó là “biết về vọng tưởng”, “biết theo vọng tưởng”; gần như là ngồi đếm vọng tưởng hơn là dụng công tu tập. Vọng vừa khởi lên liền lao theo nó để đếm mà không sống được với thể tánh chơn tâm vốn tự sáng biết. Như vậy là đã có chỗ cho thức sinh khởi. Có làm gì đi nữa cũng là có chỗ cho thức sinh, mà thức sinh thì không làm chủ được vọng niệm, vì thế vọng niệm cứ còn hoài. Khi vọng niệm chưa nhiều thì còn có thể “biết về vọng, biết theo vọng” được, chưa thấy trở ngại gì, chưa phát hiện ra mức hạn chế của nó. Nhưng nếu vào thất hạ thủ công phu miên mật, buổi đầu chưa có kinh nghiệm nhiều, sẽ có lúc vọng niệm khởi lên thành đàn thành đống như nước lũ cuộn trào; lúc đó sẽ bị choáng ngợp, bất lực, không còn biết vọng nổi nữa và tự dưng cảm thấy hoảng loạn và sợ hãi với chính vọng tưởng của mình. Đến lúc này mới phát hiện ra, do trước kia công phu theo kiểu “biết theo đuôi vọng, biết về vọng” cho nên bây giờ không thể chiến thắng, không thể làm chủ được vọng tưởng. Cho hay, đợi vọng khởi mới có biết, biết đó là biết về vọng, biết theo đuôi của vọng, là áp dụng công phu chưa đúng pháp cho nên định lực không đủ lớn, không thể điều phục và làm chủ được vọng tưởng.

 

Thiền sư Tông Mật nói: “Vọng niệm vốn không, nhưng theo nó thì thành sự”. Trên thực tế, nói vọng niệm là giả, nhưng nếu không khéo tu thì nó sẽ quấy rầy con người mãi. Phải làm sao mới hết vọng niệm?

 

Thực ra, vọng niệm không có chỗ sinh cho nên nó là huyễn hóa, không thật. Vì nếu có chỗ sinh thì sẽ sinh ra mãi không bao giờ hết và không ai tu hành thành Phật, không ai có thể giác ngộ thành Tổ được. Nhưng thực tế vẫn có người tu hành làm chủ vọng niệm và đạt đạo thì vọng niệm không thể có chỗ sanh ra nó được. Rõ ràng đang ngồi tỉnh giác mạnh đây thì không có vọng niệm nào cả. Nhưng vừa thoạt quên thì vọng niệm liền có ra. Và nếu tiếp tục duyên theo thì nó sẽ thêu dệt thành hàng, thành đống. Mới thấy, “vừa quên”, tức là bất giác thì vọng niệm liền tạm có ra chứ không có một chỗ cố định sản sanh ra nó. Và vừa giác trở lại thì không còn nữa, mà cũng chẳng thấy dấu vết của nó đi về đâu. Đó là những dấu hiệu cho thấy, vọng niệm là giả, không thật có.

 

Khi thoạt quên liền mê, ngay đó căn thức có ra, bắt đầu có suy nghĩ, vọng niệm. Căn thức có thì vọng niệm sinh; và vọng tiếp tục khởi sanh là do anh căn thức này tiếp sức. Căn thức không phải sanh ra vọng tưởng mà nó là kẻ nuôi dưỡng, duy trì để vọng niệm tồn tại, sanh khởi. Căn thức lúc này không phải là cái thức phân biệt đúng sai... thô phù cho chúng ta nhận biết, mà nó là một sự âm thầm, trôi chảy nhỏ nhiệm, chỉ người đại ngộ, vượt qua rồi mới phát hiện ra. Ví như từ xa trông thấy dòng thác trắng xóa như một dải lụa bất động, nhưng đến gần mới thấy nó đang phun bọt tung tóe, chảy đều và dệt thêu liên tục. Căn thức này các Thiền sư gọi là thức thần. Thiền sư Trường Sa Cảnh Sầm nói:

 

Học đạo chi nhân bất thức chân,

 

Chỉ vị tùng tiền nhận thức thần.

 

Vô thủy kiếp lai sanh tử bản,

 

Si nhân hoán tác bản lai nhân.

 

Nghĩa là:

 

Học đạo mà không tỏ lẽ chân,

 

Bởi tại lâu rồi nhận thức thần.

 

Vô số kiếp rồi, gốc sanh tử,

 

Người ngu lại gọi chủ nhân ông.

 

Ví như khi bật hộp quẹt châm vào tim cây đuốc dầu thì ngọn lửa cháy bùng lên. Ngọn lửa không phải do dầu sanh ra, nhưng chính dầu là kẻ nuôi dưỡng, duy trì ngọn lửa tồn tại. Nếu dùng miệng để thổi trực tiếp vào ngọn lửa thì chỉ làm cho nó bùng cháy mạnh hơn. Muốn cho lửa tắt, chỉ cần rút hết dầu ra thì lửa tự tắt chứ không làm gì trên nó cả. Lửa tạm ví dụ cho vọng niệm. Dầu dụ cho căn thức, thức thần. Ngay thể tánh ban đầu của mỗi chúng ta vốn tự không vọng. Do thoáng bất giác, thoạt quên cho nên vọng niệm chợt có ra. Thức không sanh ra vọng, nhưng căn thức lại hay nuôi dưỡng, duy trì vọng niệm. Can thiệp vào vọng niệm chỉ là vô ích. Bởi vì thức còn thì niệm còn. Càng can thiệp vào vọng niệm thì căn thức càng được mạnh thêm; giống như càng thổi thẳng vào lửa của ngọn đuốc lớn thì đuốc càng phừng phừng cháy mạnh. Khi công phu, chỉ cần không theo vọng niệm là tốt, chứ không cần can thiệp như là dẹp trừ, biết về, biết theo hay mong muốn mau hết vọng. Muốn hết vọng cần có phương pháp. Phương pháp hữu hiệu là phải ngay thức thần này mà trị là xong. Khi thức bặt thì niệm dứt, chân trời giác ngộ sẽ mở toang, cũng như dầu hết thì lửa tự tắt. Điểm lưu ý ở đây là đừng đụng đến ngọn lửa mà phải rút dầu ra thì ngọn đuốc sẽ tự tắt.

 

Nhưng làm thế nào để diệt được thức thần? Vừa khởi làm gì, làm thế nào thì ngay đó chính là bản thân của thức thần rồi. Mà để không, không làm gì thì gần với vô minh, thức thần được ủ trong vô minh và thêm lớn mạnh. Nó giống như khối u ác tính, vừa đụng dao kéo là di căn; mà không làm gì thì cũng bị bệnh hoạn hoành hành. Có làm cũng không được, không làm cũng không xong. Vậy làm sao để diệt được thức thần kia?

 

Có làm gì và không làm gì đều là đang nhắm thẳng trực diện vào thức thần để giải quyết cho nên không thành công. Không nên can thiệp trực tiếp lên nó; chúng ta phải tìm một cái gì đó mà căn thức không ưa. Khi nâng cao cái đó lên thì tự căn thức bị hạ thấp xuống. Cái đó là GIÁC. Hễ anh giác xuất hiện thì anh thức này yếu đi. Thử ngay đây quý vị trấn tĩnh, giác sáng mạnh lên thì không bị mê mờ. Cho thấy, khi sức giác có mặt càng cao thì căn thức này càng bị suy yếu. Đến khi sức công phu đủ lớn, không trước không sau, bất chợt sức GIÁC vụt tăng thì bỗng dưng CĂN THỨC dứt bặt, vắng lặng, sáng trong; vọng niệm tự nó tan biến hồi nào không rõ, ngay đó CHÂN TRỜI GIÁC NGỘ liền mở ra, mới thấy Phật pháp rất diệu kỳ. Lâu nay tu hành, ăn nói, làm lụng, công phu đủ điều chỉ giống như một người ở trong mộng tạo tác. Lúc này, trong mọi sinh hoạt hằng ngày, chỉ cần sống ngay đó thì vốn tự tịnh, tự định, sáng biết thênh thang trùm khắp; mọi thứ không còn là vọng mà là DIỆU DỤNG CỦA TRÍ.

 

Trong Kinh nói, đức Phật là bậc nhất thiết chủng trí, tức là bậc có trí tuệ thấy biết tất cả, nhưng không phải là vọng tưởng. Vì đức Phật biết là thấy biết bằng bản thể sẵn sáng trùm khắp không động, cho nên cái biết tất cả này trở thành diệu dụng của trí, chứ không phải vọng động sanh diệt như chúng ta. Chúng sanh biết đủ thứ, nhưng do chưa thoát khỏi thức thần nên biết theo tình thức phân biệt vọng động; vì vậy nó chỉ là trần lao phiền não, là vọng động sanh diệt của chúng sanh. Diệu dụng thì an lạc, giải thoát, tự tại trong sanh tử. Vọng động thì trôi lăn trong sanh tử, luống chịu mọi thứ khổ đau.

 

10. ỨNG DỤNG VÀO SINH HOẠT HẰNG NGÀY

 

Trong Kinh Lăng Nghiêm, đức Phật nói với Ngài A-nan: “Ta ấn ngón chân, đại địa phát quang. Ông vừa khởi tâm, trần lao dấy trước” (Như Lai án túc, hải ấn phát quang. Nhữ tiện khởi tâm, trần lao tiên khởi). Đức Phật là bậc đã giác ngộ cho nên làm gì cũng không ra ngoài một tánh tròn đầy giác sáng bất động, nhất cử nhất động đều là diệu dụng của trí. Ngài A-nan là đại diện cho tất cả chúng ta. Còn là phàm phu, còn thức thần, còn vọng động sanh diệt thì làm gì cũng đều nằm trong trần lao phiền não. Giống như con rùa khi ở dưới nước thì còn ướt, nhưng lên bờ rồi thì nó có làm gì cũng ráo khô; muốn xuống nước hay lên bờ gì cũng được, tự do tự tại. Nếu là cá thì ở trong nước và buộc phải ở trong ấy, có vẫy vùng cách nào cũng không khỏi ướt. Hễ giác thì làm gì cũng là diệu dụng của trí. Mà mê mờ thì làm gì cũng không thoát khỏi vọng động, phiền não, trần lao.

 

Cho nên, bằng tâm giác sáng, không động mà làm mọi việc thì việc nào cũng đang phát quang. Còn nếu quên tâm này, vọng động mà làm thì liền đó phiền não trần lao dấy khởi. Nói đến chứng đắc có lẽ quá lớn lao, có người chưa sẵn sàng nghĩ đến. Nhưng nếu thử thể nghiệm ngay tâm mình thì sẽ cảm nhận được rất rõ ràng.

 

Cụ thể hằng ngày, trên mọi sinh hoạt, giác lại rồi làm, tỉnh lại rồi làm. Lên xe, tỉnh rồi đi. Lên lớp, tỉnh rồi nói. Ra chợ, tỉnh rồi mua đồ. Gặp việc, tỉnh giác rồi xử lý... Chỉ tốn khoảng nửa giây thôi, nhưng công việc có hiệu quả hơn nhiều và lại được tất cả.

 

Tu là sống ngay cái nhân giác ngộ vô sanh để trở thành quả vị vô sanh (quả vị Phật). Cho nên đang giác là đang ở trong đạo tràng, là đang tu, không đi tìm gì khác. Trong tâm mỗi chúng ta thường có thói quen ngấm ngầm luôn âm thầm đi tìm một cái gì đó. Hơi trống một chút là tìm cái gì đó để lấp vào. Khi tu hành thì lại đi tìm cái giác ở đâu đó. Đó là thói quen, cũng là bản chất của thức muốn phan duyên, xúi con người tìm kiếm duyên trần để bám víu. Nghe nói vô sanh thì tâm tưởng lại lập nên một cái tâm vô sanh để nhận, để ôm giữ chứ không biết khéo thể nhận lại. Nói nhận thẳng đến chỗ vô sanh, không một chỗ cho tâm y cứ vào để có thể sanh hiểu được thì liền nghi ngờ; bởi chỉ muốn bám víu, nương tựa theo kiểu của thức tình. Mà có cái để bám đeo thì đó là chưa thoát khỏi thức thần, là còn trong trần lao phiền não. Tu thì muốn giác ngộ đến chỗ rốt ráo chân thật, nhưng dụng tâm thì lại cứ bám đeo để nằm mãi trong phiền não trần lao. Thật không hiểu nổi! Đó là cái mê lầm của chúng sanh đã nhiều đời cho nên bị sâu dầy quá rồi. Bây giờ phải kiên trì, tỉnh giác thường xuyên thì công phu tu tập mới có công hiệu.

 

Chỉ sợ mình không chịu làm Phật thôi, chứ không có vị Phật nào ngu dốt cả. Ngay khi sống trở lại tâm thể giác sáng an tịnh thì nó sẽ tự biết nên làm gì. Không cần tính toan suy nghĩ, nhưng nó tự sáng biết và bền bỉ hơn tâm suy nghĩ rất nhiều. Sống được như thế là đang dùng TÂM KHÔNG ĐỘNG để làm nên tất cả trở thành diệu dụng. Còn dùng TÂM ĐỘNG, tâm vọng tưởng nghĩ suy để làm thì đó chỉ là VỌNG TÌNH sanh diệt mà thôi. Diệu dụng thì giải thoát, an vui. Vọng tình thì khổ đau phiền não. Cho nên, các Ngài xưa thường nói: Phút chốc tạm quên tâm giác này thì liền đồng với người chết. Nếu ai công phu mạnh mẽ, cảm nhận được như quý Ngài thì sẽ cảm nhận được sự an lạc, giải thoát ngay trong đời sống hằng ngày một cách rất rõ ràng, chân thật.

 

Như dưới kia có cả ngàn đứa bé đang đùa chơi. Nếu đứng lặng mình trên lầu nhìn xuống thì sẽ trông thấy toàn thể cả ngàn đứa trẻ, thấy hết các hành động, vẻ mặt của chúng nó không sót đứa nào mà mình vẫn an nhiên không động. Nhưng nếu xuống đùa chơi với nó thì chúng ta sẽ bị cuốn hút loạn động như thói trẻ con và chỉ thấy được chừng mười đứa quanh ta thôi. Những đứa trẻ là dụ cho trăm ngàn công việc và tình huống hằng ngày mà con người phải đối diện. Nếu bằng tâm tỉnh lại, giác sáng để làm, để hành xử thì tâm đó tự vượt trên tất cả các việc, không bị hòa tan bởi sinh hoạt. Nó rất thông minh, sẽ biết nên làm gì mà tự nó vốn không động. Làm tất cả mà đang giác, đang tu và công việc có hiệu quả hơn nhiều. Sống được như thế là được tất cả. Nếu dùng tâm suy tư nghĩ tưởng để làm thì bị loạn động. Càng loạn động thì càng mê mờ, càng căng thẳng, mệt mỏi, bỗng dưng muốn chán... Đó là nguyên nhân khiến cho con người lâm vào bệnh tật, công việc có hiệu quả thấp hơn và không giải quyết dứt hẳn được khổ đau, phiền muộn; có khi còn bị trầm trọng, tồi tệ hơn.

 

Công phu tu tập đúng pháp tất yếu sẽ được tiến bộ theo thời gian. Sức giác càng mạnh thì phiền não trần lao càng giảm. Và cuộc sống an ổn sẽ tùy thuộc vào thời gian và sức công phu mạnh hay yếu của mỗi người. Trong bất cứ công việc hay trường hợp nào, chỉ cần một việc giác sáng toàn thể để thấy biết, để làm tất cả các công việc; cứ kiên trì tu tập như thế lâu ngày chắc chắn sẽ cảm nhận được điều kỳ diệu, nhẹ nhàng nhưng sâu lắng vô cùng.

 

11.KHÔNG ĐÒI HỎI CẢNH DUYÊN THUẬN THEO MÌNH

 

Thường ngày chúng ta hay phán đoán mọi việc qua bản ngã của mình. Trời nắng thấy khó chịu quá, nhưng không biết rằng nắng đang cần cho người phơi lúa. Trời mưa ướt át không dễ chịu chút nào, nhưng không biết mưa đang cần cho người làm ruộng. Sao ngủ chung phòng mà cứ đóng cửa hoài ngột ngạt bực bội quá, mà không hề quan tâm người bên cạnh mình đang bị trúng gió nên cần sự kín gió hơn… Sống bằng bản ngã, quen phán đoán qua bản ngã, muốn mọi thứ phải theo mình, bị cái ngã làm chướng ngăn cho nên không quen thích nghi với nghịch cảnh. Khi nghịch cảnh đến thì khổ sở và mong đợi nó qua đi theo ý mình, từ đó khổ đau. Muốn thắng nghịch cảnh, phải khéo dụng tâm. Ngay khi đang gặp việc bất như ý, đừng vội trách cứ tại sao như vậy, cũng không thèm mong muốn nó qua mau, đừng nghĩ phải chi nó không đến mà nên tỉnh táo, tìm sự trong lặng trên nó để xem coi, ngay đây Phật pháp là gì? Phật tánh đang ở đâu lúc này, để sách tấn buộc mình phải tiến tới. Làm như thế như là mình bị ép, nhưng phải ép mình thì tự ngã mới tiêu, mới không bị cản trở và dễ tiến đạo. Tự mình khắc tâm làm đúng, sẽ tích cực hơn đòi hỏi người khác hay hoàn cảnh đúng như ý muốn của mình. Đòi hỏi như thế chỉ là tô bồi, nuôi dưỡng cho tự ngã chướng đạo của mình lớn thêm. Nhưng làm đúng mà cố chấp thấy tôi làm hay cũng là nuôi lớn tự ngã này. Điểm chính yếu ở đây là chặn hết các đường, không có chỗ cho tâm sanh khởi. Như là: Đừng nghĩ lui, phải chi đừng làm như thế, phải chi biết trước thì nên làm thế kia... Đừng thèm mong nghịch cảnh qua mau, đừng thèm quan trọng nó, không có một niệm bào chữa dung dưỡng dù đó là niệm thiện, niệm đúng... Tất cả không có đường cho niệm phát sinh và chỉ tìm lấy sự lặng trong sáng ngời trên nó, ngay đó đạo lý chân thật sẽ sáng ngời. Đó cũng là cách thực tập giác ngộ ngay tại các hoàn cảnh thế gian. Cứ mạnh dạn thử thực tập đi, rồi sẽ thấy nhiều thú vị!

 

12.KIỂM TRA CHỖ THƯỜNG HAY QUÊN, BẤT GIÁC

 

Thông thường khi ngồi ở trạng thái cố định thì dễ làm chủ và đang rất tỉnh sáng. Nhưng vừa bắt đầu chuyển sang động thái khác, vừa đứng dậy để đi thì hành giả lại khinh suất (xem thường) và bất giác (quên) ngay khi ấy. Các bậc cổ đức nói: “Họa hoạn nằm ở nơi không nơi chốn, nhưng sẽ phát ra ngay chỗ khinh suất” (xem thường). Tức là hiện nay đang ngồi đây thì không thấy họa hoạn ở đâu cả. Nhưng khi bước ra, trong thoáng vừa xem thường sơ suất chút xíu là sẩy chân liền... Vậy thì không cần quan tâm họa hoạn có hay không mà phải ngay chỗ khinh suất, xem thường của mình để chế ngự. Cái họa hoạn của khinh suất, bất giác không chỉ ở nơi sự thể một đời, mà điều quan trọng lớn lao hơn nữa là nó còn nhấn chìm chúng ta đi trong sanh tử chịu khổ triền miên hết kiếp này sang kiếp khác. Biết vậy thì phải để tâm, khắc tâm ngay chỗ khinh suất, đừng để bất giác lặp lại nhiều lần, lâu ngày thành thói quen, sẽ khiến chúng ta luống phải chịu khổ vô ích.

 

Trường hợp ngược lại, khi tự mình sắp xếp để làm một việc gì đó cố định hoài một chỗ thì coi như là ổn định, dễ tu. Nhưng dễ khiến cho chúng ta chủ quan, cứ êm đềm thả mình theo công việc mà quên giác; có khi công việc cứ đều đều trôi thuận theo quán tính tự nhiên, và hành giả thì ngủ yên trong trạng thái vô ký, không sáng biết. Ví dụ: Đang ngồi xem tivi hay làm máy tính say sưa, đang chú tâm vào công việc, không nghĩ đến việc khác và ngỡ đang an tịnh, thế là được rồi. Bất ngờ bị cúp điện, máy tắt phụp, chúng ta giựt mình. Ngay khi giựt mình, mới biết trước đó chúng ta đã quên chính mình mà theo việc bên ngoài. Dù có chú tâm đến đâu mà bỏ quên chính mình theo việc bên ngoài thì cũng là bất giác, không giác sáng. Nếu luôn ở bản vị giác sáng để làm, không theo công việc bên ngoài thì khi bất chợt cúp điện, máy tắt phụp, chúng ta vẫn bình thường, không một chút gợn giựt mình hay thất vọng như vậy.

 

Như con rắn khi thả tự do thì sẽ bò ngoằn ngoèo. Nếu cho vào ống tre thì nó sẽ tự bò thẳng. Tâm ta cũng vậy. Nếu cứ buông thả không chăn dắt, sẽ thành thói quen ngông cuồng khiến chúng ta không làm chủ được. Nếu khéo thực tập giác sáng thường xuyên như thế lâu ngày, công phu sẽ thuần thục, định lực, tuệ lực tăng trưởng, sẽ giúp cho hành giả tự chủ.

 

13.SỐNG NGAY TÂM GIÁC SÁNG LÀ SỰ GIÁC NGỘ. AN LẠC, GIẢI THOÁT VÀ TỪ BI TỰ SẴN ĐỦ, TỪ TÂM GIÁC NGỘ MÀ CÓ RA.

 

Ví dụ khi phải đi qua một sa mạc nắng nóng và khát nước đến lã người, nếu gặp ai cho một cốc nước lã hiếm hoi thì chúng ta uống vào đâu thấm đến đó, rất ngon. Nhưng khi về thành phố lớn, được bạn bè đãi đằng uống ăn những món ngon vật lạ no nê rồi, tình cờ gặp ai mời một cốc nước lã, chúng ta vẫn uống được, nhưng bình thường, không dở, không ngon. Khi đang ở giữa sa mạc đói khát thì rất quý cốc nước lã. Có ai đó bảo nó là huyễn hóa, bỏ đi, có thể vì nể phục hay bị ép thì cố bỏ, nhưng trong lòng thì thèm lạt, khát khao, cam tâm mà bỏ chứ không đành. Lúc về thành phố đã no nê những món ngon thượng vị rồi thì đối với cốc nước lã, uống và không uống giống nhau, không có gì phải bàn bạc là bỏ hay không bỏ cả.

 

Cũng vậy, những thứ hơn thua, được mất, phải quấy, buồn vui, thành bại, yêu ghét trong đời chỉ là những cốc nước lã. Nhưng vì con người ta đang còn quá đói khát với thượng vị chánh pháp, chưa một lần được nếm thượng vị chánh định, giác ngộ. Họ không nhìn thấy gì khác hơn ngoài những thứ nhan nhản trong trần đời mà họ đang trông thấy, cho nên chỉ biết chộp lấy và ngấu nghiến ăn rồi cho là ngon, là dở, là khổ, là vui, rồi quan trọng mọi thứ mà chưa dễ chấp nhận tất cả chỉ là đồ bỏ như cốc nước lã với người no. Kết quả sau đó là phải chịu mê mờ, trầm luân đau khổ triền miên, không có ngày ngoi đầu lên nổi. Nếu chỉ một lần nếm được thượng vị thiền định, giác ngộ, an lạc thì mới thấy những thứ kia không còn đủ giá trị tác dụng chi phối. Lúc này, có và không giống nhau, không hề có dấu vết tâm trên đó. Thấy biết vượt cả căn cảnh, năng sở, có không. Mọi thứ chỉ như thị, không giả, không chơn; không lấy, không bỏ, tự tại tùy duyên. Như người đã tràn đầy món ngon thượng vị rồi thì thảnh thơi nhàn hạ trước cốc nước lã; phải vứt bỏ đi hay để đó là câu nói thừa.

 

Sống ngay tánh giác tròn đủ đó, hành giả đang giác sáng, thênh thang trùm khắp mà không động. Đó là tính chất GIÁC NGỘ.

 

Ngay tánh giác sáng đó, tự hành giả cảm nhận rõ ngập tràn lạc an; sâu lắng, nhẹ nhàng; nhưng thênh thang, thanh thoát. Đó là tính chất AN LẠC.

 

Khi ấy, những thứ trong đời tự mất giá trị, chỉ là bình thường, không còn đủ tác dụng để chi phối nữa thì còn có gì trói buộc? Ngay đó tự là giải thoát mà không hề có tâm xua đuổi hay lấy vào. Đó là tính chất GIẢI THOÁT.

 

Trước đây, những hành động thiếu văn minh ngoài đường thường khiến chúng ta bực bội, nguyền rủa… Nhưng bây giờ cảm thấy thương tâm. Vì sao cũng là con người mà lại không được sáng suốt, an nhàn, sung sướng, trầm lắng, thanh thoát? Ngược lại còn mê mờ, ngông cuồng, có những hành vi làm trò cười cho người khác mà cứ ngỡ là oai hùng cái thế? Thương và muốn tìm cách để giúp cho họ được giác ngộ, an lạc, giải thoát như những hành giả đang công phu tốt. Bằng vào sự giác ngộ để thương về sự mê lầm của chúng sanh, muốn cứu giúp cho mọi người đạt được giác ngộ, an lạc, giải thoát; đó là đúng nghĩa TỪ BI.

 

Mới thấy, chỉ cần sống trở về bản tâm giác sáng trùm khắp không động thì chính đó là GIÁC NGỘ. Từ đó, các đức tính AN LẠC, GIẢI THOÁT, TỪ BI tự có ra một cách tròn đủ trong ấy. Mới hay ra, tâm thiền thật nhiệm mầu! Đây cũng là chỗ Thiền sư Huyền Giác đã nói: “Lục độ vạn hạnh thể trung viên” (sáu độ muôn hạnh đều sẵn đủ trong ấy) là vậy. Chỉ sống trở về “trong ấy” thì muôn hạnh tự tròn đủ, tất cả đều trở nên cao thượng.

 

14.HAI LỐI CĂN BẢN THỂ NHẬN TỰ TÁNH

 

Lối vào đạo thì nhiều, nhưng đường vào thiền thì không cửa, miễn sao nhận ra và sống về bằng tự tánh vốn tự sáng tịnh nơi chính mình, liền khế hợp thiền. Bởi nhắm thẳng tự tánh mà không câu nệ kẹt trên phương tiện, cho nên thiền tuy có phương pháp mà không lập thành phương một phương pháp cố định. Do đó, không pháp cũng là một pháp. Có pháp vẫn là không phương pháp. Bởi chỉ một bề nhắm thẳng, chỉ thẳng tự tánh để trực ngộ, hoặc hướng tiến. Trên cơ sở đó, theo kinh nghiệm, quý Thầy sẽ nói hai phương pháp tạm dùng để có thể đưa hành giả thể nhận bản tánh.

 

v Một là dẹp sạch mọi thứ, buông xuống, khi phiền não tập khí tiêu trừ thì thể tánh tự hiển hiện. Kế đến sống thẳng bằng thể tánh, tùy duyên để tiêu dung các lậu hoặc vi tế. Cách này như người đứng từ xa, chưa thấy nhà mình; phải đợi dọn dẹp hết lùm bụi gai góc mới đến nhà và vào được. Sau đó tiếp tục dọn dẹp đồ đạc trong nhà.

 

v Hai là ngay trên mọi hoàn cảnh mà khéo léo thể nhận lại tự tánh vốn sáng không động. Đồng thời tùy duyên tiêu dung tập khí mà không thấy có tập khí có thể tiêu trừ. Vì không thấy có tập khí thật, cũng chẳng phải chấp nhận sống theo tập khí. Chỉ là sống thẳng bằng tự tánh, thấy biết vượt cả năng và sở, có và không. Vẫn thấy rất rõ tập khí gì đang tồn tại cần phải tiêu dung mà cái thấy biết này không nằm trong có và không ấy. Cách này giống như đi máy bay. Một bay thẳng tiến vào nhà, sau đó từ nhà phát dọn sau. Chỗ này, Hòa thượng Tôn sư đã viết trong bài sám Tam Nghiệp:

 

Đơn đao đột nhập Vô thượng giác,

 

Tam độc bát phong không chướng ngăn.

 

Chỉ một chơn như tam muội ấn,

 

Tiến thẳng vào trong nhà pháp thân.

 

Giống như chúng ta đang đứng trước một ngôi nhà đồ đạc ngổn ngang. Cách thứ nhất là khuân vác dọn dẹp đồ đạc theo thứ tự từ bên ngoài trước rồi tiến dần vào trong. Sau đó dần dần mới vào ở trong nhà mình. Cách thứ hai là không cần đứng bên ngoài mưa nắng gió bụi, cứ khéo nhận ra một chỗ trống nào trong nhà là đặt chân vào đó và tiến thẳng vào ngay trong nhà, ở trong ấy rồi dọn ra.

 

Tương tự như trên, Thiền sư Thạch Đầu Hy Thiên và ngài Mã Tổ Đạo Nhất, hai ngài cũng có hai cách dẫn dắt người học rất đặc biệt.

 

Cách dạy người của ngài Thạch Đầu là dẹp sạch tất cả, một vật cũng không. Dù đó là bồ đề, niết bàn, giải thoát cũng không dựng lập, không còn chỗ nương, đưa học nhân đến chỗ bặt hết tình thức thì trí giác tự khắc sống dậy, hiện bày.

 

Nhưng ngài Mã Tổ thì chủ trương thu vào. Khéo nhận và sống thẳng bằng tự tánh sáng biết mà bất động thì tất cả đều là Phật pháp.

 

Đây là hai lối cơ bản vào đạo. Hành giả cảm thấy lối nào hợp với căn cơ của mình thì ứng dụng theo lối ấy. Miễn khế hợp với tự tánh giác sáng là được, không bị sai lầm.

 

Cũng có thể khéo léo vận dụng đồng thời cả hai. Một mặt chúng ta biết rõ tất cả các pháp đều là huyễn hóa, không thật; buông xuống tất cả để ngăn ngừa bên ngoài. Mặt khác, ngay trên các pháp, đừng khởi thêm gì trên đó cả; chỉ là giác sáng trở lại. Cụ thể, xem lại coi, khi biết vọng, biết mọi thứ là huyễn hóa, không thật, là mình đang biết theo vọng, biết về những thứ đó, hay là đang tự sáng biết? Trên tất cả các cảnh duyên cũng tương tự. Nếu biết theo vọng, biết theo cảnh; đó là quên tánh giác sáng, là đã bị vọng động, không thắng được vọng. Ngược lại, không thèm biết theo nó, mà chỉ rõ suốt là mình đang tự sáng biết toàn thể. Khi có vọng tưởng hay không thì bản tánh tự sáng biết này vẫn giác sáng biết khắp như thế, không thay đổi. Đó là chúng ta đang tranh thủ ăn món ngon thượng vị. Theo thời gian công phu thuần thục, giống như món thượng vị được no đủ rồi thì vọng tình ngoại cảnh chỉ như một cốc nước lã, tự nó mất giá trị với người đã no đủ đồ thượng vị ngọt ngon. Không cần loại bỏ, nhưng nó lại không còn đủ sức chi phối mình. Không còn nói đến vọng hay chơn, lấy hay bỏ, có hay không, mà vọng tình đã tự vắng bặt. Bảo là lìa cảnh hoặc ngay trên cảnh để giác ngộ đều nhằm trên cảnh mà bàn nói, chưa thể lìa được cảnh, chưa tỏ sáng bản tâm. Toàn biết là giác, toàn giác là sáng, tâm ấy luôn sẵn sáng biết không động linh thông như thế. Không phải ngay cảnh, cũng không phải lìa cảnh để tìm giác ngộ, mà sự giác ngộ đang hiển hiện trùm khắp mọi lúc, mọi nơi. Như cốc nước lã trước người đã no món thượng vị, tự cốc nước lã không còn giá trị, người này không còn có tâm ngon hay dở trên đó, mà nó được trả lại nguyên bản vị của nó, nước lã là nước lã, không ngon cũng không dở, không lấy cũng không bỏ. Đây chính là chỗ bất tức, bất ly. Ngay đó đạt được như như bất động, tự tại trên mọi hoàn cảnh. Khéo léo vận dụng một chút thì công phu sẽ đắc lực.

 

15. NÓI THÊM VỀ GIÁC SÁNG TRỞ LẠI, TỈNH LẠI.

 

Bản tâm giác sáng nơi mỗi chúng ta xưa nay vẫn vậy. Thế rồi bất thần một thoáng thoạt mê, vô minh liền có, vọng niệm theo đó chợt sanh. Mịt mùng trong vô minh, cộng thêm vọng niệm trùng trùng dấy khởi, theo đó tạo nghiệp, thọ sanh, duyên theo trần cảnh, đẹp xấu, phải trái, được mất, hơn thua cứ thế chất chồng; không còn nhận biết đâu là lối về nữa. Đây là từ một niệm bất giác mà đi ra, càng đi càng xa dần với giác tánh vốn sẵn. Bây giờ biết tu là biết quay trở về lại với tự tánh giác sáng ấy, gọi là giác sáng trở lại. Tự tánh ấy ở đâu, bao xa mà quay về? Sẵn đó nơi mỗi người. Đi muôn ngàn dặm để tìm một thứ mà nó đang nằm dưới gót chân của mình. Đó là sự lý thú, mà cũng là sự đau đớn cho những người lỡ mê, lỡ khổ như mình.

 

Thế nào là “Giác sáng trở lại”? Đối trước mọi cảnh duyên, chúng ta buông thư, rủ xuống, buông xuống... Kế đến để tâm bình thường, an nhiên nhưng giác sáng, tự tánh giác sáng tự hiện bày, thấy nghe hiểu biết tự nhiên như nhiên, bủa khắp mà không cần khởi tâm phân biệt, không ngăn ngại. Đó là “Giác sáng trở lại”.

 

16.BUÔNG XUỐNG – AN NHIÊN – GIÁC SÁNG.

 

Để giúp cho công phu được cân bằng, khế hợp trung đạo, không rơi vào các cực đoan, mang lại kết quả tốt, khi công phu tu tập, chúng ta có thể kiểm tra qua ba điểm.

 

1/ BUÔNG XUỐNG: Buông bỏ là nói bao quát chung cho tất cả. Buông xuống, rũ xuống là quý Thầy muốn nhấn mạnh đến chỗ dụng công tu tập. Buông mà vẫn không động. Không phải có động tác hay khởi tâm buông xuống, không rơi vào tạo tác sanh diệt. Buông làm sao giống như là một sự rũ thả xuống một cách tự nhiên, tất cả tự rơi rụng mà không có tác ý hoặc tâm khởi thấy có buông. Buông cảnh duyên, tình huống, sự kiện... buông tất cả mọi thứ đang đối diện. Kế đến buông cả thân, tâm; buông hết mọi sự cảm nhận của thân tâm... Buông rũ xuống tất cả để mất hút, không còn gì cả.

 

2/ AN NHIÊN: Khi tất cả đều được buông rũ xuống, chúng ta đang thực sự được buông thư, an nhiên, thấy biết rất bình thường.

 

3/ GIÁC SÁNG: Buông thư, an nhiên, nhưng giác sáng; chứ không phải điềm nhiên tỉnh bơ, cứng đờ, không sáng, không linh hoạt, hoặc lơ mơ như đang ngủ.

 

Buông xuống là bước đệm để hỗ trợ công phu. Kế đến, an nhiên – giác sáng là đang sống trong công phu tu tập. Buống xuống để rơi rụng, vỡ vụn, hoát toang và an nhiên. An nhiên thì không động mà không lập thành tướng của định. Giác sáng thì không có tướng sáng mà không một vết mê mờ. An nhiên luôn đi đôi với giác sáng, cả hai phải đồng thời. Thực chất giác sáng và an nhiên chỉ là một thể sáng biết không động. Nếu an nhiên mà thiếu giác sáng sẽ khiến hành giả dễ rơi vào hôn trầm (ngủ trong mê mờ) hoặc vô ký. Nếu giác sáng mà thiếu sự an nhiên thì trong đầu cảm thấy hơi căng, nếu nặng hơn sẽ bị mất ngủ. Nhận biết triệu chứng để khéo léo kịp thời điều chỉnh cân bằng trong công phu. Khi tất cả đã hiện tiền đúng rồi thì liền đó sống thẳng, đừng sanh tâm gì nữa.

 

Ví dụ khi tọa thiền, trước tiên chúng ta chỉnh thân cho thật ngay ngắn, đúng pháp. Kiểm tra lại xem thân tâm mình chỗ nào chưa ổn thì chỉnh lại cho thật ổn định, dứt khoát, tự tin. Kế đến bắt đầu buông thân, tâm, hơi thở, các cảm giác... Gân, cơ... đều buông thư cho thật nhẹ nhàng, không bị gượng hoặc gồng. Ngứa, đau hoặc những nghĩ ngợi đến thân này đều buông nhẹ, không thèm để ý. Khi nhận thấy tất cả đã được thông suốt hết rồi thì không cần để ý đến hơi thở nữa, để nó tự lưu thông; không nín, không cố làm gì đó. Những tư tưởng còn lảng vảng thì phải dứt khoát buông hẳn xuống. Kiểm tra tất cả đã được buông thư, rũ xuống, được ổn định rồi thì khéo không luôn tất cả những gợn tý, những khái niệm buông trong tâm... Sau cùng khéo léo buông thư nhẹ xuống mà không có tí nào máy động trong tâm, thân tâm sẽ nhẹ nhàng, thông suốt, sáng biết một cách tự nhiên, bình thường, không khởi tâm tác ý phân biệt. Sống ngay thể tự an như thế sẽ được an nhiên, nhưng sáng rỡ rõ ràng. Khéo dụng công như thế quý vị sẽ tự mình nhận ra những tín hiệu tốt sau đó.

 

17.VÔ SỞ ĐẮC

 

Đây là cách ứng dụng công phu tu tập nhẹ nhàng và hay, nhưng có người vẫn cho là khó nhận. Bởi con người ta thường thích có một chỗ để bám đuổi, nhận lấy và nương tựa. Nhưng còn có một chỗ để nhận, tức là còn có sở đắc thì rõ ràng là còn có đối tượng bị nhận và mình là người hay nhận; là đã rơi vào hai bên, còn trong sanh diệt, chưa phải là đạo lý rốt ráo chân thật. Chỗ nhận được ấy dù có siêu tột đến đâu thì cũng còn là đối tượng bên ngoài được mình nhận biết. Kinh Pháp Hoa nói đây là mới đến Hóa thành giữa đường, chưa đến Bảo sở rốt ráo. Cho nên, nếu thích có chỗ để tâm nương về dụng công cho dễ, muốn có một sự chứng đắc gì đó để khuyến khích mình tu..., thì đó là muốn ăn mì gói dở tệ (mì ăn liền) mà không biết thưởng thức món thượng vị tuyệt hảo. Thật đáng tiếc!

 

Khéo buông xuống sạch, mất hút các tướng là cảnh, là tâm. Không có sở đắc, mất hút, không còn một chỗ cho tình thức bám víu, tựa nương thì cái chân thật sẵn đủ tự hiển hiện, mới đạt đến rốt ráo. Bởi nếu còn có một chỗ để nhận là nhận cái gì đó bên ngoài rồi, không phải là chính mình. Nhưng cái thể tánh chân thật ấy là nơi mình, là chính mình thì chỉ khéo thầm thể hội thôi chứ không thể có một cái, một chỗ để nhận lấy được.

 

Thiền sư Nam Tuyền nói: “Ba đời chư Phật không tri hữu. Trâu trắng mèo hoang có tri hữu”. Tri hữu là biết có Phật tánh. Chư Phật ba đời không tri hữu, bởi vì toàn “tri” là “hữu”, không còn có “hữu” nào để “tri” nữa. Tức là toàn biết là Phật biết; còn có tánh Phật nào bên ngoài nữa để hướng về, biết theo? Trâu trắng mèo hoang cũng có Phật tánh, nhưng tạm thời bị che khuất cho nên cần tri hữu để hướng về, mới có ngày nhận lại.

 

Nếu bảo tu là có chứng đắc thì đắc cái gì? Nếu thấy có chỗ để chứng đắc thì có người đang đắc, tức là đã có sở có năng, rơi vào hai bên sanh diệt. Cho nên, còn thấy có chỗ chứng đắc là còn rơi vào sanh diệt, vẫn còn chỗ xen hở cho thức thần phát sinh. Dù sở chứng kia là không động, nhưng nếu thức thần chưa dứt hẳn thì vẫn còn cơ hội để vọng động trở lại và rơi vào sanh diệt, đưa đến sanh tử, phiền não, khổ đau.

 

Khi thái tử Sĩ-đạt-ta học đạo với tiên nhơn cuối cùng là Uất-đầu-lam-phất, ngài chứng được tầng định cuối cùng mà vị tiên nhơn này đã đạt được, cũng là tầng định cao nhất ở Ấn Độ lúc bấy giờ, đó là phi tưởng, phi phi tưởng xứ. Thái tử hỏi: “Định này là có ngã hay không ngã? Nếu nói là không ngã thì không thể nói phi tưởng, phi phi tưởng xứ. (Nghĩa là không phải có tưởng mà cũng không phải là không có tưởng, tức là vẫn còn ngã tưởng vi tế. Nếu không phải là vô ngã thì có ngã). Nếu bảo có ngã thì ngã này là hữu tri hay vô tri?, (tức là có biết hay không có biết)? Nếu ngã là không biết thì đồng với cây đá. (Nhưng thực tế con người thì đụng đến liền biết, không thể là cây đá được). Mà nếu ngã là có biết là có phan duyên. (Vì có biết, tức là biết về một cái gì đó, là còn phan duyên). Mà còn phan duyên là còn sanh tử, (Chưa thoát khỏi sanh tử). Vị tiên nhơn này không đáp được, Thái tử từ giã ra đi.

 

Đợi có cảnh, có đối tượng mới biết đó là biết theo cảnh. Biết một cái gì đó mà biết về nó, biết theo cảnh là đã quên mất chính mình, là phan duyên, là vin theo cảnh bên ngoài, còn có chỗ cho tình thức sanh khởi lại, chưa thoát khỏi sanh tử.

 

Vẫn biết, nhưng không biết theo, không biết về một cái gì đó bên ngoài mà đang tự mình là sáng biết, không động. Tâm lặng mà sáng biết này, khi có vật cũng đang rõ ràng sáng biết mà không phải biết về sự vật. Khi không vật cũng vẫn là một tánh sáng biết trùm khắp đó, không đổi, không động. Mới hay ra, không nhất thiết phải phan duyên phân biệt mới thấy biết; và không phải ai thấy biết cũng phan duyên phân biệt. Lúc này, không phân biệt thấy có người biết và cảnh bị biết, mà chỉ là một thể tự sáng biết, mỗi mỗi rõ ràng mà không cần phân biệt, không động. Hai bên đã không lập thì nào có cái gì để phan duyên cái gì? Vì vậy, đây cũng là biết, vẫn thấy biết rành rẽ rõ ràng nhưng không động, không phan duyên. Khi sống bằng tánh thấy biết vượt cả căn cảnh, có không hai bên; không có chỗ phan duyên, không còn chỗ cho thức sanh thì bản tánh chân thật hiện tiền, sanh tử từ đâu mà có? Vì thế, đây là cái biết của giác tánh vô sanh, là cái thấy biết vượt trên sinh tử.

 

Ví như khi nhìn thấy cái ly thì cái ly này không phải là con mắt. Con mắt là cái hay thấy, còn cái ly là vật bên ngoài, bị thấy. Cái ly không phải là con mắt của mình. Cũng vậy, khi dụng công tu tập mà thấy ánh sáng, thấy có sở đắc gì đó, thì những thứ đó là cái bị tâm mình thấy, nó đã biến thành cái bị thấy ở ngoài tâm, nó không phải là TÂM CHÂN THẬT nơi chính mỗi người.

 

Kế nữa, vật được mọi người quý nhất trên đời là vàng, ngọc, kim, cương... Nhưng thử xay nhuyễn những thứ quý báu ấy cho mịn rồi đem bỏ vào trong con mắt thì sẽ bị xốn, bị đau, không chịu được. Con mắt không phải là quý hay tiện, nhưng nó phải là một sự thanh khiết trong ngần của chính nó. Nó không chấp nhận bất kỳ một vật gì bên ngoài dù đó là quý báu hay tầm thường. Tâm thể nơi mỗi chúng ta cũng vậy. Vốn nó xưa nay không một vật, là một tự thể sẵn tịnh sáng biết trùm khắp thênh thang không giới hạn. Nó phải là chính nó. Nếu có một thứ gì đó cho chúng ta thấy được dù đó là hào quang hay là một sự chứng đắc thì cũng chỉ là những thứ tạm bợ bên ngoài, không phải bản tâm.

 

Dù cho là có chỗ thanh tịnh, nhưng còn niệm thầm thầm thấy có một chỗ thanh tịnh để gìn giữ thì vẫn chưa khỏi phan duyên. Dù không động, nhưng chưa rời niệm thầm giữ đó, trong nhà thiền gọi là trong hông ngực vẫn còn một vật ngại, chưa thực sự suốt thông. Nếu công phu đến đây rồi thì hành giả phải phấn phát tinh thần, tiếp tục dụng công mạnh mẽ thì mới tiến lên, không bệnh. Nếu chấp vào đó cho là cứu cánh thì dễ sanh bệnh, rơi vào tà kiến. Khi dụng công, nếu khéo nhận thẳng tự tánh toàn thể sáng biết thì sẽ tiến thẳng tắt đến chỗ rốt ráo, không đi ngang qua chỗ thanh tịnh tạm thời vi tế đó, vì vậy không rơi vào các ma chướng trong công phu. Rất linh hoạt.

 

Nếu chấp vào sở chứng thì có tâm sinh, đó là có chỗ cho nội ma tự sanh khởi và ngoại ma thấy tâm nên hành giả dễ đi vào đường ma, nguy hiểm. Ngược lại, nếu sống thẳng bằng giác tâm thì không sanh khởi, chỉ sống thẳng bản tánh toàn thể sáng biết ngay đây thì tánh thể hiện tiền. Chính mình hiện tiền, không phải cái gì bên ngoài vào cho nên được đó là không chỗ được, không có sở đắc, do đó không có chỗ cho ma chướng thấy tâm, ngoại ma nhằm vào dấu vết nào để phát khởi? Công phu như thế rất nhẹ nhàng, thảnh thơi, tu mà như là không tu gì cả.

 

Nếu chưa sáng tâm mà tu luyện mong cầu có thần thông huyền bí thì chư vị Tổ sư nói, đó cũng chỉ là yêu thuật của tà ma ngoại đạo. Rõ ràng, tâm thể kim cang chưa đạt được là còn động, còn phiền não, còn sanh tử mà đi lo những thứ bên ngoài thì đâu có giải quyết được gì cho việc lớn sanh tử? Ngược lại còn bị nó mê hoặc khiến bị lầm đường lạc lối. Nhưng nếu đã sáng tột bản tâm và sống miên mật thì những thứ đó không phải là việc cần phải nghĩ đến của người này mà nó vẫn tự sẵn đủ và siêu xuất hơn những người tu luyện bình thường. Cụ thể là thần lực, thần thông của Phật và các Thánh đệ tử của Ngài vượt hơn những ngoại đạo tu luyện thần thông rất nhiều.

 

18.CÓ DẤU VẾT CỦA TÂM, CÓ CHỖ ĐƯỢC THÌ MA CHƯỚNG CÓ CƠ SỞ PHÁT KHỞI.

 

Ví dụ nhiều năm khổ cực, luôn vay nợ hàng xóm nhiều quá không nhớ nổi. Một hôm tình cờ trúng số được 500 triệu, mừng quá và tuyên bố với tất cả mọi người đến nhà để trả nợ. Nợ mắc thì cả mười tỷ, mới trúng có 500 triệu mà tuyên bố trả hết. Mọi người đến đòi mà không có đủ để trả cho họ, người được người không thì chắc chắn sẽ có chuyện không tốt. Đó là bị khảo.

 

Một cách khác là không cần tuyên bố. Khi trúng số, không trốn nợ cũng không tuyên bố trả nợ; cứ bình thường và đầu tư kinh doanh cho có tiền nhiều thêm. Thỉnh thoảng có người đến đòi vài trăm, số tiền quá nhỏ so với tiền mình đang có, do đó tự động trả một cách dễ dàng, bình thường mà không hề thấy nặng nề là đang trả nợ gì cả. Đó là trả mà không trả.

 

Nợ nần nghiệp chướng chồng chất nhiều đời của mỗi người cũng vậy. Khi tuyên bố hay phát nguyện cho tôi trả hết nghiệp rồi tu là có tâm sanh, có dấu vết, có chỗ cho chướng nghiệp thấy và đến đòi tới tấp. Ân oán giang hồ tạo nên nghiệp chướng vay mượn nhiều đời lớp lớp chất chồng làm sao biết hết. Trong khi đó mới tu chút chút, đạo lực chưa có bao nhiêu, như tiền còn quá ít mà đòi trả nợ thì bị khảo, bị chướng duyên ngập tràn, không thể tiếp tục công phu được nữa. Điều này đã có nhiều người từng mắc phải. Đang khỏe mạnh bỗng dưng ham tu cho mau liền tuyên bố, phát nguyện tu quyết liệt cho mau có kết quả. Liền sau đó bị bệnh nằm liệt giường, bác sĩ không thể trị lành được. Nhưng khi được Sư phụ khuyên lên Tam Bảo xin rút lại lời phát nguyện thì hết bệnh ngay, không cần uống thuốc. Mới biết bệnh do nghiệp khảo. Có vị khỏe mạnh nhiều năm. Một hôm bất giác buộc miệng tuyên bố mình có phước nhiều, sợ gì thì liền bị bệnh nặng, nhiều phen phải vào bệnh viện. Có vị đang khỏe mạnh, vào thất ham tu, phát nguyện cho trả hết nghiệp để mau chứng đạo thì liền bị ma chướng, bể thất, không dụng công được. Vị khác cũng đang khỏe mạnh, vào thất phát nguyện tương tự thì tự dưng bị bệnh không tọa thiền được. Đó là những câu chuyện điển hình có thật của hiện nay. Bởi tâm vừa sanh thì liền hiện thành tướng trong tâm, là có chỗ cho ma chướng đòi nợ. Nếu khéo léo chín chắn dụng tâm, dè dặt, đừng sanh tâm thì sẽ tốt. Cứ bình thường. Nghiệp có đến chúng ta cũng đừng thèm khởi nghĩ có một loại nghiệp thật đến để mình phải tiêu trừ. Cứ bình thản, vô tâm như thử phớt lờ thì nghiệp kia tự không dính dáng. Được thế, công phu tu tập sẽ rất nhẹ nhàng, nhưng miên mật. Cho nên, tu hành không phải để trả nghiệp, mà là để giác sáng, sống về bằng bản tâm chân thật chính mình. Vì thế, không nên khởi bất cứ một tâm gì với nghiệp chướng cả. Đạt, chỉ là tự mình khéo thầm nhận lại cái sẵn có nơi chính mình thôi, có phải ai cho cái gì bên ngoài đâu mà phải sanh tâm động niệm. Ở đây quý Thầy không hề có ý gì với tâm phát nguyện đáng quý và cao thượng của quý Phật tử cả. Chỉ là kể lại những câu chuyện thật để cùng nhau tư duy, học lấy kinh nghiệm. Hoặc là học được những điều từ sự vô tình vấp ngã của người khác. Hoặc là tự mình vấp ngã rồi đứng dậy. Theo kinh nghiệm cá nhân trong công phu, không sanh tâm động niệm mà vẫn công phu mãnh liệt thì đạt được kết quả dễ dàng mà không bị các chướng duyên quấy nhiễu, mất thời gian. Cần nhớ rằng, sống thẳng bằng thể tánh vô sanh là đang tu. Chỉ có thế thôi. Còn các tâm khởi khác dù thấy đó là có chứng đắc hay gì đi nữa, cũng đều rơi vào sanh diệt, có chỗ để ma thấy, sẽ bị chướng ngại. Nếu không khéo léo, không đủ phước, không đủ lực sẽ rất dễ bị thua trận, không thể tiếp tục công phu tu tập được nữa.

 

Ngài Trần Thái Tông nói: “Cơ liễu ngộ quỷ thần tìm không thấy”. Người đã được liễu ngộ thì không cần bàn tới, vì chính vị ấy đã biết dụng tâm thế nào. Còn lại là những người còn đang trên đường dụng công tu tập, phải biết dụng thẳng đến “cơ liễu ngộ quỷ thần không thể tìm thấy tâm”. Vừa sanh khởi thấy có nghiệp chướng thật để tiêu trừ và mong sớm tiêu trừ được nghiệp chướng, vậy là đã vụng về, quỷ thần nhìn thấy tâm rồi. Dừng lại! Đừng sanh tâm nữa! Vừa sanh khởi tu cho có kết quả thì quỷ thần sẽ nhìn thấy tâm liền, không phải là cơ để liễu ngộ, sẽ bị chướng ngại và không thể có kết quả tốt. Kể cả thấy mình có chứng đắc cũng vậy. Nghĩa là, đừng sanh tâm có dấu vết cho người khác nhìn thấy là mình đang công phu tu tập thì mọi thứ tự tiêu dung, chứ không phải lập ra một thứ nghiệp báo gì đó cho là thật rồi phải đi tiêu trừ nó. Cứ như thế! Và thi thoảng có chút thử thách đến, chúng ta cứ bình thường, coi như không, không sanh tâm thì mọi chuyện sẽ nhẹ nhàng. Giống như trúng số mà không cần tuyên bố, cứ bình thường, âm thầm làm thêm ra cho nhiều tiền, có ai đòi thì trả từ từ, rất nhẹ. Tương tự, chỉ cứ âm thầm nỗ lực công phu miên mật cho định lực, tuệ lực mạnh lên. Thỉnh thoảng có ai đến đòi nợ, chúng ta sẵn sàng tùy duyên trao cho họ những đồng lẻ, rất nhẹ, không có gì đáng phải sanh tâm, là trả mà không trả gì cả.

 

Vi tế hơn chút nữa. Ví dụ khi vừa nhìn thấy cái ly này, nhỡ lao theo phân biệt đẹp xấu, liền sực tỉnh tự nhắc mình, phải quay lại. Có tâm “phải quay lại” là đã thừa ra một pháp “phải quay lại” đó rồi; tức là đã sanh tướng khác. Giống như con rùa dùng cái đuôi để xóa dấu vết trên bùn lầy, càng xóa càng thêm nhiều dấu hơn nữa. Ngay đó, không cần làm gì hết. Vừa sanh khởi, liền dừng, không sanh. Hết sanh. Thế là vô sanh; là đúng pháp. Thế thôi. Tất cả mọi thứ nhỡ quên, chỉ cần tỉnh, liền xong. Đơn giản! Khi công phu, khéo léo lưu ý ba điều căn bản:

 

1.   KHÔNG THÊM: Ví dụ đang nhìn trời mưa – Vừa quên mất mình – Liền đó không thêm. Ví dụ bất chợt lỡ quên – Không thêm – Ngay đó liền trả lại tánh thể toàn thể sáng biết trùm khắp, không động.

 

2.   KHÔNG TRỤ: Trên các cảnh và sinh hoạt, chúng ta thấy biết thấu suốt qua tất cả, không dừng trụ quan tâm trên bất kỳ cảnh sắc, tình huống hay hoàn cảnh thuận nghịch nào cả. Bên trong khéo mất hút dấu vết, không thấy có một vết sở đắc để trụ và gìn giữ.

 

3.   ĐANG GIÁC, KHÔNG QUÊN: Rõ suốt mình đang giác, không một vết mê mờ, không quên.

 

Hay khéo sạch hết tất cả mà suốt qua tất cả thì toàn thể hiện bày. Không phải như có một tiếng nói thầm thầm luôn nhắc mình trong tâm. Lúc đầu thấy hơi khó, vì không có chỗ bám. Nếu chưa phải là căn cơ lanh lợi, ban đầu nên ứng dụng công phu trong cảnh tịnh cho thật thuần thục, thấy ổn; sau đó mới ứng dụng trên cảnh động thì sẽ thấy dễ hơn.

 

Trong khi phải tiếp xúc với cảnh động thì phải quyết tâm, không nên có tâm chưa thấy giặc đã muốn đầu hàng. Bởi đối diện cuộc đời là đối diện với trận chiến thật, cho ta những kinh nghiệm công phu sống động, chứ không phải trận chiến giả tưởng tượng tự đặt ra. Đừng mong mọi thứ phải như ý mình. Phải nhìn thấy thật rõ Phật pháp chân thật ngay chỗ bất như ý mà ta đang đối diện. Khi qua rồi, chính điều đó sẽ giúp mình linh hoạt, tự tại hơn nhiều so với công phu trong cảnh tịnh, như ý. Trên cảnh yên bình, thanh tịnh để tu, sẽ cần cho chúng ta bồi dưỡng nội lực buổi đầu. Nhưng nếu cố chấp cứ phải ở trong ấy mới tu được thì sẽ không có được hoạt dụng tốt.

 

Không phải chủ động đi tìm hoặc cố tạo ra cảnh nghịch để tu. Vì như thế là đã có sanh tâm, là chiến trận giả, là sai rồi. Điểm chính yếu là chỉ bình thường sáng tịnh, cảnh nghịch hay cảnh thuận gì thình lình đến, chúng ta cứ lắng lại, sáng biết trong tâm không, ngay đó tự nó mất giá trị, không chi phối được. Cần mạnh mẽ, dõng mãnh và khéo léo, tinh tế để vận dụng công phu trên tất cả các hoàn cảnh thì mới có kinh nghiệm thật, mới đạt được diệu dụng linh thông. Chỗ này hơi chuyên nghiệp. Khó. Bởi vừa vụng về một chút là tâm nghĩ suy sanh khởi liền. Tuy nhiên, nếu thấy khó mà không ứng dụng thì sẽ không được gì. Quá lãng phí. Việc này phải chính mình đối diện, công phu rồi thể nhận. Nói không thể hiểu đến. Không ai làm thay mình được. Cứ gan dạ dám công phu thì sẽ có kinh nghiệm thôi. Người khác làm được thì mình cũng làm được.

 

19. DỤNG TÂM TRONG SINH HOẠT HẰNG NGÀY

 

HỎI:

 

Xin Thầy chỉ cho chúng con biết cụ thể hơn cách áp dụng công phu này trong sinh hoạt hằng ngày?

 

ĐÁP:

 

19.1/ Mọi việc do tâm.

 

Hôm nào đó ra chợ hoặc lên công sở làm việc, gặp nhiều chuyện vớ vẩn không đâu khiến cảm thấy bực bội. Suốt ngày làm việc trong căng thẳng tăng dần như thế. Trên đường về thì nóng bức. Đến nhà bước vào với tâm trạng đang bực bội không biết vì đâu… Con cháu đi ngang trước mặt sơ ý buông cánh cửa đóng mạnh, vang ra tiếng kêu hơi to, chúng ta liền quắc mắt, quát mắng, lớn tiếng la rầy, quở trách... Một mặt vẫn biết con cháu vô tội, chỉ là hành động sơ ý nhỏ thôi, không đáng. Mặt khác thì không biết tại sao trong lòng cứ tự sôi máu lên, không tài nào kềm xuống được. Cho thấy, khi nội tâm không an ổn thì con người không có năng lực sống, không làm chủ được mình, đã bị hành động đóng cửa kia ngự trị, chiếm lĩnh và chi phối trọn vẹn, sai sử hành động theo sự sân giận sai lầm không đáng có, khiến cho chúng ta bị thiêu đốt, khổ đau.

 

Ngược lại, hôm khác ra đường gặp nhiều chuyện vui, mọi người đều ôn hòa, thân thiện, gặp khách quý từ xa mới về thăm, tặng quà... Về nhà con cháu chào hỏi ngoan ngoãn lễ phép, đưa khăn mát lau mặt, mời nước uống vừa ý... đang thảnh thơi, yêu đời, thoải mái. Lúc ấy, con cháu có nhỡ vô ý đóng cửa mạnh tay như hôm trước, nhưng chúng ta cảm thấy bình thường, không có gì để tâm. Đây là do nội tâm ổn định, có sức sống thì không bị hành động đóng cửa kia chi phối. Có vẫn như không, đó là biểu hiện của sự an vui, thanh thoát.

 

Hành động đóng cửa là một, nhưng tùy vào tâm thái của mỗi người mà sự diễn tiến sau đó có vui và khổ khác nhau. Hành động đó là ví dụ cho tất cả hoàn cảnh, tình huống trong đời xảy đến với mỗi người hằng ngày. Nếu bằng vào một tâm thái loạn động, bất an thì thứ gì cũng có thể làm cho chúng ta khổ được hết. Ngược lại, bằng vào một tâm thể an ổn, định tĩnh, giác sáng thì mọi thứ tự mất giá trị, không đủ sức chi phối. Nhờ đó, chúng ta cảm thấy bình thường, an vui trên tất cả hoàn cảnh, tình huống dù thuận hay nghịch. Ngay tâm thể an ổn, định tĩnh, giác sáng là giác ngộ. Và các tính chất an lạc, từ bi, giải thoát từ đó có ra.

 

19.2/ Dùng tâm nào để sống

 

Khi đã biết rõ như thế rồi thì hằng ngày khi đối duyên xúc cảnh, điều đáng lưu tâm là chúng ta đang đứng ở vị trí nào để xử lý và làm các công việc, dùng tâm động hay tâm tĩnh, dùng tâm sanh diệt hay vô sanh để làm tất cả việc, để ứng xử mọi tình huống trong cuộc sống. Công việc không có lỗi, vấn đề là mình đứng trên đất bằng để ứng xử hay đứng trên sóng nước mà làm. Nếu ở chỗ vô sanh tuyệt đối mà làm thì sáng suốt, không động, tất cả mọi thứ trở thành diệu dụng. Còn dùng tâm sanh diệt để làm, để ứng xử, thì đó là rơi vào vọng động sanh diệt của chúng sanh. Nhân của vọng động sanh diệt thì đưa đến quả khổ đau của trầm luân.

 

Cụ thể trong cuộc sống, khi tâm không an ổn, rối rắm, rất dễ gặp chuyện phiền não, kể cả chuyện nhỏ nhoi cũng làm cho mình căng thẳng. Như vậy, bằng tâm loạn động mà làm thì mọi thứ sẽ chi phối mình. Đây là bị trói buộc, khổ đau. Ngược lại, cũng cùng một sự kiện đó xảy ra, nhưng chúng ta lặng lẽ, ổn định, sáng suốt, nhẹ nhàng, thanh thản thì tự nhiên nó bình thường, nó không đủ sức chi phối mình, nghĩa là chúng ta đang giải thoát. Như vậy ngay tâm ổn định thì mọi việc vốn dĩ bình thường, ổn định; và chúng ta được giải thoát, an vui.

 

Tỉnh giác, tâm an tịnh tuyệt đối, trí tuệ phát huy đúng mức sẽ trào dâng niềm an vui ngập tràn, sẽ khiến chúng ta thấy mọi thứ vui trên đời không còn sức hấp dẫn, những nghịch duyên trong cuộc sống không còn giá trị chi phối. Lúc này, ngay đây, vốn tự vượt thoát tất cả, không còn bị trói buộc.

 

Khi làm Phật sự (việc Phật), nếu dùng tâm phiền não, vọng động chúng sanh mà làm, dù có thành công 100% thì cũng không phải đúng nghĩa việc Phật. Dù có làm việc của chùa đi nữa mà dùng tâm vọng động chúng sanh để làm thì cũng là việc của chúng sanh mà thôi. Đây là nguyên nhân, nguồn gốc đưa đến kết quả phiền não, khổ đau.

 

Ngược lại, nếu bằng tâm thanh tịnh, định tĩnh, an ổn, dùng tâm vô sanh mà làm, mà góp một ý kiến cho đời... thì dù việc đó là việc của thế gian, nó cũng biến thành việc Phật. Vì dùng tâm Phật để làm cho nên việc gì cũng thành việc Phật. Việc làm đó chính là diệu dụng của bản thể thanh tịnh, sẽ đưa đến thanh thoát, an vui; chứ không giống như vọng động, phiền não của chúng sanh.

 

Cụ thể trong tất cả các sinh hoạt hằng ngày như: Ăn, mặc, ngủ, nghỉ, đi, đứng, nằm, ngồi, buôn bán, lãnh đạo, giảng dạy, thể thao, lao động… Trước khi chuẩn bị, nên tỉnh, nhớ và tự hỏi lại mình rằng, đang bằng tâm nào để làm tất cả những công việc đó? Chỉ cần tâm an tịnh, giác sáng, không sanh khởi thì chuyện gì cũng là chuyện đạo, đâu đâu cũng là Phật pháp, lúc nào cũng là lúc chúng ta đang tu tập.

 

19.3/ Dùng nhân vô sanh mới đạt đến quả vị vô sanh.

 

Tu Phật để trở thành một vị Phật. Phật là quả vị vô sanh. Nhân để trở thành quả của một vị Phật phải là một ông Phật con. Cụ thể, phải sống thẳng đến chỗ vô sanh. Từ nhân vô sanh thì mới đạt thành quả vị vô sanh được. Còn nếu dùng tâm loạn động, tâm sanh diệt mà muốn trở thành quả vị Phật vô sanh là trái ngược với luật nhân quả, không thể thành. Chẳng khác nào nấu cát mà muốn thành cơm, điều đó không có bao giờ.

 

Trong Kinh Kim Cang, đức Phật dạy: “Không nên trụ sắc sanh tâm, không nên trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp sanh tâm. Nên không chỗ trụ mà sanh tâm kia”. Thoáng qua cứ ngỡ ngay sáu căn phải làm gì đó, phải tu như thế nào đó trên sáu trần để đạt đến không chỗ trụ. Ở phương diện còn trong đối trị tạm thời thì hợp lý. Nhưng nếu dụng đến chỗ rốt ráo thì “có làm gì” tức là đã “có tạo tác”, đã rơi vào “có chỗ trụ”, trái với tôn chỉ Phật muốn khai thị rồi. Thực ra, nếu đã có công phu kha khá thì không cần phải dùng pháp đối trị mãi. Khi đối diện với các pháp (sáu trần), chúng ta không phải biết về nó, biết theo nó mà chỉ là đang tự sáng biết, luôn giác sáng thì không có niệm trên tất cả các pháp, thấy suốt qua các pháp mà không dừng trụ trên một pháp nào, ngay đó liền khế hợp “không chỗ trụ” tuyệt đối như Phật chỉ dạy. Khi sống “không chỗ trụ” như thế thì tâm không còn sanh diệt; là tâm vô sanh đang hiện tiền. Thẳng đó mà sống tức là tâm Bồ-đề đang hiện ra đó, mới đúng nghĩa phát tâm Bồ-đề, tâm giác ngộ một cách đích thực. Sống ngay đó là đang tu hành.

 

Nếu vì một điều gì đó mà tu; như là vì sắc, vì thanh, vì hương hay vì ai đó, vì sự thể gì đó mà tu; là đã đều có chỗ trụ. Tu tập như thế không thể đạt đến “vô sở trụ” như Kinh Kim Cang đã dạy. Tôi vì bực điều này nên tôi tu, vì thích điều kia nên tôi tu, vì bất mãn, vì hào hứng quá hay vì hâm mộ điều nọ nên tôi tu... Tất cả những tâm đó đều có một chỗ vì, đồng nghĩa đều có chỗ trụ mà tu hết. Mà có chỗ trụ là có chỗ sanh, và rõ ràng tâm khởi tu đó là tâm sanh diệt. Dùng tâm sanh diệt để tu hành thì làm sao đạt đến quả vị vô sanh được!

 

19.4/ Đang giác là tu

 

Hằng ngày trong công việc, sinh hoạt, trên tất cả mọi cảnh duyên, chúng ta nhớ tỉnh lặng, thấy suốt qua, không dừng trụ trên một hình tướng hay sự thể nào cả. Bên trong không thấy có một tâm chứng lặng lẽ nào cần an trụ nữa. Như thế, ý thức không còn có chỗ để sanh khởi. Ngay đó là đang GIÁC SÁNG, là đang sống thẳng bằng sức sống vô sanh nơi chính mỗi người.

 

Tu tức là GIÁC. GIÁC là sống thẳng đến chỗ vô sanh. Cho nên cần phải nhớ rõ, ĐANG GIÁC TỨC LÀ TU. Đơn giản thế thôi! Ở bất kỳ hoàn cảnh nào, làm bất cứ công việc gì mà đang giác sáng trở lại tức là đang tu tập. Vừa có mống niệm tìm cầu một sở đắc gì đó để dễ thấy rõ là có được thì sở đắc đó đã biến thành đối tượng bị biết, là đã phân hai; là tâm ta đã đi ra và rơi vào sanh diệt; ngay đó đã mất tu rồi. Biết rõ như vậy để mạnh mẽ, dứt khoát, dừng dứt tâm tìm cầu. Không nên tìm kiếm bất kỳ một cái gì bên ngoài hết. Vì tâm chúng sanh luôn có thói quen đi tìm, luôn muốn có được một cái gì đó bên ngoài nên dễ bị rơi vào sanh diệt, rơi vào sở đắc bên ngoài dẫn đến lầm đường lạc lối. Hướng ngoại tìm cầu, đó là tập khí ngấm ngầm lâu đời của chúng sanh. Nó quá sâu dầy cho nên cần phải tỉnh táo, giác sáng rõ ràng mới nhận ra được. Còn lơ mơ là ngựa quen đường cũ. Nó sẽ âm thầm tìm mọi lý lẽ để bào chữa cho là đúng, dẫn dắt xúi mình đi theo tiếng gọi của nó bằng được, đưa vào con đường tìm cầu, rơi vào sanh diệt dẫn đến các sai lạc khó lường.

 

19.5/ Tỉnh lại, liền là giác.

 

Vừa giác sáng trở lại, không động, chính đó là tâm vô sanh đang hiển hiện. Sống thẳng ngay đó là đang tu. Cụ thể, trên các công việc, chúng ta chỉ cần tỉnh sáng lại, lặng lại, đang là toàn thể tự sáng biết, không biết theo, không biết về duyên bên ngoài, ngay đó liền là vô sanh.

 

Như trên đã nói, trên mọi sinh hoạt hằng ngày, giác lại rồi làm, tỉnh lại rồi làm. Lên xe, tỉnh rồi đi. Lên lớp, tỉnh rồi nói. Ra chợ, tỉnh rồi mua đồ. Gặp việc, tỉnh giác rồi làm... Chỉ tốn khoảng nửa giây thôi, nhưng công việc có hiệu quả hơn nhiều và được tất cả.

 

Hoặc là khi uống nước, tỉnh sáng, không động rồi uống. Ăn cơm, tỉnh rồi ăn. Ngủ nghỉ, tỉnh rồi nghỉ. Bước xuống, cũng rõ ràng giác sáng, không động, tỉnh lại rồi đi. Nếu nhỡ quên thì ngay đó liền tỉnh nhớ lại. Tất cả mọi lúc mọi nơi, chúng ta luôn tỉnh tại, giác sáng, không trụ, rõ ràng như thế. Lâu ngày thành thói quen, công phu sẽ thuần thục, “tỉnh lại” không còn là một khởi nghĩ, việc làm, hành động hay bất kỳ một dấu vết sanh khởi gì nữa, sức giác sẽ lớn mạnh. Khi lực GIÁC càng mạnh thì CĂN THỨC càng bị yếu đi. Đến một lúc đủ lớn, không trước không sau, sức giác bất chợt vụt tăng thì thức thần bỗng dưng dứt bặt. Ngay đó chân trời TRÍ GIÁC chân thật hiển hiện trọn vẹn, rõ ràng, nói không thể đến. Tính chất TRÍ GIÁC này vốn tự không động; không giống với cái định do tạo tác, nhờ dụng công mà khiến cho được lắng đọng, làm cho an định.

 

Một giác liền xong, không có cái giác từ từ. Nhưng nếu là người chưa thể một nhảy vào thẳng biển đại giác thì không còn cách nào khác hơn là phải tạm dùng cái giác ban đầu này. Tất nhiên khi chân trời giác ngộ tuyệt đối hiển hiện trọn vẹn rồi thì cái giác trước kia không còn quan trọng nữa. Cũng chẳng phải có cái giác thứ hai nào vào đây thay chỗ. Chỉ là một sự lột xác tuyệt đối, tất cả như được sáng mạnh hơn. Những vị đã đạt đến đây rồi thì tự biết lối sống, không cần bàn nói như trên. Còn lại là những người đang còn trên đường dụng công tu tập, chưa đạt đến giác ngộ tuyệt đối như các Ngài thì phải tạm dùng sức giác tỉnh. Trong lúc này không còn thức ăn nào cao thượng hơn cái giác đó nữa. Khi sức giác đã đủ mạnh thì chính nó vỡ tung, lột xác chuyển thành cái đại giác chứ không phải bỏ cái này để đi tìm cái kia; không phải có một cái giác nào khác vào đây để thay thế. Đó là cách dụng công thẳng tắt đến giác tánh.

 

20.LẬP CHÍ BỀN BỈ, KIÊN TRÌ LÂU DÀI, KHÔNG GIÁN ĐOẠN

 

Vừa quên liền tỉnh lại, tập dần lâu ngày thành thói quen mới có lực. Phải kiên trì, không nên tham lam nôn nóng muốn một ngày một bữa làm được liền. Lúc đầu quên nhiều, sau quên ít, dần dần sẽ thuần thục và có kinh nghiệm. Đừng vội. Thông thường khi tu tập, nhiều vị mong muốn có phương pháp nào dụng công để chứng đắc cho mau, cho khỏe. Nhiều người biết được tâm lý này cho nên quảng bá, đưa ra nhiều phương pháp tu mau chứng đắc, hợp với sở thích của mình. Và kết quả là bị rơi vào con đường sai lệch. Hòa thượng Tôn sư chúng ta dạy: “Người nào tu hành mà muốn chứng đắc cho mau, vài ba tháng là phải chứng đắc liền, thì tôi biết đó là người làm biếng”. Bởi lười biếng tu cho nên muốn chứng đắc cho rồi cho khỏe. Tu hành là gột tẩy phàm tình, hàng phục vọng tâm, giác tỉnh trở lại. Khi sức giác đủ lớn, căn thức dứt bặt, bản tâm chân thật hiện tiền, là ngộ đạo. Tu hành không phải là việc làm tạo tác. Không ai tài nào có một phương pháp nào có thể lột xác cái phàm mê giúp mình cho mau được. Nếu được thì đức Phật đã làm giúp cho tất cả chúng sanh rồi, đâu cần phải tu cho nhọc?

 

Việc tu tập không phải khó, nhưng do thường mắc lỗi một nắng mười mưa, không kiên trì liên tục nên không tiến được. Khi thuận lợi thì lười biếng, nguội lạnh không chịu công phu. Đột nhiên cao hứng hay bị buồn đời gì đó thì vội vàng, nôn nóng, đòi tu chí tử và muốn phải có kết quả liền. Hai trạng thái này đều là đột biến, bất bình thường, không khéo dụng công cho nên không đưa đến kết quả tốt.

 

Khi nguội lạnh thì thiếu sự tỉnh giác, đó là rơi vào vô minh. Nhưng đến khi đùng một cái tu siết, chăm bẵm, đè nén, kềm tâm để mau có kết quả, đó là rơi vào cố chấp. Lơ đễnh thì rơi vào vô minh. Kềm kẹp thì rơi vào cố chấp. Đây là tâm đột biến, mất bình thường, là tâm động. Dùng tâm đột biến bất thường này mà tu thì làm sao đưa đến kết quả tốt được?

 

Cố chấp, gấp rút, đè nén và lơ đễnh, nguội lạnh, buông lung là hai bên, là có chỗ cho thức tình sanh khởi. Ngay đây mà dụng công thì không thể đạt đến chánh trí vô sanh được. Rời hai cực đoan này thì không có chỗ cho tình thức nương vào để sinh khởi. Sống thẳng ngay đó là GIÁC. Giác là đang tu. Mọi lúc mọi nơi, cần luôn khéo cân chỉnh cho thăng bằng hợp với trung đạo. Vừa quên thì GIÁC liền. Vừa thấy hơi nguội lạnh thì phải chấn chỉnh tinh thần, kích hoạt cho tâm phấn chấn liền. Vừa thấy nôn nóng quá thì phải lặng lẽ, lắng xuống, bình tâm lại. Phải giữ cho tâm bình thường và luôn giác sáng thì công phu tự thăng tiến chứ không cần mong cầu. Mong cầu là có tâm, sanh tâm và có cái bên ngoài để mong cầu đạt đến, là trái đạo.

 

Một số phương pháp tu khác thấy có chỗ cho tâm bám, chúng ta thấy dễ thực hành và thích, vì sẽ thấy có kết quả cho mình thấy được liền trước mắt, tất nhiên là như vậy. Nhưng với Thiền tông chánh thống, nếu còn có một vật bên ngoài để cảm nhận được thì nó đã trở thành đối tượng bị biết, bị thấy, bị cảm nhận, cho nên chưa phải là chỗ chân thật rốt ráo tánh tịnh niết bàn nơi chính mỗi người. Đức Phật nói, nếu có một pháp vượt hơn niết bàn này, Như Lai nói đó là huyễn hóa, không thật. Đến chỗ trở về với tánh tịnh bình đẳng tuyệt đối rồi mà Ngài Tuệ Trung Thượng Sĩ còn nói: “Trong nhà Phật pháp mời không ở, Đêm về như trước ngủ hoa lau”. Tức là không dừng trụ trong đó mà phải quên đi sở chứng, trở lại trong đời sống bình thường mà giác tánh vẫn không thiếu vắng. Đây là chỗ Tổ Bá Trượng nói, đập gương vụn đúc thành tượng rồi, nhưng tánh soi sáng luôn rạng ngời, không một vết mê mờ. Sơ Tổ Trúc Lâm nói: “Giác tánh quang quang, Dầu lòng dong thả”. Đạt đến đó mới có phần tự do tự tại. Nếu ai còn chấp trong chỗ chứng đắc thì vẫn còn kẹt ở đầu sào trăm trượng, vẫn kẹt trong nước chết không chứa được rồng, vẫn còn bị các Thiền sư quở. Đã thấu suốt như vậy rồi thì đối với “những tâm chứng có chỗ được” kia chỉ là những món tầm thường, có cho cũng không biết đặt vào đâu. Bởi tâm thể nơi mỗi người chưa từng thiếu vắng, mang thứ bên ngoài vào không phải là châu báu thật trong nhà. Phải dám mạnh dạn thấu suốt như vậy mới không bị người khác lừa gạt để phải lầm đường lạc lối.

 

Cách ứng dụng công phu này chỉ là nhận lại bản tâm sẵn nơi mình thôi, đâu phải đi tìm một cái gì xa xôi đâu mà khó. Cái khó là ở chỗ tập khí của chúng ta thường hay quên, hay bất giác. Nếu không nóng vội muốn được liền, mà kiên trì bền bỉ thì sẽ thực hành được, không khó. Cần biết rằng, từ xưa đến giờ, đã lâu lắm rồi, chúng ta đã bỏ ra quá nhiều thời gian cho những việc bất giác. Bây giờ muốn giác thì cũng cần phải có thời gian ít nhất là gần tương ứng như thế để nuôi lớn cái giác thì mới hợp lý. Do thường thiếu sự tĩnh lặng do đó làm gì cũng hay nôn nao, nóng vội, muốn có kết quả thật nhanh, đạt được liền. Cộng thêm vào đó cái tật lười biếng, thiếu kiên nhẫn nên dễ nản lòng và thấy tu hành gì mà khó quá. Ngược lại, nếu biết an tĩnh, không nôn nóng, đừng mong mỏi đặt ra thời gian cố định lúc nào phải chứng đắc mà nên biết rằng, phải dụng công chín chắn thẳng đến chỗ vô sanh, khế hợp tánh thể. Đã nhìn đúng hướng, chỉ còn việc đi. Có đi thì có đến, có tu chắc chắn sẽ đạt đến được. Nhìn nhận kỹ lưỡng thông suốt như thế công phu sẽ không sanh bệnh, sẽ đạt được hiệu quả tốt. Giống như leo núi, nếu nôn nóng thì rất dễ mệt mỏi rồi bỏ cuộc giữa đường. Còn bình thản, bền bỉ đều đặn, không nhanh cũng không chậm thì chắc chắn sẽ lên được đỉnh núi một cách nhẹ nhàng.

 

Hòa thượng Ân sư dạy, sự tu tập phải đủ ba đức tính:

 

1.   Thiết tha: Dụng công tu tập một cách thiết tha, như đói được ăn, khát được uống. Rất hoan hỷ, phấn chấn và thích thú trong sự tu tập.

 

2.   Quả cảm: Dám làm, người khác làm được thì mình cũng làm được. Không yếu đuối rồi làm nhẹ nhẹ cho có hoặc thối lui.

 

3.   Trường viễn: Phải lập chí bền bỉ, lâu dài chứ không phải ngày một ngày hai. Không phải khi thì nguội lạnh giải đãi, khi thì nôn nóng muốn chứng đắc liền, như thế sẽ rơi vào bệnh trong công phu.


 

CHƯƠNG 2: THƯA HỎI THÊM

 

 

 

Câu hỏi 1:

 

Khi ngồi thiền, có cần phải sổ tức, tùy tức không thưa Thầy?

 

Đáp:

 

Khi đề cập đến phương pháp sổ tức (đếm hơi thở) và tùy tức, quý vị nên nhớ là hai phương pháp này chỉ áp dụng cho lúc ngồi thiền (trong an tĩnh), chứ không ứng dụng trên các sinh hoạt khác có tính chất chuyển động, vận hành.

 

Khi đã sẵn sàng để thực tập ngồi thiền, ban đầu hành giả cần phải sổ tức. Thời gian sau thuần thục rồi đến tùy tức, sau đó tri vọng, biết là chơn tâm... Cá nhân quý Thầy kinh nghiệm, sổ tức là một phương pháp căn bản rất cần thiết cho một người bắt đầu tập ngồi thiền. Nếu muốn vượt bậc, ban đầu bỏ qua mà không thực hành kỹ bước này thì về sau sẽ sanh các chứng hơi thở tự hổn hển, cơ thể không thông và tự máy động nhúc nhích không giữ yên được, tâm loạn lên khiến hành giả mệt mỏi, chán chường, có cảm giác hối thúc xả thiền, không muốn tiếp tục ngồi nữa. Có người còn bị nóng chỗ này, lạnh chỗ kia, tức chỗ nọ... Muốn điều trị thì cũng phải đếm hơi thở lại cho thông, nhưng lúc này sẽ gặp khó khăn hơn rất nhiều so với người thực hành kỹ lưỡng có căn bản ngay từ buổi đầu. Cho thấy, sổ tức và tùy tức rất quan trọng cho một hành giả sơ cơ mới thực tập tọa thiền.

 

Bởi khi mới thực tập tọa thiền, cơ thể, tâm niệm, hơi thở đều còn thô phù. Khi tọa thiền đúng phương pháp, tất cả sẽ bắt đầu tự nó chuyển hóa từ thô sang tế. Có một số người thô trược mạnh quá thì khi mới thực tập ngồi thiền có thể có triệu chứng mắc ói một thời gian ngắn rồi sau mới hết. Vì vậy phương pháp sổ tức rất cần cho người sơ cơ. Khi tọa thiền, chỉ đếm hơi thở bình thường chứ không hề dùng thủ thuật, phương pháp, hay cách vận khí điều chỉnh gì đó để có ý cố chuyển từ trược trở về thanh, từ thô trở về tế. Chỉ thực tập tọa thiền và dụng tâm đúng pháp như Hòa thượng Tôn sư đã hướng dẫn, còn lại tất cả chỉ là một nguyên lý tự nó biến chuyển thôi. Những pháp thiền vận dụng về việc điều chỉnh, vận khí... đều không phải là thiền của Đạo Phật, dễ sanh bệnh hoạn.

 

Hơn nữa, lâu nay chưa quen công phu, bây giờ mới bắt đầu cho nên khi ngồi lại thì vọng niệm cứ cuộn trào mãnh liệt, cũng là chuyện thường. Nếu ngồi đó mà kềm vọng tưởng thì càng sai pháp, không đưa đến kết quả tốt, có khi còn phát sinh nhiều triệu chứng ngoài mong muốn. Thực hành phương pháp đếm hơi thở sẽ giúp giảm bớt đi sự chi phối của vọng tưởng. Sau một thời gian công phu tương đối thuần thục, không lộn số đếm, cơ thể và hơi thở thông từ từ, thân tâm cảm thấy nhẹ và hoan hỷ; đó là bắt đầu có được chút ít vốn liếng nội lực. Nhờ vậy nên vọng tưởng tự thưa dần. Và đó là nền tảng căn bản giúp chúng ta bước sang các nấc thang thực tập tiếp theo có kết quả tốt. Xe muốn chạy, trước tiên phải đề-pa cho có trớn rồi mới chạy nhanh dần. Cơ thể và hơi thở mỗi người cũng đang hoạt động như một động cơ ô tô vậy, nếu vận dụng đúng nguyên lý thì xe chạy sẽ tốt.

 

* Tóm lại: Pháp đếm hơi thở rất căn bản và hay vô cùng. Khi tu tập pháp này cần tránh hai cực đoan: Vượt bậc, bỏ qua nhanh và bám chấp vào sở đắc.

 

* Vượt bậc, bỏ qua nhanh: Đừng vội cho pháp đến hơi thở là thấp nhỏ rồi xem thường và bỏ qua thì sẽ ảnh hưởng công phu về sau. Có nhiều vị muốn vượt bậc bỏ qua, sau này bị chướng ngại rồi cũng phải quay lại dùng sổ tức để điều trị. Nhưng ban đầu thực hành cho thật kỹ và căn bản sẽ giúp chúng ta dụng công suôn sẻ và tốt vô cùng. Còn đợi đến khi bệnh mới quay lại điều trị thì sẽ khó khăn và vất vả hơn nhiều, chưa nói đến các phản ứng phụ không mong muốn.

 

* Chấp vào sở đắc: Có nhiều vị thực hành thành công pháp này đã đưa đến trạng thái mất thân, mất tâm, rỗng rang, thanh tịnh tuyệt đối. Thấy không còn thở nữa mà tự suốt thông, lạ lắm. Khi xả thiền ra ngoài đi đứng nói năng chạy nhảy gì cũng không động. Thích lắm! Đặc biệt lúc này chỉ trình cho vị thầy để được chỉ dạy thì sẽ tiến thêm rất nhanh. Còn đi kể cho người khác nghe thì dễ bị mất. Nếu không biết cầu tiến vươn lên thì dễ bị say đắm trong chỗ thanh tịnh đó, được ít cho là đủ, sẽ không vượt qua được chỗ tạm thời, dễ sanh bệnh. Cụ thể đến chỗ này hơi thở ngưng bặt nhưng lại suốt thông hơn cả hít thở bình thường. Ít ăn, không ngủ. Nếu có ngủ cũng vẫn sáng quắc, lặng trong như là đang thức, nhưng lại rất an như là ngủ sâu. Thức dậy như là mới chớp mắt, không có thời gian trôi trong đó. Thích tọa thiền nhiều. Khi ngồi thiền cảm nhận tất cả đều mất hút, suốt thông, thênh thang, nhưng sâu thẳm và an lạc đến diệu kỳ. Nếu không gặp vị Thầy sáng đạo có kinh nghiệm để chỉ dẫn, hành giả sẽ bám chấp vào đó và sống theo, không biết điều hòa sinh hoạt ăn uống, ngủ nghỉ; không khéo dụng tâm... Lâu ngày thân không theo kịp tâm; tâm thì dụng công chưa đúng; chỗ đạt được chỉ là “cái định của buổi đầu”, chưa đủ trí tuệ để biết dụng tâm, bắt đầu sanh bệnh và không thể tiếp tục công phu được nữa. Mới thấy, chấp chặt trong đó cho là đã chứng đắc sẽ bị ngăn ngại, không thể tiến thêm; có khi còn rơi vào tà kiến, bởi lúc này trí tuệ vô lậu chưa phát khởi. Ngược lại, nếu không chấp cho là đã chứng đắc, biết cầu tiến vươn lên thì tất cả đều tốt. Những điều vừa đạt đó là nền tảng rất căn bản để tiến đạo, công phu sau đó được nhẹ nhàng và tiến bộ rất nhanh. Khi đạt đến đây, hành giả không phải dẹp trừ hay giữ lấy gì cả. Chỉ là đừng mong cầu níu giữ nó lại, không chấp có sở chứng, quên đi sự thầm thầm chấp giữ bên trong; tiếp tục công phu, luôn GIÁC SÁNG mạnh lên, nó tự sâu lắng. Từ đó sẽ có những bước tiến đột phá, đặc biệt.

 

Câu hỏi 2:

 

Khi bắt đầu ngồi thiền, con sổ tức. Khi thấy người nhẹ nhẹ, tâm an thì con thả ra. Nhưng con thấy vọng tưởng có những lúc nó chỉ là những niệm suy nghĩ đơn thuần, đến và đi. Cũng có khi nó như một đoạn phim lộn xộn, không có ý nghĩa nhưng mang theo hình ảnh. Có lúc con đang mở mắt đàng hoàng mà những hình ảnh này hiện lên. Vậy thưa Thầy có phải là con bị rơi vào vô ký không?

 

Đáp:

 

Đó là một dạng của vọng tưởng. Dạng thức này không còn có niệm cho hành giả thấy nữa mà là một dải như phim. Đến một lúc nó sẽ không còn là những đoạn phim lộn xộn có hình ảnh cho hành giả thấy, mà tự nhiên nơi thân thể có một cảm giác gì đó bất thường, gần giống như cảm giác nghe một bài thơ, nhắc lại một ký ức xa xưa khiến cho lòng người tê tái vậy. Vi tế lắm. Nhưng tất cả chỉ là sự biến tướng của tâm, là vọng tưởng, không thật. Trên tất cả mọi dạng thức đó, chỉ cần đừng quan tâm trên nó, đừng thèm để ý theo nó mà chỉ là đang tự sáng biết, đang GIÁC SÁNG, KHÔNG MÊ MỜ LÀ ĐANG TU, thế thôi, đừng khởi hay lập thêm gì cả. Công phu đến chỗ không tu như thế, sau đó sẽ thấy rõ kết quả tốt bất ngờ. Nếu cố làm gì thêm, đều không thể vượt qua được.

 

Nếu thấy vọng tưởng khởi lên giống như đoạn phim lộn xộn, có nghĩa là lúc đó hành giả đang mê mờ, không rõ ràng, cái giác biết không mạnh, cho nên niệm này tiếp nối niệm kia thoải mái dệt thành một dạng vọng tưởng như thế. Còn vô ký là không biết gì hết, ngồi hai tiếng đồng hồ rất yên như mới ngồi xuống chốc lát, cho đến khi nghe chuông báo xả thiền thì mới nhận ra suốt thời thiền không hay biết gì, coi như khoảng ấy đã bị chết.

 

Câu hỏi 3:

 

Vậy cách đối trị trong trường hợp này là như thế nào thưa Thầy?

 

Đáp:  

 

Trấn tỉnh cho mạnh mẽ. Chỉnh thân ngồi thẳng lên, kế đến kiểm tra hơi thở cho thông, buông thư cơ thể một cách bình thường, cơ xương không bị gồng. Nếu cảm thấy trì trệ thì hít vào thật sâu và thở sạch ra ba lần, sau đó sổ tức bình thường, thấy an thì nhè nhẹ buông xuống, không để ý hơi thở nữa. Vừa chấn chỉnh lại, an mà sáng thì những chướng ngại trên sẽ không còn. Một thời gian sau tâm mạnh rồi thì tự hết.

 

Câu hỏi 4:

 

Câu biết vọng không theo, thì cái không theo đó chỉ là một cách nói để mình dễ hiểu hơn thôi, phải không Thầy. Vì mình biết chỉ biết thôi. Còn khi mình suy nghĩ về phía trước là đã theo vọng thì chúng ta phải dừng lại, không theo nữa phải không Thầy?

 

Đáp:

 

Quý vị đã từng nghe Hòa thượng Ân Sư dạy: “Biết vọng không theo”, nghĩa là khi tọa thiền, chúng ta thấy có niệm tưởng nào khởi lên, thấy rõ và biết nó là vọng tưởng, không thật, không theo nó. Vậy là cứ ngồi yên lặng, nếu có vọng khởi thì đừng theo chứ không phải thêm chữ “không theo” trên cái vọng đó. Một khi đã biết rõ, thấu suốt niệm tưởng cho đến muôn sự muôn vật là huyễn hóa rồi thì hằng thấy như thế, như là đã mặc định xong rồi. Khi công phu thấy vọng tưởng khởi lên, lúc này chúng ta đã được suốt tột, trước đã biết rõ và mặc nhiên nó là thứ hư huyễn rồi, cho nên không cần khởi thêm niệm biết nó là vọng tưởng nữa. Chỉ rõ suốt mình đang “không mê” nghĩa là đang “sáng biết”, vậy thôi. Không theo vọng tưởng, cũng không dẹp trừ vọng niệm; không khởi tâm để mặc kệ, không can thiệp bất cứ gì trên vọng tưởng hay vì vọng tưởng mà làm thêm gì cả. Khi không vọng đã sẵn sáng biết như thế. Khi vọng khởi cũng chỉ một tánh sáng biết thế thôi, không thay đổi. Khéo léo dụng công như thế sẽ đắc lực. Tu tập một thời gian, Hòa thượng thấy các đệ tử thuần thục hơn cho nên chỉ thêm một bước nữa: BIẾT LÀ CHÂN TÂM. Tức là như ở trên quý Thầy đã nói, mình đang tự sáng biết hay là đang biết về vọng tưởng? Nếu biết về nó thì không phải là chân tâm. Còn đang tự sáng biết thì chân tâm đang hiện tiền. Đơn giản vậy thôi. Tóm lại có hai trạng thái:

 

1.   Khi thấy vọng tưởng khởi, nếu chúng ta biết về cái vọng tưởng đó, đó là biết theo đuôi của vọng tưởng, là phan duyên, là rơi vào sanh diệt và không thắng được vọng. Cụ thể bình thường vọng tưởng hơi ít thì còn biết như thế được. Nhưng khi nhập thất tu miên mật hơn, vọng tưởng sẽ kéo về nhiều quá mà biết vọng theo cách này sẽ bất lực, choáng ngợp, không biết nổi nữa; và có khi còn bị cảm giác sợ ngược trở lại vọng tưởng của mình.

 

2.   Ngược lại, nếu chúng ta đang tự sáng biết chứ không phải biết về vọng tưởng, không phải biết theo vọng tưởng. Biết chỉ là biết, tánh ấy vốn luôn sẵn sáng biết như thế. Có vọng hay không vọng, vẫn chỉ là một thể biết không động, không đổi khác. Cái biết này không phan duyên, không rơi vào vọng động sanh diệt. Đây chính là chỗ Hòa thượng chỉ dạy: BIẾT LÀ CHÂN TÂM.

 

Câu hỏi 5:

 

Con có nghe nói về khoảng giữa của hai niệm là vắng lặng, không sanh. Khi niệm trước vừa diệt, niệm sau chưa sanh, khéo sống thẳng ngay đó thì sẽ sống được với chân tâm của mình. Xin Thầy chỉ dạy cho chúng con rõ hơn về công phu này?

 

Đáp:

 

Bản tánh của tất cả chúng sanh xưa nay vẫn vậy, vốn tự sẵn đủ như thế. Nhưng do thoạt bất giác cho nên bị mê mờ, vọng niệm sanh khởi. Từ đó, bị vô minh mê mờ và các tướng của vọng tưởng che đậy, tâm tánh chân thật không phát huy được. Bị che, không phát huy có nghĩa là không mất; là đang sẵn đó nhưng tạm thời bị che khuất thôi. Như mặt trời luôn có, nhưng khi bị mây dầy che phủ thì không thấy. Tất cả chúng sanh hằng ngày đang sống trên bản tánh đó, nhưng do lao ra nhận lấy ngoại duyên cho nên đã bỏ sót nó. Vì vậy không sáng, bị mê, loạn động, chịu các khổ đau.

 

Như vậy, chúng sanh bị vọng niệm, nhưng bản tâm ấy vẫn không mất. Những niệm tưởng sanh diệt, diệt sanh cũng không ra ngoài bản tâm chân thật ấy, chỉ là chúng ta bỏ sót tâm tánh chân thật mà thôi. Niệm này nối tiếp niệm kia, có nghĩa là giữa chúng phải có những khoảng hở nhất định. Trôi là niệm tưởng trôi, khoảng hở giữa các niệm hẳn là không trôi, bất động. Như nước vẫn chảy, mây vẫn bay, mọi thứ vẫn đang vận hành, nhưng tất cả không ra ngoài hư không. Giữa chúng cũng có những khoảng hở của hư không cho nên mới vận hành được. Hư không của bầu trời và khoảng hở giữa các vật đang vận hành cũng là hư không. Kinh Lăng Nghiêm nói: “Nhọc tự tánh Bồ đề thì sanh phiền não”. Vọng niệm là sự biến tướng của bản tâm. Bản tâm luôn sẵn vậy như hư không kia. Niệm tưởng của chúng sanh nối tiếp nhau, nhưng bản tâm kia vẫn không thiếu vắng, chỉ là trôi trên tự tánh sẵn vậy. Và khoảng giữa các niệm kia vốn tự vắng lặng, vốn là tự tánh nơi mỗi người.

 

Vì thế, khi nói “Khoảng giữa của hai niệm là vắng lặng, không sanh. Khi niệm trước vừa diệt, niệm sau chưa sanh, khéo sống thẳng ngay đó thì sẽ sống được với chân tâm của mình”. Đó là quý Thầy muốn chỉ cho quý vị xoay lại nơi mình để dụng công, để tự cảm nhận và phát hiện ra rằng, khi đang còn vọng tưởng, chân tâm cũng không thiếu vắng, không mất. Là quý Thầy nói rõ, là giới thiệu để quý vị quay về tự cảm nhận, rồi tin chắc mình đang có chân tâm. Còn muốn thể nhận chân tâm, cần phải biết cách hạ thủ công phu tu tập, chứ không phải ngồi canh niệm trước vừa diệt liền nhảy vào để sống, để chặn lại cho niệm sau không có cơ hội sanh ra. Như thế là đã cố làm, là có tạo tác, có khởi tâm, là trái với bản thể của chân tâm thì làm sao thể nhận chân tâm được. Cho nên quý Thầy thường nói, khi niệm vừa lặng, KHÉO AN ngay đó thì công phu sẽ đắc lực. Chữ AN ở đây là khéo sống thẳng chứ không thành một động tác, một động niệm, một hành động; cũng chẳng phải có chỗ yên lặng để an trú vào trong đó. Người KHÉO AN trong trường hợp này là không lập hai bên có mình và có chỗ tâm an; không khởi tâm tác ý như là làm gì đó; mà chính là khi công phu chín muồi, khoảng lặng ấy hiển hiện bình thường như là một sự tự nhiên, lúc này khéo mất hút các tướng của tâm, không khởi tâm tác ý hay thêm bất cứ gì, liền khéo thể nhập, sống thẳng mà không phải tạo tác.

 

Tựu trung vào đạo chỉ có hai đường. Một là ngay đây nhận thẳng, ngộ thẳng. Hai là công phu tu tập dần dần. Người chưa nói đã ngộ thì đã tự biết đường. Với người đang còn trên đường tu tập thì cũng đã được nghe nói: “Ngay khi niệm trước vừa diệt, niệm sau chưa sanh, khoảng ấy vốn tự không động”; liền biết: “Chúng ta không thiếu vắng chân tâm bao giờ”. Tin chắc, xác quyết không bị lay chuyển, quyết chí hạ thủ công phu đúng pháp. Khi thời tiết nhân duyên chín muồi, mọi thứ bất ngờ bùng vỡ, chân tâm hiển hiện rõ ràng. Tự mình thể nhận, sống thẳng, suốt thông tất cả, không còn bị kẹt trên lời.

 

Câu hỏi 6:

 

Lúc con ngồi thiền, vọng tưởng tất nhiên là có. Nhưng có những giây phút con thấy rất tỉnh táo, con biết cái toàn thể như thầy nói. Lúc đó con thấy nó bình thường lắm, cũng không có gì an lạc, cũng không có gì là bực bội, nói chung rất tỉnh. Và khi con khởi niệm là mình biết như vậy thì một lúc nó mất, nó lại chuyển qua thành vọng, xong một lúc nó lại chớp trở lại, tỉnh trở lại và biết như vậy. Con lại khởi niệm là biết này có đúng hay không? Nó mất con lại quay lại hơi thở và đề khởi đếm 1,2,3. Nhưng khi đếm như vậy con rất dễ rơi vào hôn trầm. Tức là đếm đến số 4, 5  gì đó thì nó thành một quán tính mình đếm luôn đến số 10 và mình tự động quay trở lại đếm số 1, nhưng mà nó không có một sự biết trong số đếm đó. Nhưng khi nhớ lại thì số đếm nó vẫn đều mà không bị lộn.

 

Con lại thấy an ổn hơn ở chỗ con biết mặc dầu nó rất ngắn ngủi, nhưng con thấy nó rất tỉnh táo và nó không cần làm gì hết. Con không biết trong trường hợp như vậy nên dụng công như thế nào cho hợp?

 

Đáp:

 

1.   Trong khi buổi đầu tọa thiền còn đếm hơi thở, đếm từ 1 đến 10 một cách máy móc tự động, trở thành một quán tính không lẫn lộn, nhưng không thấy có biết rõ ràng trong số đếm, mà vẫn cảm thấy an ổn, đó là bắt đầu chuẩn bị rơi vào sai lệch. Cái gọi là cảm thấy an ổn ở đây chỉ là trạng thái cảm thấy yên ả chuẩn bị ngủ ngon thôi, chứ không phải đúng nghĩa an ổn trong công phu tu tập. Khi ở vào trạng thái như cái máy tự động đếm hơi thở là lúc thức nghiệp đang mênh mang. Đếm như là việc của cỗ máy, còn cái thức này khiến cho hành giả miên man bất định. Có trường hợp đếm thì tự đếm, mà vọng tưởng cũng đang tự do vọng tưởng. Một vài trường hợp khác thì rơi vào vô ký, lơ mơ hoặc không còn hay biết gì.

 

Vô ký sẽ êm đềm ru ngủ, giết chết con người vào kiếp vô minh mà không hề hay biết. Cái an ổn trong đó là một sự ru ngủ mà vẫn có biết lơ mơ. Tuy tỉnh mà không rõ ràng, nó không ngủ say mà cũng không tỉnh hẳn, ngồi vẫn thẳng mà không bị gật gù... Cái an đó không phải là sự an ổn đúng nghĩa, mà bởi ngồi thiền lâu ngày thấy mệt mỏi, không phấn chấn cho nên tìm rúc vào đó để trốn ngủ ngầm một cách khéo léo, lười biếng trộm an (tỵ lại thâu an) vậy thôi. Vọng tưởng có tướng sanh khởi cho nên dễ phát hiện, dễ hàng phục. Vô ký thì không rõ ràng, vì thế rất khó trị. Vào trong vô ký là tự mình đi đào hầm để vùi lấp chính mình. Khi bị vô ký sẽ thấy thời gian ngồi thiền trôi qua rất nhanh. Vì mơ hồ vô thức cho nên không thấy có gì trong đó để mệt nhọc, cũng không phải là được an lạc đúng nghĩa. Bởi lúc này không khác với người đã chết, mình đang giết mình. Nếu tiếp tục lâu ngày sẽ quen đường quen ổ; hễ bắt chân ngồi thiền là sẽ tự động lạc vào trong đó, rất khó cứu. Có nhiều vị vào trong đó rồi ngồi 2 tiếng đồng hồ mà thấy như mới bắt chân lên. Vì trong khoảng đó không còn biết gì nữa cả cho nên không thấy có thời gian nhanh chậm. Ngồi lặng phắt như cây khô, không nhúc nhích, chỉ có cái đầu hơi chếch nghiêng một tí hoặc người không được ngay thẳng lắm. Trong khoảng thời gian ngồi thiền đó, vị này không hay biết gì hết. Chỉ tự thấy kết quả là mình ngồi thiền được hai tiếng và được yên thân thế thôi. Ngỡ là an, nhưng thực ra là đang rơi vào một trạng thái cực đoan khác. Bị vọng tưởng là chết lửa, rơi vào vô ký này thì chết chìm, chết nước. Trạng thái vô ký chết nước này nó lơ mơ, không rõ ràng nên khó cứu hơn vọng tưởng thô phù như chết lửa. Khi đã bị nặng rồi thì bắt chân lên tọa thiền, liền vào trong ấy, cứ như người đã chết, cho đến khi nghe kẻng xả thiền vang lên thì mới giựt mình, nhận ra. Đây là trạng thái nguy hiểm, không nên tiếp tục tìm sự an ổn theo kiểu đó nữa. Đếm hơi thở là biết rõ ràng, chứ không phải đếm quen rồi tự nó nhớ số đếm và trở thành cái máy tự động đếm, còn mình thì chui vào hang quỷ vô ký để trú ẩn cho yên, rồi tự chôn vùi mình như loài gấu ngủ ngày. Như vậy là tự ru ngủ, là tự giết chết mình từ đời này qua kiếp khác. Rất nguy hiểm!

 

2.   Khi quý vị đang biết, nhưng chưa thấy vui lắm hoặc sức tỉnh giác không được dài là do sức giác biết chưa đủ lớn mạnh và sâu lắng để khinh an và duy trì được sức giác dài hơn. Phải cần có thời gian. Dụng công thẳng đến chỗ sáng biết đó là đúng rồi. Cứ tiếp tục công phu liên tục như vậy, theo thời gian càng lâu, công phu sẽ càng thuần thục, sức giác đủ lớn thì sẽ tự cảm nhận niềm vui rất đặc biệt, rõ ràng.

 

Khi đang lặng biết, an lạc, nếu vừa sanh khởi tâm giữ nó là tâm mình đã sanh khởi. Tâm sanh thì không phải là tánh sáng biết vô sanh cho nên bị mất. Nếu ngay đó chỉ cứ sáng biết bình thường thì tâm không sanh, tâm tánh tự hiện tiền, rõ ràng. Còn vừa sanh tâm xét xem nó như thế nào hay là muốn giữ cho được lâu hơn thì liền bị mất.

 

3.   Có khi đang giác biết được một chút xíu thì lại quên đi, đó là chuyện bình thường. Nên nhớ mình là một trẻ thơ mới chập chững thì phải như vậy thôi. Kể cả khi công phu trong thời gian nhập thất cũng thế. Đã có lúc bất chợt lóe lên sức giác kha khá, nếu chưa phải là đại ngộ, chứng ngộ thì được một thời gian rồi cũng bị tạm qua đi. Bởi vì đã lâu rồi chúng ta quen sống với tâm có, tâm bám víu phan duyên. Hôm nay mới lần đầu tiên bất ngờ rỗng rang vắng bặt, chưa quen nên bị vụng về, không khéo léo nên có khi bị chới với, rồi xét xem nó như thế nào, sau đó là sanh tâm muốn níu giữ, muốn làm sao để kéo dài thời gian an định này được nhiều hơn cho nên bị mất, bị trôi qua đi. Cứ thế tiếp tục công phu, tâm thể ấy sẽ hiển hiện lại nhiều lần và mỗi lần một mạnh hơn, chúng ta quen dần, kinh nghiệm, khéo léo tinh tế, không tác tâm động niệm thêm gì trên đó, sức giác sáng sẽ hiển hiện lâu dài và mạnh hơn. Càng sống như thế công phu sẽ tiến bộ, sẽ phát hiện ra nhiều điều siêu xuất hơn. Rất sâu xa. Càng tiến bộ về sau, mới thấy càng sinh động và đặc biệt hơn trước.

 

Tâm con người rất dễ rơi vào hai bên. Vừa muốn để yên một chút là rơi vào vô ký. Vừa muốn giữ gìn hay dụng công mạnh mẽ một chút là rơi vào sanh diệt, tạo tác liền. Chúng ta còn thơ dại, hoang dại, ngây thơ trong ngôi nhà tâm vô sanh ấy. Bất ngờ thình lình nhận ra nó, mừng quá, sợ mất và cố giữ, liền bị mất. Hoặc có khi vừa muốn nhìn lại xét xem trạng thái vô sanh đó như thế nào thì cái vô sanh ấy đã biến thành một trạng thái, không còn là chính mình và rơi vào sanh diệt loạn động trở lại. Tâm sanh diệt vừa sanh thì cái vô sanh liền mất. Hoặc có khi vừa thâm nhập lại được một chút, liền nghĩ, thôi để yên nó thì nó lại rơi vào vô ký, vô minh... Luôn vụng về thô tháo như vậy và phải nhiều lần tu tập thâm nhập lại như vậy chúng ta mới có kinh nghiệm. Ai cũng vậy thôi, quyết tâm tu thì sẽ được, đừng nản. Phải nhớ, còn là đứa con nít thô tháo, vụng về thì phải nhiều lần bị vuột mất. Nhưng nhiều lần như thế sẽ lớn mạnh, sẽ có kinh nghiệm. Là người đã dụng công tu tập có kinh nghiệm và khá thuần rồi thì sống về thể vô sanh đó rất dễ dàng. Nhưng cũng cần thời gian sống bằng sức sống ấy thuần thục rồi thì thể tánh mới luôn hiện tiền, không mất. Trên tất cả mọi sinh hoạt luôn luôn là chính nó, không thấy có ngôi nhà vô sanh nào ngoài mình để vào nữa. Lúc này hoạt dụng rất linh thông, tự tại. Nếu còn thấy có chỗ vô sanh để giữ gìn thì vẫn còn ngăn ngại, chưa thực sự tự do tự tại. Mới biết, việc này phải kiên trì, phải có thời gian chứ không thể muốn mau một cách đơn giản được.

 

Câu hỏi 7:

 

Vậy thì mình cũng không phải máy móc là sổ tức trước phải không Thầy? Có những lúc con thấy như thế được rồi thì con cứ để cho nó cứ biết như vậy. Con cũng không cần đề khởi?

 

Đáp:

 

Không phải máy móc mà phải biết ứng dụng đúng lúc. Ban đầu mới tập ngồi thiền thì phải sổ tức, tùy tức, biết vọng… Khi qua các bước cơ bản thuần thục rồi thì tùy thời khéo ứng dụng cho tâm được an và sáng là tốt. Có những lúc bắt đầu vào thiền, đếm 1,2,3... rồi buông thư thì toàn thể hiện bày liền. Nhưng có những hôm do trời mưa lạnh, sức khỏe không tốt, thức ăn không phù hợp khiến cơ thể nặng nề, hoặc trước khi tọa thiền mà đọc sách hoặc hành động thô tháo lăng xăng quá... thì khi ngồi thiền sẽ có cảm giác ì ạch, nặng nề, vọng tưởng nhiều quá khó điều phục. Lúc này cũng có thể đếm sổ tức trở lại để tâm được lắng, giúp hàng phục được vọng tưởng... Nếu lúc nào thấy hơi yên, đang đếm 1,2,3 hay 4 gì đó, thấy yên, thình lình không đếm nữa, như là buông xuống thì mọi thứ rỗng thênh, sáng ngời, hoan hỷ, an lạc. Nếu khi quá động và thô phù đến độ khó điều phục thì có thể sổ tức lại. Nói chung, phải khéo léo và hết sức tinh tế để vận dụng trong công phu thì tâm sẽ sáng lặng. Khi bị vọng động quá thì nên lắng lại, sống mạnh bằng sự an tịnh thì sẽ ổn. Nếu cảm thấy lắng lặng quá, dễ rơi vào vô ký, lờ mờ thì nên phấn chấn, trấn tỉnh, dùng cái biết mạnh hơn một chút. Phải khéo cân bằng cho hợp lý. Khi động thì dùng định để chế lại. Khi lặng chìm quá thì trấn tỉnh mạnh lên một chút để giác tỉnh. Còn trên đường dụng công tu tập thì phải khéo léo cân bằng sự yên định và sống động, khéo léo vận dụng công phu như thế sẽ được tiến bộ. Điểm then chốt là phải biết dụng tâm thẳng đến chỗ vô sanh như quý Thầy đã nói ở trên. Khéo điều chỉnh tốt như thế cho đến khi sức giác đủ lớn thì bất chợt tự bừng ra. Lúc này tự thấy biết rõ ràng, không còn phải bàn nói thêm gì trong đó nữa. Rất sống động, sinh động mà vốn tự không động. Vốn sẵn tự tịnh, tự định, muốn động cũng không xong. Có chạy nhảy, múa may, làm tất việc cũng chỉ như thế, không động.

 

Câu hỏi 8:

 

Thưa Thầy, khi ngồi lâu con bị đau, hơi thở dồn dập, tim đập mạnh. Hơi thở không thông suốt như vậy, con cảm thấy ngồi cứ thô phù lại cộng với đau chân nữa. Thế thì nên giải quyết như thế nào?

 

Đáp:

 

Ngồi thiền đau chân có nhiều lý do. Có khi do ăn đồ béo và ngọt nhiều, hoặc do thời tiết thay đổi, sinh hoạt không điều độ đúng cách, hay khi ngồi thiền liên tục cũng sẽ đau hơn thỉnh thoảng ngồi...

 

Khi bắt đầu đau, có thể chịu đựng thêm được 15 phút nữa là bình thường. Nhưng khi quá sức chịu đựng rồi, chúng ta có thể buông chân ra, xoa nhẹ rồi bắt chân lên lại. Khi đang trong 15 phút chịu đau chân, không quan tâm đến cái đau mà chỉ điều chỉnh thân cho thẳng rồi buông thư. Đừng nín thở, đừng gồng lên để chịu đựng. Tất cả, từ hơi thở cho đến mọi thứ kể cả thân và tâm đều phải ổn định, lưu thông, thông suốt thì sẽ tốt. Được vậy, sẽ thấy mình là cái biết đau, còn cơn đau là bị mình biết, ở ngoài mình và nhỏ bé lại, bớt hoành hành; cho đến 5 hoặc 10 phút sau thì xả thiền. Sau thời gian một hoặc hai tuần rồi mới ngồi tăng thêm khoảng 5 phút nữa. Rồi khoảng hai đến ba tuần sau tăng thêm 5 phút nữa. Được như vậy là tăng dần thời gian ngồi có khoa học. Tăng đều như thế và một khi đã tăng thì không để thụt lùi. Theo thời gian sẽ được tiến bộ, sẽ ngồi thiền được lâu mà rất nhẹ nhàng, an ổn. Nếu vừa mới đau liền xả, hoặc là ngồi bữa nhiều bữa ít bất chừng thì không tiến bộ được. Hoặc có người vì ham tu quá, chưa trải qua thời gian tập sự hợp lý, bắt chân lên thì cố ngồi 2 tiếng đồng hồ liền. Ý chí mạnh thì vẫn ngồi được, nhưng hôm sau nghe đến ngồi thiền là ngán, ớn, sợ, không thể ngồi được nữa.

 

Câu hỏi 9:

 

Con cứ ngồi tăng một thời gian, lại bị lùi xuống. Có phải con chưa đủ can đảm, thưa Thầy?

 

Đáp:

 

Trong khi công phu tu tập, tiến trình như hình xoắn ốc. Khi bị lùi xuống là lúc chuẩn bị tăng vọt lên nếu chúng ta cố gắng, không bỏ cuộc. Có khi bị lùi xuống một cách thê thảm, nhưng phải trấn tĩnh, thông suốt, nhẹ nhàng. Khéo điều chỉnh cho thông suốt thì mới vượt qua được gian đoạn khó khăn đó. Kiên trì được thì một thời gian sau sẽ vọt tiến lên lại. Nhớ là khi bị tuột lùi xuống là lúc chuẩn bị tiến mạnh lên nếu hành giả kiên trì, cố gắng.

 

Trong trường hợp đau quá sức chịu đựng thì xả chân, xoa nhẹ rồi bắt chân lên ngồi lại cho hết giờ mới được đứng dậy. Đừng có niệm giãi đãi, lười biếng là được. Còn đang ngồi được 2 giờ mà tuột xuống còn 30 phút rồi xả thiền luôn thì sẽ bị thua trận, tuột lùi luôn, không thể tiến lên được. Nếu thấy không chịu nổi thì chỉ chấp nhận tha thứ cho nó bằng cách xả nhẹ rồi bắt chân lên ngồi lại cho đến khi mãn thời thiền, chứ không phải xả thiền nghỉ luôn, không ngồi tu nữa. Khéo vận dụng như vậy thì không lâu sau sẽ vượt qua được thời điểm khó khăn và tiến mạnh.

 

Câu hỏi 10:

 

Khi ngồi thiền, con không nhắm mắt. Con kinh nghiệm thấy khi nhìn xuống như vậy sẽ có độ tỉnh nhiều hơn. Khi nhắm mắt thì dễ rơi vào hôn trầm. Suốt 1,5 giờ ngồi thiền con mở mắt, khi rơi vào hôn trầm, vọng tưởng nhiều hoặc vô ký, tự động nhắm mắt lại và gật.

 

Đáp:

 

Không cố định là phải mở mắt hay nhắm mắt. Khi ngồi, Sư Ông có dạy chuẩn của mắt là mở 1/3; từ vị trí hai chân chéo nhau, mắt mở nhìn ra khoảng 3 gang tay là vừa. Không phải trụ tâm vào điểm ấy, đó là tầm chuẩn để biết nên mở mắt ngần ấy là vừa phải. Khi nào vọng động hơi nhiều thì có thể nhắm mắt lại. Khi cảm thấy hôn trầm thì mở mắt ra. Buồn ngủ nhiều thì mở lớn hơn, có khi nhìn thẳng để đối trị bệnh buồn ngủ. Đó là phương pháp vận dụng để đối trị trong khi ngồi thiền. Cần biết để khéo léo linh động xử lý sao cho được cân bằng là tốt.

 

Câu hỏi 11:

 

Con xin Thầy chỉ cho con cách trị hôn trầm?

 

Đáp:

 

Có nhiều cách để đối trị hôn trầm. Một là nghe những bài pháp, đọc những lời cảnh tỉnh nói về nỗi khổ lớn trong sinh tử lâu dài. Muốn thoát khỏi thì phải tinh tấn ngồi thiền. Nếu cứ ngủ như thế thì sẽ đi vào trong hang quỷ mê mờ chịu khổ mãi, biết ngày nào ra. Hai là cần rõ biết công năng của tọa thiền sẽ khiến cho tâm được an định, có trí tuệ chiếu phá sanh tử, chỉ có như thế mới dứt hết gốc khổ. Ba là chỉ có đạt được thiền định thì mới có thể giải quyết hết mọi thứ một cách triệt để. Nếu không thì không làm được gì hết. Có khi phải quở trách, rầy la nó: “Sanh tử nhiều kiếp khổ như vậy rồi, bây giờ còn muốn xuống địa ngục nữa hay sao mà còn ngồi đó ngủ nữa!”. Trong trường hợp bị hôn trầm nặng quá thì phải sám hối. Quý Ngài xưa cũng dạy có thể nghĩ đến Bát Nhã Tâm Kinh để quán chiếu và đối trị. Ngoài ra còn có cách mở mắt lớn ra, trấn tĩnh cho mạnh... Khi công phu thuần thục rồi, quý Thầy chỉ cần chỉnh hơi thở cho thông thì cơn buồn ngủ tự nhiên bị tan biến. Thuần thục hơn nữa thì chỉ cần giác sáng là cơn buồn ngủ tự tan biến rất nhẹ, không còn.

 

Có nhiều cách, nhưng ứng dụng làm sao để kích hoạt tinh thần phấn chấn, ham tu, thiết tha với công phu, thích thú tu hành giống như đói được ăn, khát được uống thì không còn buồn ngủ.

 

Câu hỏi 12:

 

Ví dụ khi con ngồi thiền, không quá chú tâm đến một điều gì. Khi có âm thanh đến, nghe rõ âm thanh và cũng có cảm nhận về tư thế đang ngồi, các cảm nhận khác... Con cũng để ý hơi thở vào ra, con biết. Vậy làm thế có đúng không?

 

Đáp:

 

1. CÓ TIẾNG, KHÔNG CÓ TIẾNG

 

Nếu là người mới tập ngồi thiền chưa thuần thục thì như thế là tương đối ổn cho buổi ban sơ. Nhưng công phu một thời gian sau đã thuần thục thì cần lưu ý điểm này để tiến thêm. “Không chú tâm đến một điều gì”, nhưng phải rõ mình đang tự sáng biết, chứ không phải biết theo vọng hay biết về một tiếng gì đó. “Đang giác biết” khác với “biết theo, biết về” một điều gì đó. “Đang có âm thanh đến mình nghe âm thanh”, như vậy kiểm tra lại xem là đang bị nghe theo âm thanh hay chính mình đang tự luôn luôn sẵn tánh nghe biết, tự sáng biết? Nếu khi có tiếng thì mới nghe biết tiếng, đó là biết theo tiếng chứ không phải tự mình đang sáng biết. Nếu tự mình đang biết thì tánh sáng biết ấy luôn luôn hiện hữu. Có tiếng hay không tiếng, vẫn đang sáng biết như thế, không bị thay đổi. Cái biết này không có một mảy may thay đổi hay động niệm phân biệt gì bởi sự xuất hiện hay mất đi của âm thanh bên ngoài cả. Điều này khá tinh tế, sâu kín; cứ vận dụng vào khi tọa thiền rồi sẽ cảm nhận được. Thử kiểm nghiệm lại sẽ thấy. Nếu nói “Có tiếng thì có biết”, vậy lúc này quý vị vẫn đang sáng biết bình thường, vẫn thế, không thay đổi, như là khi tiếng ấy chưa vang vọng? Hay là khi có tiếng mới biết tiếng ấy, là đang biết theo tiếng? Nếu thực sự là đang sáng biết, không biết theo tiếng kia thì không cần có niệm lập thêm là có tiếng hay không có tiếng nữa. Công phu được như thế thì có tiếng hay không tiếng, tánh bày vẫn đang sáng biết, không đổi khác, không động, không sanh tâm, tiếng tiếng đều như thị. Tương tự, khi biết hơi thở hay biết các thứ xúc chạm chung quanh trong lúc tọa thiền cũng vận dụng như thế. Điều này khéo léo thầm nhận thì được. Ban đầu có thể hơi khó vận dụng. Nhưng đã hạ thủ công phu tu tập thì phải để tâm dụng thẳng đến chỗ này mới hy vọng đắc lực. Đây vẫn còn là cách dụng công tu tập thôi chứ chưa phải là chỗ chứng đắc gì ghê gớm, do đó cũng còn nằm trong tầm của người đang công phu tu tập như chúng ta. Dù là hơi khó, nhưng là bài tập ngang tầm của mình thì phải cố gắng thực tập thôi, không thể nhờ ai thay mình làm giúp được.

 

2. NÓI THÊM VỀ SỔ TỨC, ĐẾM HƠI THỞ

 

Việc thứ hai, quý Thầy nói thêm một chút về kinh nghiệm đối với công phu đếm hơi thở khi tọa thiền.

 

Nếu quý vị đã tham dự các lớp thiền Hòa thượng Ân sư chỉ dạy thì biết tuần tự ban đầu phải sổ tức, đến tùy tức... Và sổ tức (đếm hơi thở) là bước căn bản quan trọng ban đầu không thể thiếu. Khi công phu, nếu cứ đếm hơi thở, theo hơi thở, làm một cách đơn điệu máy móc theo quán tính mà không vận dụng tâm tỉnh táo, rõ biết số cho rành rẽ rõ ràng thì dễ bị rơi vào vô ký (mơ hồ, không tỉnh sáng). Khi ấy phải phấn chấn tinh thần lên, biết mạnh mẽ lên thì trị được. Nhưng cũng phải khéo điều chỉnh. Nếu biết mạnh mẽ mà hơi quá thì bị vọng động, phải điều chỉnh cho an tĩnh lại. Cần khéo léo vận dụng cho cân bằng khi công phu, đừng để rơi vào vô ký hay loạn động là tốt.

 

Thời gian sau thuần thục rồi, không còn ứng dụng phương pháp sổ tức nữa, nhưng nếu khéo tùy thời vận dụng đếm hơi thở đúng lúc thích hợp thì cũng giúp cho chúng ta công phu tốt. Cần lưu ý là đừng kẹt trong sự an lạc của phép quán sổ tức là được.

 

Cụ thể khi ngồi thiền, hôm nào cảm thấy an ổn thì cứ ngay đó sống thẳng liền xong. Nếu hôm nào cơ thể bất ổn và bị loạn động quá thì lúc mới nhập thiền, chúng ta có thể bắt đầu bằng việc đếm hơi thở từ 1 đến 10... Đến khi thấy người hơi nhẹ, tâm bắt đầu an thì buông đi, không đếm nữa là tất cả mọi thứ hiện bày rõ ràng, an lạc. Lúc này chỉ là rỗng lặng, sáng biết. Thế thôi. Đừng khởi biết theo cái gì nữa. Khi đang sáng biết mà vắng lặng không động như thế là đang sống trong Thiền rồi, đừng lập thêm gì nữa, đừng tìm kiếm thêm nữa để phải rơi vào sanh diệt vọng động trở lại. Không nên cố chấp là phải đếm hay không nên đếm. Pháp chỉ là phương tiện để cho hành giả ứng dụng sao cho đạt đến giác ngộ chứ không cố định. Không nên thấy có một pháp nào đó là cố định rồi phân định pháp này thấp, pháp kia cao... Khi nào cần sổ tức và lúc nào không đếm hơi thở nữa, đó là nghệ thuật khéo léo tinh tế để tự nhận biết công phu của mình, tùy thời vận dụng phù hợp thì công phu sẽ tốt. Cần lưu ý ở đây là đừng chấp vào pháp quán sổ tức đó mãi. Khéo vận dụng sống thẳng như thế thì quý vị sẽ thấy công phu thăng tiến rất nhanh. Ban đầu có thể hơi khó, nhưng một khi đã quyết tâm vận dụng cho bằng được công phu như vậy thì trong một thời gian ngắn, sẽ có lúc sức giác bỗng nhiên vọt tăng, tất cả mọi thứ sau đó sẽ là bất ngờ, đặc biệt. Dám mạnh dạn vận dụng thì sẽ cảm nhận được thôi. Quý Thầy diễn tả trước sẽ khiến quý vị rơi vào thức tưởng, làm ngăn chặn bước tiến của mỗi người.

 

Câu hỏi 13:

 

Thầy có nói mình phải TỈNH LẠI rồi làm mọi việc. Vậy có thể tạm gọi nó là chánh niệm hay gọi là mình đang sống trong hiện tại được không?

 

Đáp:

 

1. SỐNG TRONG HIỆN TẠI

 

Khi nói “đang sống trong hiện tại” thì tâm chúng ta dễ tự nó lập nên “thấy có một cái hiện tại” để sống. Mới nhìn qua thì thấy cái hiện tại ấy vẫn vắng lặng. Nhưng do “có một cái hiện tại đang vắng lặng” và “có mình đang biết về cái hiện tại đó” thì đã phân hai, “cái hiện tại” đó đã trở thành cái bên ngoài, không phải thật là mình. Hơn nữa, có “người biết” và có “cái được biết” là có chỗ cho TÌNH THỨC xen vào; đồng nghĩa là đã rơi vào sanh diệt nhỏ nhiệm mà trí tuệ thường tình không phân định được cho nên không nhận ra. Tình thức con người rất nhạy và vi tế. Chỉ cần đặt thành danh từ, đặt tên, suy thành nghĩa thì nó liền lập nên một đối tượng để biết về liền. Như thế là có chỗ cho thức sinh, là rơi vào sanh diệt. Hay sạch hết tất cả mà vẫn tự sáng biết không động. Mất hút các tướng của tâm và cảnh, bất động mà vẫn đang thấy biết rành rẽ, rõ ràng. Không còn bất kỳ một cái gì để tình thức có chỗ phan duyên, lập nên thì công phu sẽ tốt. Còn có một chỗ gọi là hiện tại được lập nên thì chưa phải rốt ráo. Vì vậy, phải khéo sống thẳng, không nên thấy có một cái gì đó, hay có một chỗ nào đó để bị phân hai, để tình thức tưởng lập là tốt. Cần tránh tuyệt đối điều này.

 

2. CHÁNH NIỆM

 

Muốn biết có phải là Chánh niệm hay không thì cần phải hiểu cho đúng nghĩa của chánh niệm. Nếu nói Chánh niệm là niệm chơn chánh, không tà niệm thì nghĩa này không phải là chỗ “tỉnh lại rồi làm”.

 

Nghĩa thứ hai, Chánh niệm là không bị thất niệm, không bất giác, không quên, là vô niệm. Khi không một niệm tưởng mà hằng sáng biết không động, là đã đúng nghĩa vô niệm. Ngay đó giác tánh sáng biết đang hiện tiền, là không bất giác, không thất niệm, nên được gọi là Chánh niệm. Theo nghĩa này thì Chánh niệm chính là chỗ “tỉnh lại rồi làm”. Bởi vì khi “tỉnh lại rồi làm”, không phải có một cái tỉnh, mà tỉnh lại đó là nhớ lại, giác lại, không bất giác, không phải biết theo công việc, không bị cuốn trôi trên công việc; ngay đó không phân biệt chia hai thấy có việc và mình; chỉ là một thể lặng sáng thênh thang, sáng biết rõ ràng một cách linh thông, mạnh mẽ, lanh lợi đến mức chủ động nhưng không hề vọng động. Không niệm tưởng mà vẫn sáng biết, làm tất cả việc mà vẫn rõ ràng, không động. Sinh hoạt và làm việc như vậy là sống bằng sức sống Thiền, không bàn đến Chánh niệm hay thất niệm gì nữa cả. Thông thường mọi người dễ hiểu theo một chiều, chánh niệm là niệm chơn chánh, là đối lại với tà niệm. Nếu vậy là có một niệm chơn chánh ngược lại với tà niệm thì Chánh niệm vẫn là một loại niệm. Mà có niệm thì còn có chỗ cho tâm sinh, còn trong tình thức sinh diệt, chưa phải là chỗ vô niệm đúng nghĩa mà hành giả cần hướng tiến.

 

Trong Kinh Viên Giác,đức Phật nói: “Nếu ông dùng tâm suy lường phân biệt (tâm sinh diệt) mà suy lường đức tướng trí tuệ Như Lai thì đức tướng trí tuệ Như Lai cũng chỉ bằng với cái tâm suy lường phân biệt nhỏ hẹp của ông mà thôi”. Ví như đem cái ly thủy tinh mà đo lường nước biển cả thì nước biển cả chỉ còn bằng cái ly, chứ không còn đúng nghĩa mênh mông nữa. Nếu dùng tâm suy lường phân biệt là tâm sanh diệt có hạn lượng, nhỏ hẹp mà suy lường đến đức tướng trí tuệ Như Lai là trí vô sanh thênh thang không ngằn mé thì làm sao hiểu tới? Có hiểu cũng chỉ hiểu theo cái tưởng tượng suy lường trong sanh diệt nhỏ nhoi của phàm tình mà thôi, không phải của Phật. Phải bằng tâm vô sanh thì mới cảm nhận được Đức Tướng Trí Tuệ Như Lai. Cho nên dù là niệm chánh hay niệm tà cũng đồng một tính chất là niệm. Mà còn niệm là còn sanh diệt, là rơi vào hạn lượng. Hoặc chú tâm, buộc niệm để an trú, để không thất niệm thì như là có định, có an; nhưng vẫn thầm còn có chỗ để an trụ cho nên chưa rời được hạn lượng, có ngằn mé. Dù lớn đến đâu cũng vẫn là nhỏ bé so với cái không thể đo lường; không phải là thể vô niệm thênh thang không ngằn mé. Như nước biển trong ly, trong hồ, hay trong bất kỳ cái gì đo lường được đều không phải là biển cả mênh mông.

 

Câu hỏi 14:

 

Chúng con đã từng nghe thầy dạy, trên tất cả mọi việc, mình nên tỉnh rồi làm. Tỉnh trở lại thì liền là giác, đang giác là tu. Vậy trong sinh hoạt hằng ngày khi làm việc, con luôn biết, biết một cách bao quát tổng thể. Ví dụ như đang ngồi đây, con biết con ngồi như thế nào, tay để đâu, chân thế nào, tư thế con ngồi, đến tất cả mọi thứ chung quanh... Đương nhiên con không thể đi vào chi tiết, mà chỉ biết đại khái như thế. Như thế thưa Thầy có phải là TỈNH không ạ, hay là con đã đi ra và nương vào những pháp trần một cách cụ thể?

 

Đáp:

 

Chúng ta biết một pháp (sự vật, sự việc) hay biết tất cả các pháp (mọi vật, mọi việc) thì cũng không rời pháp mà biết và đang biết về pháp đó. Mà biết về pháp đó, biết theo pháp đó, tức là mình đang bỏ mất chính mình và đi ra theo pháp trần rồi. Thí dụ bây giờ nhìn máy ghi âm này, quý vị đang biết về nó hay là đang tự sáng biết? Nếu biết về nó, Phật gọi đó là phan duyên, gốc của phiền não sanh tử, khổ đau có ra từ đó. Nếu đang sáng biết một cách bình thường, thì không phải là biết về nó hay biết về bất kỳ một cái gì bên ngoài, mà chỉ là đang sáng biết, là tâm tự giác biết, không phải phan duyên. Khi giữ tâm tĩnh lặng để biết tất cả, nghe có tiếng chim kêu, thấy cái tủ, thấy bàn ghế, thấy các vật bên ngoài…, nhưng nếu cố giữ tâm để cùng một lúc biết hết tất cả là đã bỏ sót cái "tự sáng biết" để biết về những thứ đó, biết theo nó và bỏ mất chính mình rồi. Đó là đã đi ra và nương vào những pháp trần kia để biết về chúng một cách cụ thể, chưa phải công phu đúng mức. Cái tự sáng biết của tâm là không có tâm bỏ tất cả, cũng không cần biết về tất cả. Không cần biết về cái máy ghi âm này, không cần biết về cái ghế này, cũng không phải là một lúc phải cố biết hết tất cả. Biết như thế được một lúc sẽ căng thẳng, trái đạo. Chỉ cần tỉnh sáng thì tự mình đang là sáng biết, thế thôi! Lúc đó, tự tâm sáng biết hết tất cả một cách linh hoạt, không động nhưng chủ động, rõ ràng chứ không phải biết theo, biết về những thứ bên ngoài.

 

Thử ngay đây, không thèm chú tâm vào bất cứ gì, cũng không phải phớt lờ, bỏ qua, và không mặc kệ. Nếu còn tí gợn là như thế nào đó trong tâm thì cũng không luôn đi. Lúc này, tánh mình tự thấy nghe biết khắp một cách bình thường đến mức tự nhiên, nhưng rất rõ ràng. Không cần cố tâm, nhưng tất cả mọi âm thanh, sắc tướng đều tự thấy nghe hết một cách thông lưu, không động; mọi thứ không ra ngoài tự tánh thấy nghe biết ấy, cho nên tất cả chẳng phải khác. Lúc này chẳng cần phân biệt, nhưng thấy biết mỗi thứ rành rẽ rõ ràng chứ không lẫn lộn vào nhau, cho nên cũng chẳng phải một. Không phải một, không phải khác; luôn thấy biết rõ ràng, linh hoạt, sống động như là đến mức chủ động nhưng không động, mặc tình biết khắp như thế mới đạt đến ý nghĩa cuối cùng của TỈNH RỒI LÀM, là GIÁC SÁNG TRỞ LẠI.

 

Câu hỏi 15:

 

Thưa Thầy, tức là không cố bắt mình phải biết những thứ chung quanh?

 

Đáp:

 

Đúng vậy! Điều chính yếu là mình đang sáng biết thì tánh mình tự biết, chứ không phải buộc mình phải biết về tất cả mọi thứ chung quanh.

 

Câu hỏi 16:

 

Thưa Thầy, thói quen mê mờ là tập khí của con ở ngoài đời. Khi mới thực hành Thiền mà áp dụng thẳng công phu ngay lập tức phải “tỉnh sáng”, không chỗ trụ thì có khó quá không thầy. Con có cần phải bắt đầu luyện tập từ những bước của người sơ cơ hay không?

 

Đáp:

 

Sơ cơ, ban đầu là căn cứ vào đâu để tính? Chúng sanh mê mờ, thấy bằng mắt thịt cho nên thường căn cứ vào đời này để nói. Nhưng thực tế có nhiều người mới tu, là sơ cơ của đời này, nhưng lại mau ngộ. Đó là do nhiều đời vị này đã tu rồi. Cho nên phải căn cứ vào nhiều đời để thấy. Nhưng phàm phu như chúng ta làm sao để biết mình đã tu nhiều đời hay mới tu đây? Đã đủ duyên tu hành rốt ráo như thế này, tức là đã có túc duyên tu tập nhiều đời rồi. Nếu mới phát tâm thì không thể được như thế. Do đó, không nên nhìn một đời để phán xét mà nên tự tin mạnh dạn công phu. Khi thời tiết nhân duyên chín muồi, chúng ta sẽ có kết quả bất ngờ. Cho nên vào đạo chỉ có hai con đường. Một là ngay đây nhận thẳng, dùng thẳng, không qua thứ bậc. Nếu chưa như thế thì ứng dụng công phu tu tập từ từ rồi cũng tiến bộ. Sự thật rõ ràng như thế, không nên vì lý do gì khác để tự ty, tự xem thường mình rồi lui sụt.

 

Tất nhiên, nếu không phải là người có túc duyên tu hành nhiều đời, hoặc chưa có kinh nghiệm, chưa thuần thục mà dụng công thẳng đến chỗ rốt ráo thì hơi khó khăn hơn. Khéo tự kiểm nghiệm trong công phu để biết sức mình. Nếu như lúc nào đó có thể dùng được bằng cách rốt ráo này thì ứng dụng liền. Còn lúc nào chưa thuần thì nên ứng dụng những pháp phương tiện đối trị khác để tập cho tâm thuần thục dần. Cách dụng công này không nằm trong đối trị, chỉ khéo trở về tâm thì tự tâm sáng biết. Trong giai đoạn đầu mới công phu, chưa thuần thì có thể tạm dùng các pháp đối trị thích hợp. Khi nào tương đối thuần thì ứng dụng pháp không còn tạo tác (vô tác). Thậm chí cả khi tương đối thuần rồi, nếu lúc này thấy tâm không mạnh thì dùng pháp đối trị, lúc khác tâm được mạnh mẽ thì dùng thẳng pháp vô tác kia. Khéo linh hoạt để ứng dụng làm sao để công phu cho thật tốt.

 

Nhưng phải nên biết đối trị chỉ là phương thức nhất thời, tạm thời; vì còn trong tạo tác. Không thể dùng nhân tạo tác sanh diệt để tu hành đạt đến quả vị rốt ráo không sanh không diệt được. Trở về chỗ vô tác, dụng công mà không có chỗ dụng, tu mà không có dấu vết tu hành, mới khế hợp với bản thể không sanh diệt, mới đạt đến rốt ráo. Biết như vậy, vững tin xác quyết như vậy để cố gắng vươn lên. Nếu không, đôi lúc thấy cách dụng công này khó quá rồi thích cách đối trị hoài thì suốt đời bám rễ vào đó mãi. Tất nhiên không sai, nhưng tiến thì không được tiến bộ nhiều, không thể đạt đến rốt ráo trọn vẹn. Mà rõ ràng là khi gặp chuyện buồn trong cuộc sống, hoặc là khi cuối đời gần nhắm mắt, mới thấy những cách đối trị không đủ lực giúp mình vượt qua tất cả một cách rốt ráo. Nếu ai đã dụng thẳng đến chỗ vô tác này rồi thì sẽ thấy công năng hóa giải của nó thật diệu kỳ! Những thứ làm cho người khác buồn đau thất bại thì với mình chỉ là một ý vị, lý thú, sống động!

 

Câu hỏi 17:

 

Thưa Thầy, thời khóa của Thiền viện ngồi thiền hai thời tối và khuya. Thời gian còn lại chủ yếu là lao tác và những sinh hoạt thường ngày. Có những lúc con bị phóng tâm quá, con phải dùng pháp “thân đâu tâm đấy”, như thế có phải là bị trói, bị nương tựa vào một pháp quá không ạ? Ví dụ như khi con nhặt rau, con cũng phải để ý vào việc mình đang nhặt rau, còn khi con để cho nó “tỉnh sáng” bình thường, không gì hết, thì tâm lại phóng ra, bay nhảy khắp mọi nơi.

 

Đáp:

 

Tùy theo trình độ của mình. Nếu như thấy còn yếu quá thì “thân đâu tâm đấy” cũng là một cách tốt. Nhưng phải biết rằng đó chỉ là cách đối trị nhất thời. Bởi khi còn làm công việc đó, còn buộc vào việc đó thì tạm yên, nhưng khi không làm việc đó nữa thì không lẽ chấp nhận bị loạn động hay sao? Hơn nữa, nếu chỉ buộc một chỗ thì không làm được gì nhiều. Nếu đạo chỉ giỏi hiện tiền trên công việc ít mà không giỏi ở nơi nhiều thì biết đạo này chưa đủ lớn như bản chất vô ngần của nó. Và khi buộc niệm, nhiếp tâm vào công việc thì tạm yên; khi không buộc thì loạn động. Chỉ có, chỉ hiện tiền ở chỗ này mà không có ở trạng thái khác; như thế thì đạo này chưa trùm khắp tất cả chỗ, chưa được tự tại, chưa linh hoạt, chưa đủ lớn để giải thoát sinh tử. Mới biết, công phu tu tập như trên chỉ là phương pháp đối trị tạm thời. Khi mới công phu, chưa thuần thục thì tạm ứng dụng. Khi nào thuần rồi thì chỉ có sáng biết và làm. Tất nhiên không phải ban đầu ứng dụng là được trong lặng liền. Nhưng nếu có đủ niềm tin và quyết chí ứng dụng, khi có sự nếm trải trong nội tâm thanh tịnh tuyệt đối đó, khi công phu tương đối có lực rồi, thì niệm có nhiều, những thứ lăng xăng trong đời có nhiều mình cũng chẳng quan trọng, cứ bình thường. Lúc đó chúng ta không biết về niệm, không biết theo niệm, cũng không cần bỏ niệm, và cũng không theo niệm, mình chỉ là một tánh sáng biết, thì mọi thứ nhiều và ít giống nhau, có và không cũng vậy... Dám gan đối diện và dụng công như vậy thì mới có lúc vọng niệm mới thua và từ giã mình được. Còn nếu cứ hễ thấy nó là liền ngại rồi phải chạy trốn, muốn nó không xuất hiện. Cũng giống như nó vừa lấp ló thì chúng ta liền tìm nơi ẩn núp. Khi hơi yên yên thì mình đi ra. Rồi khi vọng niệm xuất hiện lại và chúng ta tiếp tục tìm nơi ẩn trốn. Cứ như thế suốt đời bị vọng niệm nhát mãi, không thể tiến hơn được. Cho nên, khi nào thấy công phu tương đối thuần thục, đủ mạnh, phải dám một lần gan dạ sống thẳng đến "tánh tự sáng biết" kia thì mới tiến được. Vì sao? Bởi chỉ cần lực sáng biết đủ lớn thì có hay không có đều như nhau. Công phu như thế sẽ đắc lực.

 

Câu hỏi 18:

 

Như vậy là chỉ cần thoải mái, thanh thản, quay về bản tâm lặng sáng thôi, không cần đuổi theo hay cố biết một cái gì đó ở bên ngoài, đúng không thưa Thầy?

 

Đáp:

 

Đúng vậy. Có niệm không niệm giống nhau, đừng theo là được. Cho nên Lục Tổ nói: “Không sợ niệm khởi, chỉ sợ giác chậm”. Mình có đang giác sáng không, hay là đang theo nó, biết về nó? Theo nó là mê; biết về nó là mất mình, vẫn còn phan duyên (vin theo niệm); mà tự giác sáng là chúng ta đang công phu, đang tỉnh sáng. Thế thôi. Vọng niệm không quan trọng. Nếu công phu mạnh, dám gan dạ, tức là niệm ít niệm nhiều gì cũng không quan trọng, khi đó chỉ là giác sáng thôi. Có bao nhiêu là chuyện của nó, chúng ta cũng chẳng cần khởi niệm mặc kệ luôn, quý vị sẽ thấy công phu đắc lực.

 

Câu hỏi 19:

 

Như kiểu mình cứ đứng quan sát nó đến đi, đi đến có đúng không ạ?

 

Đáp:

 

Đứng quan sát là đang biết về, biết theo vọng niệm, là phan duyên; chẳng khác nào đã theo nó rồi. Quan sát vọng niệm đến đi, đi đến là có đón tiếp nó rồi, lúc này như là đang đếm vọng tưởng thôi, không phải công phu đắc lực. Lúc còn bận rộn đối duyên xúc cảnh, sinh hoạt, làm các công việc... thì tâm còn thô, công phu chưa nhiều cho nên chưa phát hiện ra sự hạn chế và tác hại. Cho đến khi vào môi trường hạ thủ công phu miên mật, vọng niệm sẽ cùng lúc ùa về rất nhiều. Lúc này hành giả sẽ bất lực và hoảng loạn, tự sợ. Mới biết quan sát đến đi như kiểu chú tâm kiểm đếm vọng tưởng; công phu theo kiểu biết về vọng, biết theo đuôi vọng, đợi khởi rồi biết theo đuôi nó mà không phải tự sáng biết, công phu ấy không đủ lực để hàng phục vọng tâm trong khi mình vẫn đang trong điều kiện sức khỏe và công phu tốt nhất.

 

Câu hỏi 20:

 

Con thấy cách này rất khó, chỉ cần mình động tâm chút thôi là đã rơi vào tạo tác rồi.

 

Đáp:

 

Thế nên mới nói, nếu còn yếu thì có thể ứng dụng tu tập theo các phương pháp sơ cơ. Khi tương đối mạnh thì phải dám một lần gan dạ dụng công như thế mới có lúc đắc lực được. Nếu không thì mỗi lần khởi niệm, chúng ta cứ muốn nó hết cho rồi, hoặc là sợ nó, phải cột tâm lại… thì vọng niệm vẫn có giá trị với mình; vì thế không thể tiêu dung nó được. Hơn nữa, làm như thế là đã có tạo tác, có máy động, là cái căn thức mê muội đã có ra rồi. Căn thức hãy còn thì làm sao thoát khỏi sanh tử? Cho nên phải dám gan dạ một lần dụng thẳng đến tâm kia thì lần sau tất cả mọi thứ sẽ là bình thường. Nói là khó là bởi tình thức vin vào tướng, nương tựa một cái gì đó quen rồi. Cho đến khi công phu cũng muốn có một pháp để nương tựa vào thì thấy dễ hơn là vô tác, không nương tựa. Dễ đó là do chìu theo thói quen nương tựa của tình thức thôi. Nhận ra yếu huyệt này, chúng ta khéo buông sạch mọi thứ, không lập thêm bất cứ gì thì ngay đó tâm mình mặc tình thấy biết không ngăn ngại, liền khế hợp bản tâm.

 

Như ở trên vừa nói, khi còn ở ngoài vọng niệm còn ít thì còn có thể tu tập theo cách đối trị như vậy được. Nhưng khi nhập thất một mình, có những thời điểm vọng niệm cùng lúc ùa về rất nhiều. Với cách chạy trốn, dẹp trừ, đối trị như trên, chúng ta sẽ bất lực trước một dòng thác cuộn trào của vọng niệm. Lúc này mới thấy cách dụng công biết theo niệm, bỏ niệm trước đó là sai lầm, không thể nào điều phục tiêu dung vọng niệm được. Ngược lại, ngay khi vọng niệm đang cuồn cuộn đó, chúng ta chỉ cần sáng biết, không thèm biết về nó, biết theo nó; có niệm và hết niệm cũng không thèm để ý đến; chỉ không mê mờ tức là đang sáng biết, thế thôi! Chúng ta sẽ cảm nhận điều rất bất ngờ là tất cả các vọng tưởng như thác đó bất chợt mất sạch; tâm tự trong lặng, như sáng hẳn ra. Một lần dám như thế thì mới thắng được vọng tưởng. Ngược lại, cứ dụng công theo kiểu trốn tìm, thấy giặc vọng tưởng thì liền núp, giặc hết thì đi ra... Lòng vòng núp hoài như thế thì không thể nào hàng phục được vọng tưởng.

 

Câu hỏi 21:

 

Khi trong đời sống thường nhật gặp chuyện phiền não, có kỹ thuật nào để giải quyết điều đó không thưa Thầy?

 

Đáp:

 

1. CÁI VÔ SANH MỚI TIÊU DUNG ĐƯỢC CÁI SANH DIỆT

 

Có lần có người hỏi điều này, quý Thầy nói đừng thèm để ý tới, cứ tỉnh táo, lặng lẽ thì mọi chuyện sẽ ổn. Vị Phật tử này hỏi thêm: Khi đồng nghiệp nói những điều gây sốc, con đang bực tức. Nếu khi đó con không để ý tới, con quán nó là giả, không nghe. Nhưng mặt khác thì con vẫn thấy họ đang nói móc họng con, mà mình lại nói là mình không nghe thì con thấy như là mình đang dối mình. Vậy phải làm sao thưa Thầy?

 

Bởi vì quý vị đang ở giai đoạn quán chiếu để thấy sự sân giận là giả. Nhưng vì sức tu còn yếu, chưa đủ lực, cho nên chưa thể thực sự thấy nó là giả mà mới chỉ cố gắng cho nó là giả mà thôi. Do đó, trong mình tồn tại hai trạng thái. Một mặt quán sự sân giận là giả, người chọc tức cũng huyễn hóa. Nhưng mặt khác thì thấy có người ta làm mình bực tức thiệt, cơn sân giận đang đùng đùng. Vì vậy mà chưa vượt qua được. Đây là do hạn lượng, do sức chịu còn nhỏ hẹp của cá nhân khiến mình cảm thấy như vậy chứ không phải là chân lý. Muốn kiểm chứng chân lý thì thử hỏi lại một ngàn năm sau ai mất, ai còn, ai giận ai? Và nếu được nghe kể lại câu chuyện của trăm năm trước, người trong cuộc thì cảm thấy có những vui buồn, cảm xúc quan trọng. Nhưng với mấy cháu bé mới sinh ra thì nghe đây như một câu chuyện cổ tích, truyền thuyết vậy thôi. Từ nhỏ đến lớn, chúng ta đã có biết bao lần tức tưởi, uất hận chừng như không thể vượt qua được. Nhưng bây giờ có còn sự việc nào quan trọng hay có giá trị gì đâu? Sự thật mọi thứ chỉ là truyền thuyết hư huyễn như thế. Đó là chân lý, là sự thật. Người mê thì phải có thời gian gánh chịu đau khổ cực cùng rồi sau đó mới nhận biết. Bậc trí tu hành thì luôn thấy rõ chân lý này ngay đây và bây giờ.

 

Khi sân thấy nó là huyễn hóa, đó là một chân lý đã được thẩm định và khẳng định. Chỉ cần tỉnh tâm lại để mọi việc không đi quá xa; đó là biết nhận ra và hướng đến chân lý, sự thật; chứ không phải quan niệm như kiểu tự kỷ ám thị rồi cho rằng tự mình lừa dối mình. Nghĩ như vậy là do mình không thắng nỗi phiền não sân si, rồi trong tâm niệm mình tự nó tạo ra hai quan điểm vậy thôi. Qua rồi nó sẽ hết chứ không còn mãi, do đó không phải có thật. Tuy nhiên, trong tức thời, sự sân giận chưa chịu hạ hỏa liền mà vẫn sục sôi, ứa nước mắt; đó là do sức định của mình chưa đủ cho nên không thể tức thời tiêu hóa liền vậy thôi.

 

Tóm lại, mọi thứ có hình tướng kể cả sân hận, bản chất đều là huyễn hóa, không thật; đó là một sự thật, là chân lý, không phải do quan niệm. Lòng sân giận đang lẫy lừng chưa thể hết liền là do tùy thuộc vào tập khí của mỗi người nặng hay nhẹ, định lực mạnh hay yếu; chứ không phải bản chất của cái sân là có thật. Như vậy, không phải có một quan niệm sân giận là giả để mâu thuẫn với một cơn sân giận đang tồn tại. Mà bản chất của sự sân giận vốn huyễn hóa là một chân lý, tin hay không thì sự thật xưa nay vẫn vậy. Và cơn sân giận vẫn còn là do lực tu của cá nhân mình chưa đủ mạnh mà thôi.

 

Nếu dùng pháp quán chiếu để chiến thắng lòng sân của mình, không làm tổn thương người khác, đó là cần nếu thấy có hiệu quả. Theo kinh nghiệm mang tính cá nhân nho nhỏ thì quý Thầy thấy rằng, ban đầu chưa có định lực thì phải quán chiếu để phá trừ phiền não, trở về tâm thanh tịnh chính mình. Điều này cần. Nhưng nếu khi công phu khá thuần thục rồi thì nên dụng thẳng chỗ vô sanh, tâm mình lắng lại, không sanh khởi trên mọi hoàn cảnh là tốt. Bởi khi khởi quán là tâm chưa rời khỏi sanh diệt. Mà nghịch cảnh thuộc về sanh diệt, khởi quán cũng thuộc về tâm sanh diệt, cả hai đồng một tính chất sanh diệt thì khó thành công. Có thành công chăng cũng chỉ là tạm thời, chỉ đối với những sự sân giận vừa mức chịu đựng của bản thân chứ chưa thực sự thoát hẳn ra khỏi trần lao phiền não. Vì thế, pháp quán chỉ ứng dụng để đối trị cho buổi đầu chưa có định lực. Khi có năng lực rồi thì nên tiến thêm bước nữa là dụng thẳng đến chỗ vô sanh. Chỉ có “thể vô sanh” mới hàng phục được cái sanh diệt. Thiền sư Nham Đầu Toàn Khoát dẫn lời cổ đức: “Chẳng phải trần chẳng xâm phạm ta. Nhưng khi ta vô tâm thì nó cháy”.

 

Con người thường mong muốn mình ở vào hai trạng thái. Một là an bình, không bị khổ não gì cả. Hai là nếu nhỡ có gì không tốt thì mong làm sao cho nó qua nhanh. Cả hai đều là tâm động, sanh diệt. Vì chưa rời loạn động sanh diệt cho nên khi nào cũng cảm thấy có cái gì đó chưa ổn, khiến cho mình thiếu bản lĩnh, tự tin. Đây là cội nguồn làm cho con người cảm thấy dễ bị tổn thương, đau khổ. Khi phát tâm tu hành cũng dùng hai tâm trạng trên để công phu cho nên luôn thầm thầm cảm thấy bất ổn, chưa được an. Nếu kịp nhận ra, lìa hai tâm thái này, lìa sanh diệt, dụng thẳng đến chỗ vô sanh; mọi thứ có và không cũng chỉ có thế, mới mong có ngày an ổn thực sự.

 

Cụ thể ngay trên mọi thứ phiền não sai biệt đang diễn tiến, chúng ta không cần sanh tâm phân biệt trên nó, cũng không có tâm xua đuổi muốn nó qua nhanh, cũng không phải theo nó để than phiền, không chạy trốn cũng chẳng phải chường mặt. Nó có sanh khởi kiểu gì thì mình cũng chỉ cứ bình thường, chỉ cứ trong lặng trên nó. Khi nghe chửi mắng, chúng ta đừng vội sanh tâm trên những lời kia mà cứ nhẹ nhàng, lặng lẽ, trong sáng để nghe. Cho dù trong lòng nó có giận đến đâu, chúng ta cũng chỉ cứ bình thường, lặng lẽ, nghe một cách rõ ràng, không thèm để ý quan tâm đến cái giận. Tập quen lâu ngày, cái LẶNG LẼ kia đủ lớn, chúng ta sẽ tự thấy rõ kinh nghiệm này. Khi nghe tiếng chửi mắng, nhưng tiếng ấy lại tự nhiên trở nên trong vắt. Như vậy là cái vô sanh kia nó đã đốt cháy cảnh duyên, hóa giải sạch mọi não phiền rồi. Điểm chính yếu ở đây là khi đối với mọi hoàn cảnh, chúng ta đừng thèm sanh khởi tâm gì cả mà phải cương quyết tìm lấy sự lặng trong ngay đó cho bằng được. Không thèm để ý đến sai hay đúng, hơn và thua, phải hay trái gì cả, những thứ đó không xài. Mới đầu có thể chưa cảm nhận được hiệu quả nhiều. Nhưng phải tin chắc rằng, “Chỉ có cái vô sanh mới chiến thắng vĩnh viễn cái sanh diệt” để chúng ta mạnh dạn thực hành. Nhiều người giỏi tu khi nhìn lá, nhìn cảnh để lìa mà chưa có kinh nghiệm để đối diện với nỗi sân giận, oan ức cùng tột hay muộn phiền chết lịm trong tim. Đó là do chưa có kinh nghiệm công phu. Chiếc lá, cảnh vật là cái bị thấy. Sân giận, oan ức, muộn phiền cũng là những thứ bị chúng ta thấy. Nhìn về hiện vật và hiện tượng, tình huống, tình cảnh thì có khác. Nhưng tất cả đều là một pháp, đều là một thứ bên ngoài đang đối diện trước mình. Nhìn chiếc lá thấy huyễn hóa, tâm lắng lặng sáng trong như thế nào thì nhìn mọi tình cảnh cũng như thế ấy. Đó là biết dụng công. Hoàn cảnh nào xảy đến cũng đều ứng dụng như vậy. Lâu ngày thuần thục, sẽ phát hiện trên mọi thứ phiền não kia, vẫn còn đây một cái lặng trong, mát lành, sáng dịu, chưa từng bị phiền não làm nhiễm ô bao giờ. Lúc đó ở bất kỳ hoàn cảnh nào chúng ta cũng đang sống bằng tâm vô sanh đó, mới thấy hết giá trị đặc biệt của sự tu hành.

 

Ban đầu có thể chưa quen cho nên khó ứng dụng được trọn vẹn. Nhưng khi nào thấy có khả năng thì phải dùng thẳng đến chỗ đó. Nếu chưa được thì cứ dùng các phép quán. Nhưng nên nhớ đó chỉ là pháp đối trị tạm thời chứ chưa phải rốt ráo. Khi còn bụng đói, chưa thể tìm ra cơm thì có thể tạm dùng gì đó cho đỡ dạ. Nhưng đã có cơm ngon rồi thì nên ăn cơm. Đừng để Thiền sư Huyền Giác quở: “Đói gặp cơm vua chẳng chịu ăn”.

 

2. TÂM KHÔNG THÌ CẢNH TỊCH, TẤT CẢ ĐỀU NHƯ NHƯ

 

Chúng ta vẫn nghe Sư Ông và quý Thầy nói, các pháp là giả, thân này là giả, tâm sanh diệt là giả, phiền não là giả, nghiệp chướng là giả... Nói giả để làm gì? Để không bị mê lầm rồi theo nó, phải chịu khổ. Ngay khi không theo thì liền trả lại tâm thể đang trong lặng, sáng biết. Mọi thứ đang vận hành, chuyển động, nhưng chúng ta không còn là động, không bị cảnh vật xoay chuyển nữa.

 

Cụ thể khi nhìn lên nắm tay này, nó là giả hay thật? Đợi khi co nắm ngón lại mới có, xòe ra thì nắm tay không còn. Hơn nữa, khi đang có đó, phải nhờ thịt, gân, xương... ràng rịt lại mới tạm có nắm tay, chứ tìm một cái gì là nó thì không có. Mới biết, nắm tay này là giả, tạm có, không thật.

 

Khi đã biết nắm tay là đồ giả rồi thì quý vị có còn theo nó nữa không? Nếu thấy là thật thì mới theo nó, còn thấy là giả thì không ai theo đồ giả làm gì. Có rất nhiều người thuộc lòng bài học huyễn hóa này; người huyễn, cảnh huyễn, thân huyễn, tâm huyễn..., nhưng tại sao khi gặp việc thì chưa lìa huyễn được mà vẫn còn bị chi phối?

 

- Khi nhìn nắm tay này biết là huyễn, quý vị đang dùng tâm gì để biết nó là huyễn hóa? Dùng tâm nghĩ suy vọng động hay tâm thể lặng trong?

 

- Phần đông thường dùng tâm hiểu biết, nghĩ suy để hiểu về huyễn hóa.

 

- Mà tâm nghĩ suy là sanh diệt hay vô sanh?

 

- Là tâm sanh diệt.

 

- Tâm sanh diệt là chân thật hay là huyễn hóa?

 

- Là huyễn hóa.

 

- Dùng tâm huyễn hóa để hiểu về một cái huyễn hóa thì đã lìa được huyễn hóa chưa?

 

- Là chưa. Còn nằm trong huyễn hóa.

 

- Vì còn nằm nguyên trong huyễn hóa, chưa thoát ra khỏi huyễn hóa, cho nên tuy biết các pháp là huyễn hóa mà chúng ta vẫn bị cái huyễn hóa chi phối là phải rồi. Thấy biết chưa rời huyễn hóa sanh diệt thì làm sao không bị cái huyễn hóa chi phối được. Đây là do chưa nhận ra tường tận, chưa khéo léo trong lúc dụng tâm.

 

Thêm một điểm nữa, khi biết nắm tay này là giả, quý vị đang biết về nắm tay, biết trên nắm tay; hay không lấy bỏ, không sanh tâm can thiệp trên nắm tay mà tự mình đang sáng biết? Nếu biết theo nắm tay thì rõ ràng là đang dùng tâm sanh diệt huyễn hóa để biết, tình thức chưa hết. Đó là lý do chúng ta biết mọi thứ là huyễn hóa, nhưng vẫn còn bị nó chi phối hoài là vậy.

 

Bây giờ khi biết nắm tay là giả rồi, quý vị không thèm biết theo, biết về nắm tay nữa. Thử lóng lặng tâm lại, đừng thèm chú ý gì hết, cũng không phải phớt lờ qua, và không khởi tâm để mặc kệ; chỉ là tự nhiên, bình thường, quý vị có nhìn thấy nắm tay này không? Không cần khởi hiểu mà vẫn thấy biết sáng ngời, không cần động niệm. Ngay đây, tâm không cảnh tịch, thấy biết vượt năng sở, là đã khéo sống thẳng đến tánh thể vô sanh. Nắm tay này là đại diện cho tất cả cảnh duyên bên ngoài. Nếu khéo dùng cái thấy biết lặng lẽ vô sanh này để sống trên mọi hoàn cảnh thì mọi thứ tự nó là trong lặng, không có cái gì chi phối nữa, là giải thoát rồi.

 

Vẫn bằng vào cái thấy biết sáng ngời không động đó, quý vị nhìn lên nắm tay này, nó có hay là không có?

 

Nói có nói không là rơi vào hai đầu, không phải là chỗ thấy này. Bởi lúc này chúng ta không biết theo nó mà đang lặng biết. Không phân tích, không dính mắc đến nó cho nên nó không phải có trong tâm mình, vì vậy không phải là có. Tuy vậy, nhưng chúng ta vẫn đang thấy rõ nắm tay này cho nên không phải là không. Lúc này, nắm tay không phải là có, cũng không phải là không. Nói có cũng không phải, không cũng không phải, mà nó là một sự hiện hữu rỗng lặng trong tự tánh chánh định của mình. Có cũng không lập, không cũng không lập, tình thức nương gá vào đâu để sanh khởi? Ngay đó rỗng suốt, sáng ngời.

 

Vậy thì lúc này, nắm tay này nó ở trong mình hay ngoài mình?

 

Nói ngoài nói trong là rơi lại vào trong sanh diệt nữa. Bởi vì mình đang thấy nó cho nên nó không thể là ngoài. Nhưng lại không kẹt đến nó cho nên nó cũng không phải ở trong tâm. Không ngoài, không trong, nó là một sự hiện hữu rỗng lặng trong tự tánh chánh định của mình. Tâm không thì cảnh tịch, nắm tay này là không tịch (vắng bặt). Còn nói nắm tay là có, là không, là trong hay nói là ngoài đều chưa rời nắm tay, còn nhằm trên nắm tay để nói, là đã theo cảnh mà bỏ quên mất chính mình. Đây là yếu huyệt của sự mê mờ, vọng động, đưa đến tất cả các khổ đau trong sanh tử.

 

Như vậy, khi nhìn nắm tay này, không thèm biết về, biết theo hay phân biệt, dính mắc trên nó nữa; mà chỉ là trả lại tự tánh toàn thể sáng biết trong lặng ngay đây, thì nắm tay này không phải có, cũng chẳng phải là không; không trong, không ngoài; lúc này, cái thấy vượt cả năng và sở, căn và cảnh, có và không... vượt trên tất cả những đối đãi hai bên. Ngay đây, nắm tay là nắm tay, cây gậy là cây gậy, hoa hồng là hoa hồng, tất cả đều là sự hiện hữu như như. Lâu nay nghe nói phải lìa đối đãi hai bên, nhưng chưa biết phải lìa như thế nào. Bây giờ đã rõ, thấy biết như vậy thì đối đãi tự lìa. Nếu có làm bất cứ gì, đều rơi vào đối đãi, không thể thoát ra được.

 

Ví dụ: Khi bị làm nhục, chúng ta liền vội quán cách này cách nọ để vượt qua. Tất nhiên là nó sẽ qua. Nhưng đó vẫn là đang nằm trong sanh diệt, đối với những nỗi nhục nhỏ thì có thể vượt qua được. Với những sự cố lớn hơn thì khó qua nổi. Một cách khác, ngay khi đang bị làm nhục đó, chúng ta chỉ cần lặng tâm lại, trong veo. Nhục lớn hay nhỏ gì cũng quy về thành một nhóm là đồ sanh diệt, vì thế sẽ bị cái lặng sáng trong veo kia thiêu sạch, và tất cả đều trong lặng theo. Dụng tâm như thế mới gọi là LIỄU; và rõ ràng là nỗi nhục đã hóa thành không; tức là đã thực sự đúng như nghĩa Thiền sư Huyền Giác nói: “Liễu tức nghiệp chướng xưa nay không” là vậy.

 

Câu hỏi 22:

 

Chúng con hiểu, nhưng thấy khó làm. Ngay cả khi quán nó vẫn còn ngầm ở đâu đó đến một lúc nào đó lại trồi lên?

 

Đáp:

 

Việc tập khí đó (phiền não tiếp tục trồi lên) là rất bình thường. Bởi vì những thứ này chúng ta đã nuôi dưỡng nhiều đời rồi cho nên nó rất mạnh. Còn việc tu hành thì mới đây thôi, vì thế chưa thể đủ lực để hàng phục có kết quả ngay được. Cần phải có thời gian. Theo thời gian, chúng ta nên nuôi lớn định lực, chứ đừng nuôi lớn tham sân si nữa thì sẽ có ngày chiến thắng được phiền não. Ví dụ đứng trước một hoàn cảnh xảy đến, nếu chìu theo tham sân si là quý vị đã châm mồi bồi dưỡng nó nữa rồi. Nếu cứ tiếp tục bồi dưỡng như thế thì nó sẽ lớn mạnh và giết chết chúng ta thôi. Nếu không theo tham sân si, đó là đang khống chế, cô lập nó, không cho nó ăn nữa. Mặt khác, phải bình tâm, lặng lẽ, tỉnh giác, đó là đang nuôi lớn sức giác. Bằng cách này, tham sân si sẽ yếu đi và SỨC GIÁC được nuôi lớn dần. Khi sức giác càng lớn mạnh thì sức tự chủ càng cao, mới hàng phục được tập khí phiền não. Nên biết rằng, anh chàng tham sân si đó mình đã nuôi nhiều đời kỹ quá rồi nên nó đã quá lớn mạnh. Trong khi sức giác mới nuôi được mấy năm nay. Lực lượng không tương xứng, bị chênh lệch quá nhiều mà mang ra kéo co thì làm sao đủ sức thắng nổi phiền não mà muốn cho nhanh! Vì vậy, do còn sơ cơ cho nên thực hành thấy khó là chuyện thường. Chỉ cần lưu ý, kể từ nay, đừng bồi dưỡng cho những thứ trần lao phiền não nữa thì sẽ có ngày chúng ta thành tựu thôi.

 

Điểm kế nữa là, khi chúng ta thấy phiền não không mất mà cứ trồi lên hoài là vì mình thấy có nó thật, thấy có mình thật và muốn cái phiền não đó qua cho mau. Nếu thấy rõ tánh phiền não không thật thì nó có hay không có gì cũng không quan tâm, chỉ là tìm lấy sự lặng trong sáng biết ngay đó thì nó tự tiêu tan; đâu cần quan tâm là còn hay hết? Khi còn quan tâm nó còn hay hết là chúng ta ngầm thấy nó là thật rồi cho nên khó hết. Nên nhìn mọi thứ đơn giản lại, quy tất cả nghịch duyên, thuận duyên, dù mạnh hay yếu gì thì tất cả cũng làĐỒ SANH DIỆT. Đã là thuộc loại nhóm sanh diệt thì có ngày nó cũng sẽ rã tan thôi. Chủ yếu là đừng ôm về bảo vệ và nuôi lớn là được.

 

Như ban đêm trong nhà đóng cửa, không đèn, không điện, không nến, tối đen. Có người cho rằng có một bóng tối thật và cầm chổi rượt đuổi hay quét cho bóng tối đi ra khỏi nhà, có được không? Không thể. Làm gì để hết tối? Chỉ cần bật đèn lên. Bóng đêm thấy thì có mà nắm thì không, cho thấy nó không thật có. Chỉ khi không có đèn thì bóng tối tạm có vậy thôi. Khi mở đèn lên thì nó đi đâu mình cũng không tìm thấy nữa. Vì nó có thật đâu mà đi tìm cho có. Mới biết, bóng tối là giả, không thật. Biết là giả thì không còn sợ bóng tối nữa. Dù nó đang có đó cũng không quan trọng, bởi có thật đâu? Đơn giản, không thèm quan tâm, chỉ cần mở công tắc lên thì tối tăm xóa sạch. Phiền não tham sân si... cũng tương tự như bóng tối vậy. Và trí tuệ chân thật như ánh đèn kia. Nếu chấp nhận phiền não, chẳng khác nào chấp nhận sống trong đen tối vô minh. Muốn phá đêm dài vô minh thì phải biết tìm công tắc mở đèn lên, chứ không phải cầm chổi để rượt đuổi xua tan bóng tối. Vì vậy tu hành không phải chăm chăm dẹp đuổi tham sân si phiền não vô minh. Nếu cứ đuổi theo cách đó thì cũng giống như lấy chổi đi đuổi bóng tối trong đêm, làm sao đuổi được. Điểm chính yếu ở đây là phải thấy rõ tham sân si phiền não không thật. Chỉ cần xác quyết một cách khẳng khái và thấy rõ tất cả đều là những thứ huyễn hóa không thật, thì nó sẽ giảm trọng lượng và cường độ chi phối liền. Kế đến là không chấp nhận cho nó là đúng, là phải, nhưng cũng không thèm can thiệp trên nó. Chỉ là ngay khi nó đang có mà vẫn chỉ cứ sống bằng tâm thể sáng trong lặng lẽ (dù nó vẫn còn). Đó là công tắc đèn. Theo thời gian công phu thuần thục, “sức sống sáng ngời lặng trong không động” kia đủ lớn, thì phiền não tham sân tự là trong lặng. Lúc này không còn chỗ cho nó dung thân, tự nó ngưng bặt. Cần có cái nhìn cho thấu đáo để khéo léo vận dụng trong công phu thì việc tu hành sẽ nhẹ nhàng và có năng lực.

 

 Câu hỏi 23:

 

Như lúc nãy Thầy đưa nắm tay lên, con cũng nhìn, nhưng thấy nó một cách tổng quát, thấy cái tay thầy nắm xòe, nhưng thấy một cách tổng quát. Con không trụ vào tay Thầy, mà cũng không trụ vào tổng quát luôn. Con thấy bình thường như vậy. Cho nên khi Thầy có hỏi, con có thấy rõ biết như vậy, nhưng cũng không cần phải trả lời. Thầy có thể chỉ dạy thêm cho con chỗ này?

 

Đáp:

 

Trong nhà Thiền, khi các Ngài nhận ra chỗ này thì hoặc cười to lên, hoặc khóc, hoặc hét, hoặc thoi, đấm, hoặc mỉm cười không nói gì, hoặc nói một câu hoạt ngữ... Không có gì theo khuôn mẫu cố định trước. Chẳng phải qua suy nghĩ sắp đặt hoặc tư duy gì cả. Từ tâm thể hiện tiền như đang thấy rõ mọi vật trước mắt, tất cả hành động, nói cười... đều là sự sống động, linh hoạt, tùy thời, tùy cơ, tùy hoạt cảnh..., nhưng lại như là tự nhiên từ trong đó lưu xuất ra. Nếu mình không phải ở trong đó thì làm gì cũng không đúng. Quý Thầy muốn giới hạn ngang việc hướng dẫn công phu chứ không nói nhiều về tâm chứng. Nếu chưa ngộ thì hẳn là còn bên ngoài. Có nghe muôn vàn diệu lý siêu huyền thì cũng như là nghe về một câu chuyện huyền thoại cổ tích mà thôi. Khéo ứng dụng để hạ thủ công phu tu tập thì tất cả đều sẵn đủ nơi chính mỗi vị.

 

Câu hỏi 24:

 

Thầy nói trong cái vô sanh, con nghe cũng nghe trong cái vô sanh. Cho nên nếu con chạy theo câu hỏi của Thầy mà lại suy nghĩ ra một câu trả lời thì tự nhiên con lại mất cái khoảng không của con đang trùm khắp cái cử động của bàn tay Thầy.

 

Đáp:

 

Đến chỗ này phải tinh tế mới được. Do quý vị mới kinh nghiệm lần đầu cho nên còn phải gìn giữ để tiếp tục công phu. Khi đã thuần thục thì sức giác mạnh hơn, sẽ không còn thấy có một sự trong lặng bên trong để âm thầm gìn giữ nữa. Bởi còn giữ, còn trụ là còn thầm thầm thấy có cái để trụ, để giữ gìn thì bị ngăn trệ, bị giới hạn, chưa được tự do tự tại. Cụ thể là hiện nay khi muốn trả lời thì quý vị phải suy nghĩ, đó chưa phải là hoạt dụng, mới chỉ là một chút kinh nghiệm của buổi đầu cảm nhận thôi. Đến lúc đủ lực sống thuần tịnh và sáng mạnh thì không thèm giữ nữa. Trong không thấy có tâm để dừng trụ; ngoài hay suốt qua, không dừng lại trên bất kỳ chỗ nào, ngay đó mọi thứ tự hiển bày; bình thường nhưng bàng bạc, sáng rỡ. Lúc này mới có phần tự do tự tại. Tự tâm linh thông, biết suốt; không động nhưng rất chủ động và linh hoạt, hỏi đáp đều rất tự nhiên, chạm đến liền nhảy, không phải sanh khởi cũng không cần phải nghĩ suy gì cả. Hằng ngày sống ngay đó là đang công phu tu tập.

 

Câu hỏi 25:

 

Ví dụ: Con có một điều phiền não, đau lòng. Con chỉ cố gắng quán sát nó xảy ra như thế nào (chịu đựng). Ví dụ trán đổ mồ hôi, đau lòng bên trong như thế nào... Một lúc thì nó hết... Nhưng một lúc sau hoặc ngày hôm sau nó lại quay lại. Vậy nên dụng công như thế nào?

 

Đáp:

 

1. DỤNG THẲNG ĐẾN CHỖ VÔ SANH

 

Không cố gắng gạt bỏ, không cố xua đuổi nó đi. Quý vị thử cố gắng níu giữ lại đi xem thử có giữ được không? Có thể giữ được một vài ngày hay nhiều lắm là được một vài năm. Thử đem chuyện này để nghĩ đến mười năm sau, chúng ta sẽ thấy nó rất vô duyên, nhạt nhẽo, không có giá trị gì cả. Nhưng tại sao lúc đó lại khờ dại đi quan trọng đến thế, để nó làm cho mình phải vật vã quá vậy? Thử nhớ lại lúc còn nhỏ cách đây 10 năm, chúng ta cũng có nhiều niềm vui nỗi buồn, tại thời điểm ấy thấy nó cũng trầm trọng ghê gớm lắm. Nhưng bây giờ thì đâu còn có nghĩa lý gì, chỉ là một trò buồn cười của thời trẻ con ngây dại thôi. Tương tự, đem chuyện hôm nay đưa nó về 10 năm sau để nhìn thì sẽ thấy mọi chuyện cũng tầm thường, vô duyên như thế. Mới hay ra, tất cả đều là đồ bỏ, không đáng quan tâm. Muốn níu giữ còn không được, huống chi vứt bỏ thì làm sao còn? Mọi thứ ở thế gian bản chất của nó đều thuộc về biến hoại vô thường sanh diệt, nhưng chúng sanh chỉ nhìn thấy chúng trong một khoảng ngắn tạm có, rồi lầm tưởng là bền chắc lâu dài cho nên mới bị các đảo điên. Sở dĩ đang bị cái gọi là “nỗi đau lòng” chi phối là do quý vị đang dùng con mắt thịt để nhìn thấy câu chuyện của nhất thời đang xảy ra, mà không nhìn rõ bản chất biến hoại theo thời gian của nó. Từ đó, tâm tưởng tự cho ra một cái thấy nỗi buồn này thật có. Theo đó, vì có đau lòng thật cho nên muốn bỏ nó cho mau, muốn làm sao để nó qua càng nhanh càng tốt. Vì thấy là thật và muốn bỏ nó; đó là lý do nó càng có giá trị với mình, chi phối mình đau khổ tột độ.

 

Biết rõ nguyên nhân rồi, bây giờ không cần giữ lấy, không cần buông bỏ, không khởi tâm mặc kệ, không thèm muốn tất cả trôi qua nhanh nữa... Không gì cả, cứ bình thường. Nó có hay không cũng chỉ là bình thường, đừng thèm để ý đến. Đau hay không đau, kệ nó. Nó có làm cho mình bị đau nhói đến đâu đi nữa thì cứ để tự nhiên bình thường, không theo, không xua đuổi, không muốn an, không đúng sai, không chạy trốn, không tất cả để tâm có khởi cũng không còn có chỗ để tiếp tục. Cốt yếu là, vẫn đang còn đau nhói, chết lịm, tái tê... không dẹp qua, không cần hết; hãy ở ngay trên nỗi đau buồn đó mà tìm lại cho bằng được cái “lặng trong vô sanh” thì tất cả sẽ bị thiêu rụi, cháy tan tành. Bằng cách này, mọi thứ sẽ qua mau một cách nhẹ nhàng. Rất khỏe.

 

Trong Tuyệt Quán Luận của Tổ Bồ-đề Đạt-ma, có đoạn Duyên Môn hỏi:

 

- Nếu có người mới học đạo, chợt gặp nhân duyên người khác đến làm hại, làm sao đối trị cho hợp đạo?

 

Đáp:

 

- Toàn thể chẳng cần đối trị, tại sao? Cái có thể tránh thì hãy tránh đi, cái không thể tránh cứ để mặc nó. Cái có thể nhẫn thì hãy nhẫn, cái không thể nhẫn thì khóc.

 

Quá hay! Toàn thể chẳng cần đối trị. Vì sao? Vì còn dùng đối trị là dùng cái này để đối trị cái kia, như thế là chưa lìa đối đãi sanh diệt thì làm sao vượt qua được nghịch duyên phiền não? Cho nên, tất cả không cần đối trị. Nói cách khác, nghịch duyên muộn phiền đang có, không cần hết, trên nó, chúng ta không sanh thêm tâm gì cả sẽ tốt. Cứ bình thường. Cho nên Tổ nói tiếp:

 

“Cái có thể tránh thì hãy tránh đi, cái không thể tránh cứ để mặc nó”. Tất nhiên, cái gì tránh qua được thì chúng ta đã tránh rồi. Cái nào không tránh được thì để mặc nó. “Để mặc nó” là bình thường, tâm không thèm sanh khởi trên nó, không thèm quan tâm sanh khởi có không còn mất, chứ không phải có niệm nghĩ để mặc kệ nó. Đây là Tổ chỉ dạy dùng cái vô sanh để thiêu rụi cái sanh diệt.

 

Tổ nói tiếp: “Cái có thể nhẫn thì hãy nhẫn, cái không thể nhẫn thì khóc”. Tại sao? Tất cả chỉ để tự nhiên, bình thường, không sanh tâm động niệm là tốt. Trong cái tự nhiên kia, nếu sự việc nào trong khả năng của mình thì hãy kiên trì, nhẫn nhục. Tất cả rồi cũng sẽ vượt qua một cách nhẹ nhàng, an ổn, nên nói: “Cái có thể nhẫn thì hãy nhẫn”. Nếu công phu còn giới hạn, gặp phải điều quá sức chịu đựng thì cũng cứ trong tâm thái tự nhiên, bình thường kia, nếu có khóc thì vẫn tự nhiên cho nước mắt ứa chảy một cách bình thường thôi, không sanh khởi gì cả. Như ăn ớt bị quá cay, không làm thêm gì cả, chỉ há miệng cho nước bọt chảy ra tự nhiên, bình thường không suy nghĩ thêm gì, sẽ không còn cay nữa. Khóc trong trường hợp này cũng vậy. Nếu chưa tin, đoạn dưới đây Tổ dạy tiếp.

 

Hỏi: Nếu khóc thì đâu có khác gì với người có ngã kiến?

 

Đáp: Như chày dộng vào chuông, tiếng nó tự nhiên phát ra, đâu hẳn là có ngã. Nếu ông cố gượng đến chết để kềm tâm, nghiến răng chịu đựng, đây chính là còn cái NGÃrất to.

 

Chỉ là không tâm, không giữ lấy cũng không xua bỏ đi, chỉ là bình thường thì mọi tình huống hiện tượng cũng đang bình thường, trong lặng. Nếu vẫn cố dùng tâm ngã kiến, sanh diệt để suy lường thì không thể hiểu đến được chỗ này. Như cái chày dộng vào chuông, tự nó phát ra tiếng. Sự bình thường và nước mắt trào ra một cách tự nhiên mà vẫn không sanh khởi thêm gì cũng thế. Và chỉ có thế thôi, có sanh khởi gì thêm đâu mà gắng bàn nói? Trong trường hợp này, nếu muốn bàn nói tìm hiểu nhiều hơn nữa thì đã rơi vào tâm sanh diệt hạn lượng nhỏ nhoi rồi, không thể hiểu đến chỗ này được. Cố gắng để kềm lại cũng là đang cố làm một điều gì đó. Mà cố làm là rơi vào sanh diệt, không hợp với đại đạo chân thật vô sanh cho nên chưa thoát được tự ngã. Do đó Tổ nói, đây chính là còn cái NGÃ rất to.

 

Hỏi: Sự buồn khóc của người, trong đó có tình động, đâu đồng tiếng chuông vang?

 

Đáp: Nói đồng và chẳng đồng, chỉ là ông đa sự, vọng tưởng nghĩ lường mà khởi lời hỏi ấy. Nếu không tâm phân biệt thì thể đạo tự nhiên.

 

Khóc có tình động là do người ấy có sanh tâm; thấy có nỗi buồn đồng và không đồng với tiếng chuông và vật vô tri vô giác. Ban đầu là chủ động sanh tâm, phân biệt, so sánh; khiến cho sau đó tâm tự sanh khởi rối bời, mất phương hướng, không còn tự chủ nữa. Tổ bảo mình cứ bình thường, vô tâm đi! Nó có hay không có cũng đừng sanh khởi nữa thì sẽ cảm nhận được thể đạo vốn tự như như, mọi thứ vốn rất ổn và bình thường ngay nơi chúng ta. Nếu cứ suy tư lý luận đồng và chẳng đồng mãi thì chỉ là đa sự, càng rơi vào trong sanh diệt, càng lún sâu trong khổ đau thì làm sao cảm nhận được thể đạo chân thật giản dị, gần gũi, bình thường mà phi thường này!

 

Hỏi: Tôi nghe thánh nhân thì bịnh chẳng làm tổn thương, khổ chẳng làm cong khuất, sắc chẳng thọ, tâm chẳng động, đây nghĩa là sao?

 

Đây là chỗ rốt ráo đặc biệt. Một con rùa không chịu lên bờ mà cứ cố tình lặn hụp trong nước mãi, rồi bảo làm sao tôi biết được sự khô ráo thì thử hỏi, đến bao giờ mới cảm nhận được sự khô ráo trên bờ kia? Nếu chúng ta không chịu tin đến chỗ không sanh khởi, không dám mạnh dạn tin chắc rằng, chỉ có cái vô sanh mới tiêu dung được tất cả mọi thứ sanh diệt, thì làm sao mạnh mẽ để dụng thẳng đến chỗ này? Đã không chịu dụng tâm đến chỗ không sanh khởi kia mà ngược lại còn dùng tâm suy lường sanh diệt để tu tập thì làm sao hiểu đến được chỗ vô sanh của thánh nhơn mà còn đem tâm đi gạn hỏi mãi. Dụng tâm như thế thì biết bao giờ mới thực sự hết khổ, an vui? Điều trên trước và ít nhất một người tu cần phải có được đó là “phải được an” trong cuộc sống. Không an thì tất cả coi như đã mất, không còn có gì có giá trị nữa cả. Có khi tu hành đã lâu mà cứ bất an và than khổ hoài là lỗi tại chỗ này. Đây là điểm chúng ta thường hay bị kẹt, cho nên câu hỏi trên là đại diện cho tất cả những người đang còn vất vã như chúng ta.

 

Tổ đáp: Nếu rõ tất cả pháp là vô ngã, thì tiếng và chẳng tiếng, động và chẳng động đều hợp đạo lý, không ngăn ngại.

 

Chỉ cần thấu rõ các pháp rỗng tuếch, không thật. Khi đối các pháp, chúng ta lặng sáng nhìn thấu suốt qua các tướng, không dừng trụ trên một tướng nào cả, thì ngay trên tất cả mọi thứ tiếng và chẳng tiếng, động cùng chẳng động đó, đều là một thể bàng bạc sáng ngời không một vết mê. Trong không thấy có pháp để trụ giữ, ngoài suốt thông qua các tướng, tất cả chỉ là một tâm thể giác biết thênh thang trùm khắp không động. Tổ nói, tất cả đều hợp đạo lý không ngăn ngại. Còn nếu sanh tâm động niệm suy lường tìm hiểu thì có niệm và bị ngăn ngại, đạo vắng bóng liền. Cho nên trong Kinh Kim Cang, đức Phật nói: “Nhược kiến chư tướng phi tướng, tức kiến Như Lai”, là vậy.

 

Trở lại trong trường hợp đau lòng của quý Phật tử vừa hỏi đây thì quý vị cứ KHÓC, nhưng đừng thèm sanh tâm khổ vui, còn mất, qua hay không vượt qua. Cứ ngồi bất động như là một cái thây chết và hãy cứ tỉnh rụi, bình thường. Không kềm (đè nén), đừng muốn nó qua nhanh, nên thả lỏng thân tâm, buông thư mọi tư tưởng, không theo tất cả là được. ĐỪNG MUỐN BỎ. ĐỪNG LẤY VÀO. ĐỪNG PHÂN TÍCH. Không thèm khởi thêm mà có khóc thì cứ để nước mắt tự tuôn chảy một cách bình thường, tự nhiên, không cố cưỡng ép gì cả. Một lát sau, tỉnh dậy, mình vẫn là mình của muôn thuở, đất trời vẫn thế, mọi chuyện đang có cũng bình thường, sẽ cảm thấy không có gì đáng khóc nữa; và mình tự cười với mình. Thế thôi. Nếu đến mức ứa nước mắt thì hãy để cho nó tự nhiên khóc kiểu đó đi rồi sẽ thấy.

 

Nhớ là đừng phân tích đúng sai, cũng không mong được an lạc, đừng thấy có khổ đau... chẳng can thiệp gì đến nó cả. Cũng không thèm chia sẻ với ai. Bởi chia sẻ là mong người khác cảm thông, như thế sẽ khiến cho chúng ta bị yếu đuối và đã dùng tâm vọng động sanh diệt nữa rồi, sẽ không chiến thắng được nỗi lòng đang có. Nói chung là KHÔNG LUÔN tất cả mọi thứ, không còn có chỗ cho tâm sanh khởi, chỉ là thẳng đến chỗ vô sanh kia thì mới trị dứt hẳn được bệnh trầm kha của sanh diệt này. Đây là một sự thật mà quý Thầy đã may mắn có được vài lần kinh qua, và thấy: “Sở dĩ hôm nay mình cảm thấy may mắn là bởi trước kia mình không được may mắn như mọi người”. Đã từng bất hạnh cho nên hôm nay mới có nhiều điều may mắn vô giá không thể có được trong những thuận duyên.

 

2. TRANH THỦ HỌC LẤY KINH NGHIỆM

 

Đặc biệt ở điểm kinh nghiệm thứ hai là không thèm (không có tâm) muốn nghịch cảnh qua nhanh. Vì khi muốn nó qua là đã biến nó trở thành đối thủ nghịch lại với mình và cảm thấy nặng nề. Không những thế, đặc biệt hơn là chúng ta còn phải bình tĩnh, tranh thủ trải nghiệm để học lấy kinh nghiệm. Vì sẽ không có cơ hội lần thứ hai cho mình học nữa. Nếu như giả lập để học lấy kinh nghiệm thì đó chỉ là một trận chiến giả định. Do đó, kinh nghiệm ấy không phản ánh đúng như một sự kiện thật mà chính mình đang đối diện, cho nên sẽ chỉ là kinh nghiệm và nội lực hư ảo mà thôi. Còn đây là cảnh thật, người thật, việc thật, sự kiện (trận chiến) đang xảy ra thật, tâm thái mình đang diễn tiến một cách trung thực nhất, vì thế kinh nghiệm được phản ánh chính xác, là kinh nghiệm thực, không phải do giả định mà có. Khi đang trong tình cảnh buồn đau như là một thách thức đối trước thảm bại, chúng ta lại tranh thủ trải nghiệm để học lấy kinh nghiệm. Như thế là đã biến thách thức thành cơ hội, những thương đau bỗng trở nên nhẹ nhỏm, lý thú. Giống như ăn ớt tuy cay mà rất ngon, thám hiểm tuy hiểm nguy, nhưng lại thú vị. Và như thế, chúng ta đã khéo biến nghịch duyên thành sự lý thú và hấp dẫn của riêng mình.

 

Cứ làm kinh động mãi thì chúng ta chỉ thấy con rùa như một đống nhựa cứng ngắt. Như thế sẽ bị nhầm, không có cơ hội thấy hết sự thật. Nhưng nếu để yên, bình lặng thì mới thấy hết chân, đuôi, đầu, mắt, miệng và cả đến dáng dấp bò đi của một chú rùa là như thế nào nữa. Trong cuộc sống, một đôi khi cũng bị người khác hiểu lầm, chưa thông cảm, vu oan... cũng là chuyện thường. Chúng ta không thèm minh oan hay phân bua gì cả. Cứ để yên, bình thường coi như không có chuyện gì xảy ra để xem coi sự đời diễn tiến đến đâu. Thử đem chuyện này đặt vào một ngàn năm sau coi ai mất, ai còn, điều gì sai, cái gì là đúng? Mình đã thật sự khế hợp với chân lý thì muôn đời vẫn là đúng. Dù cho có chết đi ở nơi này rồi sanh lại ở chốn kia và cho đến mãi ngàn sau, chân lý vẫn là chân lý. Đâu cần ai biết! Ở nơi này, nơi khác, hay có đến bất cứ nơi đâu, và dù có chết đi nữa thì sự thật muôn đời vẫn luôn là một sự thật, không mất. Đặc biệt là, khi không thèm sanh tâm khởi ý muốn nghịch duyên qua nhanh hay không qua, khi chúng ta càng bất động, thanh tịnh chừng nào thì định lực, trí tuệ, phước đức của mình càng lớn, mọi việc được sắp lại trật tự một cách nhanh chóng mà hữu hiệu đến không ngờ. Thử dụng công rồi sẽ thấy.

 

Định lực, phước đức và trí tuệ càng lớn thì tập nghiệp, báo chướng tự tiêu dung. Đó là cách triệt tiêu tận gốc rễ mọi thứ ân oán. Ngược lại, nếu cứ can thiệp triệt tiêu trực tiếp trên tướng của nó thì chỉ là trên nghiệp chướng lại tạo thêm nghiệp, chỉ càng chồng chất lớn thêm báo chướng mà thôi. Không sanh tâm khởi ý, không làm gì hết thì ngay đó là đã thực làm, là thực hành đến chỗ vô sanh, làm đúng chỗ rốt ráo mà Phật Tổ muốn chỉ, là tu hành đúng đắn, chân thật. Cho nên nói “vô tác thị hành” là vậy. Ngược lại, vừa khởi tâm muốn làm gì đó thì đã có công, có dụng, có hạnh, có tu… Tất cả đã có tạo tác, rơi vào sanh diệt, không tiêu dung được nghịch duyên phiền não một cách triệt để. Người đã sống được trọn vẹn bằng chỗ vô sanh thì tự biết, không còn bàn nói. Chúng ta là những người còn là phàm phu, đang trên đường còn tu tập thì nên dụng công như vậy là tốt.

 

Khi thấy rõ TẬP KHÍ PHIỀN NÃO là một đống sanh diệt, không thật thì nó trở thành tầm thường. Nó cũng chỉ là một thứ đang đối diện như bao chiếc lá chúng ta vẫn đang đối diện hằng ngày đó thôi, không có gì ghê gớm phải đặt ra cả. Mất mình, nhìn theo bên ngoài thì chiếc lá và phiền não có khác. Nhớ lại mình thì tất cả cùng chung một tính chất là thứ đang đối diện, ngoài mình, cùng thuộc vô thường biến hoại, có gì bền chắc? Chỉ là đừng gặm nhấm, cố giữ thì chỉ với thời gian nó cũng đã tan rã, rục thối, không còn. Huống nữa là dụng tâm đến chỗ “không còn sanh khởi” thì mọi thứ nương vào đâu để tồn tại? Chỉ trừ khi nào muốn níu kéo, ấp ủ thì còn chủng tử nghiệp thức, mới còn giữ lại trong mình. Còn không thèm lấy, không thèm bỏ, không tất cả những đối đãi hai bên thì không còn có chỗ cho nó vin vào để tiếp tục. Như thế là nhân duyên với nhau không còn và nó sẽ vĩnh viễn từ giã ra đi. Rất đơn giản. Giống như đối trước một vật thể rắn đang bay đến, nếu muốn hứng đỡ để đôi co thì bị tốn sức, vất vả, hiểm nguy. Nếu không thèm để ý, chỉ phớt qua; vẫn tỉnh sáng thấy hết mọi chuyện mà coi như không thấy gì cả, rồi nghiêng người lách nhẹ, vật thể trôi qua một cách nhẹ nhàng mà không đụng đến mảy lông. Niềm đau nỗi buồn cũng tương tự. Chỉ thực hành đúng pháp, điều còn lại là cần có thời gian. Có thể ban đầu còn thấy đau thương, nhưng thời gian sau sẽ thấy “Không còn gì đáng nói”.

 


Chương 3: MỘT SỐ KỸ THUẬT CẦN LƯU Ý KHI HẠ THỦ DỤNG CÔNG TU THIỀN.

 

I. TRƯỚC KHI CHUẨN BỊ TỌA THIỀN.

Để công phu tọa thiền thuận lợi, không bị những gì ngoài mong muốn, chúng ta cần lưu ý một số điểm cơ bản sau:

1. Chuẩn bị trước khi ngồi thiền.

Sau khi ăn khoảng 1,5 - 2giờ mới tọa thiền. Nếu ăn no và ngồi ngay thì sẽ cảm thấy nặng nề, không thông, dễ bị hôn trầm (ngủ trong mờ mịt), hoặc có cảm giác bị đau bao tử. Nếu hôm nào ăn nhiều dầu, chất béo thì ngồi thiền cảm thấy bị nặng nề, không sáng. Nếu ăn đồ ngọt nhiều thì ngồi thiền sẽ bị đau chân hơn bình thường, có khi như dao cắt. Ăn các thức ăn thanh đạm, hoặc chua thì ngồi cảm thấy nhẹ nhàng hơn.

Trước giờ ngồi thiền khoảng 30 phút, không nên đọc sách hay làm bất cứ gì. Lúc này như đã đi vào công phu tu tập. Chỉ thư giãn hoặc kinh hành nhẹ nhàng. Đến Thiền đường sớm hơn để đi kinh hành nhẹ trước khi vào ngồi, đừng tranh thủ trong nóng vội. Các động tác sau đó như là lễ Phật, vào thiền... tất cả đều phải thật nhẹ nhàng, khoan thai, không rời tâm giác thì bắt chân lên ngồi sẽ được an liền. Nếu không chuẩn bị tốt, gần đến giờ ngồi thiền vẫn còn tranh thủ làm một số công việc hoặc đọc sách. Khi biết đã kề cận giờ rồi thì vội vàng đi lấy bồ đoàn tọa cụ và ngồi trong tranh thủ. Khi ấy, sẽ cảm thấy hơi thở nặng nề, không thông, không sâu, cứ như thở hổn hển ngang ngực. Kế đến sẽ nhúc nhích, rồi nặng hơn là trạo cử, bất ổn, nhọc nhằn, không công phu được nữa.

2. Vị trí ngồi thiền.

Nếu có bóng đèn sau lưng chiếu lên mình và đổ bóng đen trước mặt, sẽ khiến cho hành giả không sáng, dễ buồn ngủ. Nếu có bóng đèn quá sáng chiếu thẳng vào mặt sẽ khiến cho khô mắt, khó chịu, không an. Rất kỵ gió thổi hay quạt gió từ sau lưng, đặc biệt là vùng vai gáy, hoặc gió thổi thẳng trực diện vào mặt. Nếu có gió thổi hoặc để quạt xoáy thẳng vào những vùng này sẽ sanh nhiều bệnh khó lường, có thể không tiếp tục công phu được nữa. Tốt nhất nên có cái khăn khoác lên che vùng vai gáy. Nếu ngồi gần khe cửa nhỏ để gió lò vào cũng rất nguy hại, sẽ trúng gió và bị đau như cắt sau đó.

II. ĐANG KHI NGỒI THIỀN.

1. Tư thế ngồi thiền.

Phải ngồi thiền đúng pháp như trong sách “Phương pháp tọa thiền” Hòa thượng Tông chủ đã hướng dẫn. Nếu cố gượng ngồi cho thẳng đến mức bị ễnh ngực ra trước, thời gian sau sẽ bị triệu chứng nổi sân, bực bội vô cớ, không có nguyên nhân. Thấy cái gì cũng tự bực mình. Nên chỉnh lại tư thế ngồi và buông thư cho khoan thai. Nếu ngồi khom lưng thì sẽ bị ứ trệ hơi ở vùng bụng, lâu ngày có cảm giác như đau bao tử. Nên chỉnh thân ngồi thẳng và hít sâu, thở sạch để xả sạch hơi bị ứ trệ ra ngoài. Nếu ngồi nghiêng và chồm về bên trái của phía trước thì sẽ bị đau thắt lưng bên phải, và ngược lại. Nên kiểm tra để điều chỉnh kịp thời, đừng để lâu quá sẽ khó điều trị. Tất cả chỉ cần chỉnh lại thế ngồi cho thật ngay ngắn, khoan thai, đúng pháp; hít thở cho thông thì sẽ giải quyết được mọi chướng ngại.

-           Nếu chú tâm quá thì sanh hoa mắt, đầu bị căng, mất ngủ...

-           Nếu công phu kềm tâm sẽ có dáng ngồi hơi chồm về trước, lâu ngày hơi tức ngực, nghe có cảm giác tê và nặng sau lưng. Thời gian sau sẽ bị nặng trĩu như có hòn đá đè trên lưng, khó thở. Cần chỉnh lại thế ngồi cho ngay ngắn, hít thở cho thông, buông thư thân tâm, sẽ khỏi.

-           Hai ngón tay cái chạm nhẹ vào nhau. Nếu chạm mạnh quá sẽ bị nóng ở hai đầu ngón tay này. Nếu hở ra thì biết lúc đó bị bất giác, sẽ bị không thông, tâm không vững, lực bị thiếu, công phu không đắc lực...

-           Mắt khép hờ, không gượng. Nếu hơi buồn ngủ thì mở to ra. Nếu bị loạn động hoặc khô mắt thì nhắm lại.

-           Chót lưỡi chạm với bên trong chân hàm răng trên. Lưu ý, làm sao để lưỡi được thư thả, tự nhiên, bình thường. Nếu hơi gượng, gồng, co cong lưỡi... sẽ bị chảy nước bọt, khô cổ họng.

-           Kéo chân sát nhưng không chạm vào da bụng. Nếu chân chạm vào da bụng sẽ bị nóng và buốt da.

2. Rời các cực đoan.

Khi công phu, không kềm, đè nén vọng tưởng; cũng không lơ đễnh buông thả tâm miên man bất định. Kềm đè thì rơi vào cố chấp, tạo tác sanh diệt. Buông thả tâm lờ đờ thì rơi vào vô minh. Rời hai cực đoan này là trung đạo; khéo sống ngay đó là dụng công tu hành đích thực, sẽ có hiệu quả đắc lực.

Đã có hành giả vì ham tu cho nên dụng công theo kiểu hơi kềm, trong vi tế có hơi cố giữ tâm để được an tịnh. Lâu ngày nghe có dấu hiệu hơi nặng và tức trước ngực. Thời gian sau thì có cảm giác hơi ê sau gáy và hai bả vai. Lâu sau nữa như có tảng đá to đè nặng lên lưng và cổ; bị tê buốt, nặng nề, khó thở, không thông, không thể tiếp tục công phu. Khi chỉnh lại tư thế, buông thư từ thân đến tâm, hơi thở suốt thông, thời gian sau mới khỏi. Khi kềm kẹp, đè nén, buộc tâm thì người ngồi căng cứng và hơi gập về phía trước một chút, không ngay thẳng, thong dong. Nhận ra dấu hiệu này là biết công phu có kềm đè và buộc tâm, nên chỉnh lại cho ngay thẳng, buông thư, suốt thông để tránh các tác dụng phụ không tốt. Với người lơ đễnh, thả tâm lờ đờ trong vô định thì tâm không sáng, ngồi được một lát sẽ ngủ gật gù, vô ký.

III. CÁC LƯU Ý KHÁC.

-        Nên xem kỹ phần hướng dẫn tọa thiền của Hòa Thượng Tông chủ để ngồi cho đúng pháp.

-        Thời gian ngồi: Nên ngồi tăng dần 5 đến 10 phút sau 1 hoặc 2 tuần. Không nên tăng đột ngột, hôm sau sẽ không ngồi được nữa, có khi bỏ cuộc.

-        Quy trình tiến bộ như hình xoắn ốc. Khi xuống (đau chân hoặc chướng ngại) là lúc chuẩn bị tiến lên, nếu có sự kiên trì, cố gắng, không bỏ cuộc.

-        Có khi đang ngồi, chân tự bung ra trước khi mình nhận biết, hoặc mới ngồi đã đau chân một cách vô lý. Đó là giai đoạn khó khăn tồi tệ mà ai ngồi thiền cũng sẽ gặp. Không nản, phải ngồi đó cho đến hết giờ mới đứng dậy, kiên trì như vậy một thời gian ngắn thì sau đó sẽ tiến bộ vượt bậc.

v Nhớ yếu chỉ:

-               Thông thì không bị đau hay ngăn trệ gì cả. Bị đau hay ngăn trệ là do không thông.

-               Buông rũ xuống hết, sẽ rỗng lặng à Thông suốt à Ngồi được lâu.

-               Khéo buông xuống à sẽ rỗng lặng, vỡ vụn à sẽ an nhiên + giác sáng, công phu sẽ đắc lực.

IV. CÁC BƯỚC CĂN BẢN CẦN BIẾT KHI THỰC TẬP TỌA THIỀN.

1. PHÁP SỔ TỨC.

Chỉ ứng dụng khi tọa thiền hoặc ngồi yên tĩnh, không vận hành, hoạt động hay sinh hoạt gì.

Cách thực hành:

- Ban đầu mới vào thiền, khi đã ngồi ngay ngắn và đúng tư thế, hành giả sẽ hít sâu, thở sạch 3 lần để xả sạch và lưu thông hơi thở. Cụ thể, hít thật sâu vào bằng mũi, há miệng và thở sạch ra bằng miệng. Hít thở 3 lần như thế.

- Kế đến, ngậm miệng lại, hít vào bằng mũi và thở ra cũng bằng mũi; nghĩa là hít thở bình thường. Hít vào bình thường, thở ra bình thường, đếm 1; hít vào thở ra đếm 2, hít thở bình thường như thế đếm 3, ... đếm đến 10 thì bỏ và bắt đầu đếm lại từ 1 cho đến 10...

- Trong khi đếm, nếu bị lộn hoặc quên số thì bỏ qua, bắt đầu đếm lại từ số 1.

- Trong suốt thời gian tọa thiền, chỉ có đếm số hơi thở như là máy móc, đơn điệu, không khởi tưởng làm thêm gì. Chỉ lưu ý là phải luôn tỉnh sáng và rõ biết; không theo niệm tưởng, không mê mờ.

Quán sổ tức thành công:

Khi ngồi cảm thấy trong người thanh thản, hơi thở nhẹ mà suốt thông, vọng tưởng thưa và bớt chi phối, tâm khinh an. Hơi thở và số đếm tự lưu thông, không lẫn lộn số đếm. Như vậy là đã có vốn, có nền tảng căn bản để tiến lên phương pháp tùy tức. Nếu thời khóa ngồi thiền ổn định theo từng ngày, không bỏ công phu thì giai đoạn này thực tập khoảng từ sáu tháng đến một năm. Khi sổ tức, rất dễ đạt được định mất thân, bặt niệm tưởng, mất hơi thở nhưng suốt thông hơn bình thường, hành giả không nên chấp vào đó lấy làm sở đắc, phải khéo léo điều hòa thì sẽ có những bước tiến tốt. Nếu chấp chặt vào, thời gian sau sẽ bị bệnh, không thể tiếp tục công phu được nữa. Nếu trình được với vị Thầy sáng đạo và có kinh nghiệm để được chỉ dạy thì công phu sẽ tốt.

2. PHÁP TÙY TỨC.

Tuy sổ tức đã thành thục, nhưng tâm chưa đủ thuần cho nên cần có một khoảng thời gian để thực hành phương pháp tùy tức.

Cách thực hành:

Hơi thở ngắn hay dài, đến đâu, hành giả nhận biết rõ ràng. Có hai phương cách:

  • Nếu tâm còn thô, hơi thở còn nặng nề, vọng tưởng còn nhiều: Thì thực hành theo cách hơi thở đến đâu, biết đến đó. Gần như là còn biết về, biết theo hơi thở. Nếu chằm chằm biết theo hơi thở đến mức độ kềm, đè, cố gắng quá mức sẽ có tác dụng phụ như ran ngực, căng người...
  • Khi tâm đã an, thân tâm đều an ổn, nhẹ nhàng:Khi tọa thiền, hơi thở nhẹ mà tự nhiên, bình thường. Hành giả chỉ an ngay chỗ đang thông suốt, tự sáng biết rõ ràng, cùng một lúc biết hết tất cả một cách rõ ràng, chủ động nhưng không động, như đứng lầu cao nhìn xuống, cùng lúc đồng thời thấy biết hết muôn vật. Lúc này không cần biết về hay biết theo hơi thở nữa.

Thông thường thực hành phương pháp tùy tức rất dễ khiến cho cảm thấy an và buồn ngủ, hôn trầm, vô ký... Do đó, hành giả chỉ ứng dụng phương pháp này trong một thời gian ngắn khoảng 3 – 6 tháng thì chuyển qua pháp Tri vọng (Biết vọng không theo).

3. PHÁP TRI VỌNG.

Sổ tức và tùy tức là hai phương pháp bổ trợ khi hành giả còn sơ cơ. Tri vọng mới bắt đầu đi vào công phu chính.

Cách thực hành:

* Buổi đầu: Ngồi yên tĩnh, đúng pháp. Chỉnh thân ngay ngắn, buông hết mọi thứ bên ngoài, buông thân, buông tâm... Tất cả nhất thời buông xuống hết, sao cho thông suốt là tốt. Vọng tưởng khởi lên, biết bình thường, không theo, không dẹp, không đè nén, không đuổi theo vọng tưởng.

* Thời gian sau có lực: Khi biết vọng là mình đang tự sáng biết chứ không phải biết theo vọng. Cụ thể, thân tâm thơ thới, sáng biết rõ ràng. Khi chưa có vọng niệm vẫn một tánh sáng tự suốt thông biết rõ như thế. Khi vọng khởi lên, tánh thấy biết ấy cũng như thế, không vì có vọng mà cái biết bị thay đổi. Rồi vọng có lặng hay không lặng, chúng ta không quan tâm, chỉ là một tánh sáng biết không đổi thường hằng như vậy. Đó là khéo an ngay tự tánh sẵn sáng biết mà không biết về hay biết theo vọng tưởng.

Tránh các sai lầm:

Một phen thấu tột vọng tưởng là huyễn hóa, không thật rồi thì mặc định nó là thứ không ra gì, chúng ta chỉ ngồi yên, tỉnh sáng và đừng lao theo nó để thêu dệt là đang công phu. Không phải đọc câu: “Tôi biết đó là vọng tưởng nên tôi không theo”.

Buổi đầu hành giả thường đợi vọng lên liền khởi biết về vọng, đó là biết theo đuôi vọng, như là ngồi rình để đếm vọng tưởng chứ không phải Tri vọng đúng pháp. Biết như thế là đã quên mình mà theo vọng tưởng, bị vọng tưởng dụ dỗ mình biết theo nó. Khi ở bên ngoài tiếp xúc nhiều thì chưa thấy được tác hại. Cho đến khi vào môi trường chuyên tu miên mật, cắt hết duyên, vọng tưởng sẽ cuộn trào như ghềnh thác, hành giả sẽ bất lực với vọng tưởng ngông cuồng ấy. Lúc này mới thấy, cách “biết theo, biết về vọng tưởng” là không đủ lực để hàng phục được vọng tưởng.

Khi đã thuần thục, lúc này, toàn thể hiện tiền đang sáng biết mà không có tướng phân biệt của tâm hay vọng. Toàn thể đang sáng biết, có vọng niệm hay không có vọng niệm, mình vẫn đang biết rõ ràng mà không động như thế. Lúc này, “toàn biết là chân tâm biết”, bắt đầu chuyển qua công phu “Biết là chân tâm”.

4. BIẾT LÀ CHÂN TÂM: Thế nào là “Cái Biết Chân Tâm”?

Không phải nhất thiết chúng ta phải khởi biết mới biết, không phải bao giờ biết cũng là khởi biết; không phải nhất thiết đợi có đối tượng mới biết, không cần đối tượng mà chúng ta vẫn đang sẵn sáng biết. Khi tự sáng biết mà không phải biết về vật, biết về vọng, về pháp hoặc biết về bất cứ gì, thường suốt thông và hay vượt qua tất cả, không dừng trụ vào đâu cả, không động mà hằng suốt biết như thế, đây là “Chân tâm biết”, “Biết là chân tâm”. Cái biết này không chờ có cảnh mới biết. Nó tự sáng biết, không động nhưng linh thông đến chủ động vô ngần.

5. KẾT LUẬN: Khéo léo vận dụng công phu, không chấp trước, sai lầm.

Đây là 4 phương pháp Hòa thượng Tôn sư, Tông chủ Thiền phái Trúc Lâm Việt Nam (Thích Thanh Từ) đã phương tiện lập bày chỉ dạy cho chúng ta. Bốn con đường này không thấp không cao. Nó là trình tự căn bản cần thiết cho một hành giả từ khi mới vào thực tập thiền cho đến khi thuần thục. Muốn không bị các chướng ngại trong công phu để tu hành được tiến bộ thì phải thực hành đúng kỹ thuật, đúng pháp Hòa thượng Tôn sư đã dạy. Đi đúng pháp mới tiến đạo, mới có ngày sáng đạo. Nếu vượt bậc, bỏ băng, thực hành sai thì sau này bị tắc nghẽn, chữa trị hơi khó. Công phu tọa thiền muốn tiến bộ, cần phải có thời khóa để thực hành một cách đều đặn, thường xuyên; không để gián đoạn lúc này ngồi, lúc khác nghỉ.

Ngộ đạo không phải do làm, do tính toán mà dụng công đúng pháp, khi thời tiết nhân duyên chín muồi, tâm kia tự bùng vỡ. Do đó, có khi không phải đợi đi qua hết 4 bước này mới ngộ đạo. Chưa sáng đạo thì phải công phu tuần tự như trên để có căn bản, để tiến đạo. Nhân duyên chín muồi thì tâm thể bừng sáng vào bất cứ lúc nào, ở bất cứ nơi đâu, không nằm trong sự tính toán của thức tình nghĩ tưởng. Biết vậy, học phương pháp để khéo dụng công, để trở về nhận lại tâm mình chứ không dính chấp vào phương pháp. Ứng dụng phương pháp nhưng không được chấp công phu mà luôn dụng thẳng đến tự tánh, đến thấy biết chân tâm chưa từng sanh diệt. Khéo thấy biết như thế thì công phu không bị kẹt giữa đường, sẽ tiến thẳng đến đại đạo.

Tâm vốn vô tướng, không giới hạn, không có một khuôn mẫu nào, do đó pháp cũng không cố định. Cùng thờ một Thầy, cùng học một pháp, nhưng khi dụng công thì sự tiến triển, chuyển biến không ai giống với bất kỳ ai cả. Chính trên một con người, nhưng trong 100 thời tọa thiền, không có thời nào xảy ra giống với thời thiền nào cả. Do đó, không phải ai tu cũng được thuận duyên dễ dàng mà có người thuận và nhiều người không được thuận. Chẳng phải ai cũng gian nan vất vả, cũng không phải ai hạ thủ công phu, muốn tiến bộ đều bắt buộc phải trải qua các chướng bệnh ngăn ngại như nhau. Nhiều người suôn sẻ do túc duyên tu đúng và kiếp này khéo léo dụng công. Nhưng cũng có nhiều vị thiếu suôn sẻ do tâm không bình tĩnh, dụng công không khéo léo của quá khứ và hiện tại. Tất cả đều do mỗi người tự tu, tự điều chỉnh. Nếu quyết chí kiên trì không nản, bình tâm điều chỉnh công phu thì tất cả đều được tiến bộ tốt đẹp.

 Tâm đã vốn lưu thông và linh động thì hành giả học pháp, ứng dụng công phu cũng phải tinh tế, khéo léo để điều hòa thân, tâm và công phu sao cho khế với bản tâm vô tướng trùm khắp, lặng sáng, linh thông, chủ động nhưng không động như thế. Việc này cần thoát hết suy nghĩ của phàm tình ưa và không ưa, hợp với tôi và không hợp, để nhận ra pháp, để rèn luyện và quyết chí tiến tu chứ không phải đi tìm điều hợp với mình cho an ổn.

  1. V.  KHI ĐẠT ĐỊNH CỦA BUỔI BAN ĐẦU.

-               Khi đạt định đặc biệt buổi đầu, không nên kể cho người khác biết, nếu kể sẽ mất định. Chỉ thưa trình với vị Thầy sáng mắt, có kinh nghiệm để được hướng dẫn, tránh các sai lầm để công phu được tiến bộ.

-               Khi mới tiến bộ như thế, người rất khinh an, thân tâm mất sạch. Nếu không giữ gìn kỹ, sau một thời gian dễ bị cảm cúm, cơ thể yếu ớt.

-               Lúc đạt định, thân, tâm và hơi thở đều dứt bặt, nhưng thông suốt và an lạc diệu thường. Do vậy cho nên hành giả thích ngồi thiền nhiều, bỏ cả ăn và ngủ nghỉ, không vận động... Thời gian sau do thân không theo kịp tâm do đó bị mất thăng bằng, sẽ bị hoang mang đến độ không còn tự chủ nữa, dẫn đến bất an, bị bệnh.

-               Nên điều hòa để giữ gìn công phu tốt thì mới thăng tiến, không bị trở ngại.

Nên biết, đạo là nơi nơi sáng sạch không ngăn ngại. Vậy tại sao giỏi nhịn ăn mà không giỏi ăn, giỏi ngồi thiền thấy an mà không giỏi không ngồi, giỏi thức khuya tọa thiền thâu đêm mà không giỏi nghỉ ngơi hợp lý?... Những câu hỏi này thích hợp cho hành giả đã đạt đến định này, ham ngồi thiền mà không điều hòa được đúng với trung đạo, chứ không thích hợp cho những ai còn tham uống ăn, thích ngủ nghỉ, lười ngồi tu. Và gợi ý trả lời ở đây là đạo không ở trên các tướng mà hay tự tại vào được các tướng không ngăn ngại, nhưng vẫn an nhiên bất động, không có tướng ra vào. Nếu còn kẹt một tướng dù đó là tọa thiền, còn trú một nơi dù đó là thân tâm an lạc thì đạo ấy chưa trùm khắp, còn ở đây có ở kia không, chưa phải rốt ráo chân thật; đều là kẹt giữa đường, sẽ đưa đến bệnh hoạn. Nếu suốt thông tất cả thì tại sao không khéo điều hòa để thân ổn, tâm an, công phu không kẹt vào sở đắc, để được tiến xa hơn, không bị các trở ngại giữa đường khiến phải bế tắc?

VI. TÓM KẾT

-               Thông thì bất thống: Thông suốt thì không bị ngăn trệ, không bị đau.

-               Trở ngại là do còn bị ngưng trệ.

1. Đối với người mới dụng công, chưa đạt định, nếu có các trở ngại là do chưa thông. Chỉnh lại cho thông suốt thì mọi khó khăn sẽ hết.

2. Với hành giả mới lần đầu đạt định không thân, nếu không khéo dụng công cũng sẽ bị ngưng trệ, từ đó căn thức biến hiện làm trở ngại công phu.

* Ngưng trệ: Ví như ly sữa nóng vắt chanh vào và bị óc trâu, còn lợn cợn giữa sữa đã kết tủa và nước trong, chưa được tách hẳn ra cho sạch. Lúc này đục thì không còn nặng nề và vẩn đục, nhưng trong thì chưa phải được lọc xong, mà chính là đang ở giai đoạn chuyển hóa chưa trọn vẹn. Hành giả không còn chút gì cảm giác của nặng nề như phàm tục. Vẫn nhẹ nhàng như mất hết trọng lượng, không còn gì. Nhưng với công phu thì bị trở ngại, hoang mang; chỉ muốn ngồi thiền, xả thiền thì không chịu được. Từ thân thể đến tinh thần đều bị tiều tụy dần, bạc nhược cho đến khi không còn làm chủ được mình nữa và rơi vào nguy hiểm.

* Biến hiện: Thức thần ngấm ngầm tự biến hiện chứ không phải khởi tưởng có hiểu biết. Nó không giống như chúng ta chủ động khởi tưởng để nhận thức hiểu biết rồi thành hình, mà nó tự ngầm biến hiện tinh vi, tự mình thấy hiện lên bằng mắt, nghe bằng tai. Vì quá tinh vi cho nên bản thân hành giả không hề biết là do thức biến hiện. Cụ thể khi đang nghe pháp hoặc gặp quý Thầy, nó sẽ biến hiện khiến chúng ta nhìn thấy quý Thầy lớn có ánh sáng, hào quang, hoặc như đang ở trong cõi nước lưu ly sáng ngời, trong ngần của Phật... Hoặc hiện có các thần thông, có các tướng lớn, nhỏ, đen, vàng; nghe các âm thanh mà không phải do bản thân muốn nghe thấy...

* Cách điều trị: Nếu dụng công đúng pháp, khéo điều hòa tốt sinh hoạt, không theo bất kỳ tướng lạ gì bên ngoài, không chấp vào sở đắc thì không bị rơi vào các trở ngại trên. Nếu có các ngăn ngại trên thì phải nhận ra nguyên nhân là do bị ngưng trệ, do căn thức biến hiện, hay bản thân mình đã không khéo điều hòa, hoặc đã chấp vào đâu... Nhận ra, ngay chỗ vướng mắc để khéo léo điều chỉnh lại. Với thân thì khéo léo vận động điều hòa cho tốt. Buông thư, không trụ chấp, không để ý đến tất cả âm thanh sắc tướng, có hay không cũng không thèm quan tâm. Chỉ giữ tâm cho thật vững, giác sáng rõ ràng, không chấp vào sở đắc, theo thời gian công phu sẽ tốt. Nếu có bậc Thầy sáng mắt chỉ điểm thì sẽ tốt hơn.

3. Nương thở, trụ tâm, buộc niệm, chấp vào chỗ an ổn và khỏe mạnh.

Có người nương vào hơi thở để buộc niệm, trụ tâm và thấy thân khỏe, tâm an rồi giữ mãi ở chỗ đó. Đó là bị ru ngủ, là tìm chỗ yên thân thôi. Nếu chấp chặt và dừng trụ ở đó mãi, tọa thiền như thế thì chỉ như là một phương pháp dưỡng sinh chứ không phải tu thiền. Vì không phát minh được trí tuệ chiếu phá sanh tử để dứt sạch vô minh, đau khổ.

4.  Học Thiền cần có bậc thầy sáng mắt (sáng tâm, ngộ đạo).

-               Dạy thiền cần phải khế lý và khế cơ. Vị Thầy sáng đạo sẽ xem xét căn cơ người học để hướng dẫn đúng pháp, thích hợp thì việc tu tập mới tiến bộ.

-               Google không quán được căn cơ, không làm thay được việc của bậc Thầy sáng đạo.

5. Sám hối lỗi lầm.

Tàm quý (hổ thẹn) là gốc của mọi công đức lành. Không có tâm tàm quý, các công đức lành sẽ mất. Hổ thẹn ăn năn với lỗi lầm đã lỡ tạo để thành tâm sám hối, việc làm này sẽ giúp cho hành giả thanh tịnh và thuận lợi trong lúc hạ thủ công phu, không bị tâm ân hận, hối lỗi làm chướng ngại.

Vừa lỡ lầm lỗi, phải xin lỗi với người mà mình đã phạm lỗi với họ, hoặc thành tâm sám hối, sửa sai để tâm được trở nên thanh tịnh. Nếu không như thế, khi công phu miên mật hoặc có duyên vào nhập thất chuyên tu, các lỗi lầm sẽ hiện về khiến chúng ta ăn năn, bất an, chướng ngại. Vì khi thô tâm thì dễ phạm lỗi và cũng vì thô tâm cho nên không thấy đó là lỗi lầm, hoặc thấy và xem nhẹ; cho nên mới gọi là mê, dẫn đến lầm. Cho đến khi dụng công tu tập miên mật, tâm được thanh tịnh, trở nên thánh thiện, cao thượng thì sẽ không chấp nhận lỗi lầm dù là nhỏ nhất. Là bậc có trí tuệ, sẽ luôn dọn sạch tâm của mình, không để vết sơ thất nào tồn tại.

Cũng cần lưu ý là chỉ thấy lỗi lầm và thành tâm sám hối một cách tha thiết thôi. Còn lại vẫn giữ vững công phu, tâm vẫn an định, sáng suốt chứ không phải ân hận sâu quá, khổ đau, bi ai quá, để tâm ăn năn nhiều ngày quá; như thế sẽ khiến cho tâm bị nhũn lại, yếu ớt, mê mờ, mất tự chủ và bị sai lầm sau đó. Trong Kinh Lăng Nghiêm gọi là bị ma bi nhập tâm, là bị bệnh.

6. Không theo tướng lạ bên ngoài.

Khi tọa thiền, nếu thấy các tướng lạ hay ánh sáng bên ngoài, hành giả không được mừng, hoặc sợ, hoặc khởi tâm cho là đã chứng đắc. Như thế sẽ sanh bệnh. Khi nghe bất kỳ âm thanh gì, hoặc thấy ánh sáng, hào quang, hay gặp bất kỳ cảnh tượng nào hiện ra, đều biết là cảnh bên ngoài, đều thuộc huyễn hóa, không thật. Không chấp, không mừng, không sợ, mà chỉ giữ tâm cho thật vững chãi, an định, giác sáng và rất đỗi bình thản. Không theo nó cũng không cần đuổi dẹp nó, bởi đuổi dẹp sẽ không thành công. Nó hết hay còn đều không quan tâm, không quan trọng; như thế thời gian sau nó sẽ tự hết lúc nào cũng chẳng rõ. Nếu còn cố tâm làm gì thì nó sẽ có giá trị và không hết được. Bởi lúc này, tất cả hiện tượng trên đều do căn thức biến hiện. Không phải có ý khởi tưởng của ý thức khởi nghĩ phân biệt thô phù; mà đây là do cái căn thức ngủ ngầm tự nó chủ động biến hiện một cách rất vi tế mà tâm thô không thể phát hiện hay làm chủ được. Chỉ khi qua rồi mới tỏ rõ và có kinh nghiệm. Kinh Lăng Nghiêm, đức Phật dạy:

Nhược khởi thánh giải,

Tức thọ quần tà.

Bất khởi thánh tâm,

Tức thiện cảnh giới.

Tức là, nếu khởi tâm cho là chứng đắc gì đó thì liền bị sai, rơi vào bệnh hoạn. Còn không khởi thêm gì cả thì tất cả đều là cảnh giới tốt. Nghĩa là không khởi thêm gì cả, chỉ là để tâm vào công phu an định giác sáng thôi thì sẽ tốt, không có gì làm trở ngại; chứ không phải nghĩ đó là cảnh giới tốt, nghĩ như thế là đã ngầm chấp cho mình đạt được gì đó, cũng sẽ bị bệnh.

 

 

 

 

Gá thân mộng
Dạo cảnh mộng
Mộng tan rồi
Cười vỡ mộng

Ghi lời mộng
Nhắn khách mộng
Biết được mộng
Tỉnh cơn mộng

HT Thích Thanh Từ
a

Bài đọc nhiều nhất

Thống kê truy cập

366362
Hôm nay
Hôm qua
Tuần này
Tuần trước
Tháng này
Tháng trước
Tất cả
2853
3888
17731
335955
65370
88584
366362